Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân cao đẳng điều khiển tàu biển theo hệ tín chỉ tại trường cao đẳng hàng hải i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.51 KB, 90 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo cử nhân Cao đẳng Điều khiển tàu biển theo hệ tín chỉ tại
Trường Cao đẳng Hàng hải I” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tài liệu tham khảo và nội dung
trích dẫn đảm bảo sự đúng đắn, chính xác, trung thực và tuân thủ các quy định
về quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 10 tháng 3 năm 2015
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Hùng

i


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian nỗ lực, cố gắng nghiên cứu một cách nghiêm túc, luận
văn “Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân Cao đẳng
Điều khiển tàu biển theo hệ tín chỉ tại Trường Cao đẳng Hàng hải I” đã
được hoàn thành đúng thời hạn.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS. TS.
Phạm Kỳ Quang đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, động viên và cung cấp tài
liệu cho tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy giáo, cán bộ, chuyên viên của Viện
Đào tạo sau đại học, khoa Hàng hải, Thư viện,… Trường Đại học Hàng hải
Việt Nam. Đồng thời sự động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp để tôi hoàn thành luận văn cao học theo đúng quy định./.
Hải Phòng, ngày 10 tháng 3 năm 2015


Tác giả

Vũ Ngọc Hùng

ii


MỤC LỤC
1.3. Những vấn đề cần giải quyết đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn
nhân lực Hàng hải ở Việt Nam hiện nay.....................................................17
1.4. Công tác Đào tạo huấn luyện hàng hải ở các quốc gia trong khu
vực, trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay...................................................20
1.4.1. Trung Quốc...........................................................................................21
1.4.2. Hàn Quốc .............................................................................................24
1.4.3. Trường SUNY Maritime – Mỹ ............................................................24
1.4.4. Nhật Bản...............................................................................................25
1.4.5. Singapore .............................................................................................26
1.4.6. Hệ thống các cơ sở đào tạo, huấn luyện hàng hải ở Việt Nam.............26
2.2.2. Đánh giá về đội ngũ giáo viên.........................................................52
2.2.3. Đánh giá về đội ngũ sinh viên.........................................................56
* Những thế mạnh của sinh viên Khoa điều khiển tàu biển...........................56
* Những hạn chế của sinh viên sau khi tốt nghiệp........................................57
2......................................................................................................................58
2.2.4. Đánh giá về cơ sở vật chất và tài liệu phục vụ công tác Đào tạo.58
Đánh giá về công tác biên soạn bài giảng, giáo trình.....................................60
3.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy.............................................................63
3.2. Đổi mới phương pháp học tập của sinh viên...........................................65
3.3. Xây dựng quy hoạch và phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên của
Khoa Điều khiển tàu biển.............................................................................66
3.3.1. Nâng cao vai trò của giảng viên cố vấn học tập...................................66

3.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên chất lượng..................................68
3.4.1. Nâng cao cơ sở vật chất phục vụ công tác Đào tạo – huấn luyện........70
3.4.2. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý sinh viên khoa Điều khiển tàu biển
.........................................................................................................................71
iii


3.4.3. Đẩy mạnh hợp tác về Giáo dục và Đào tạo, chủ động hội nhập quốc tế
về lĩnh vực huấn luyện Hàng hải.....................................................................74

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU
Chữ viết tắt
BCN
CVHT
DWT
GDP
GD & ĐT
GTVT
GVCVHT
HHVN
ISO
IMO
KIMFT

MARPOL 73/78

MLC 2006

NN&PTNT
PSC

STCW 78/95
THKTNV

Giải thích
Ban chủ nhiệm
Cố vấn học tập
Deadweight
Trọng tải toàn phần
Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội
Giáo dục và Đào tạo
Giao thông vận tải
Giảng viên cố vấn học tập
Hàng hải Việt Nam
Quy trình quản lý chất lượng
International Martime Organization
Tổ chức hàng hải quốc tế
Korea Institude of Maritime and Fisheries Technology
Học viện Hàng hải và đánh cá Hàn Quốc
International Convention for the Prevention of
Pollution From Ships, 1973 as modified by the
Protocol of 1978
Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển
1973, được sửa đổi bởi Nghị định thư 1978
Maritime Labour Convention 2006
Công ước Lao động Hàng hải 2006
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Port State Control

Thanh tra chính quyền cảng
Quyết định
International Convention on Standards of Training
Certification and Watchkeeping for Seafarers:
Công ước quốc tế về tiêu chuẩn đào tạo, huấn luyện,
cấp chứng chỉ và trực ca cho thuyền viên 78/95
Trung học kỹ thuật nghiệp vụ

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
1.1
1.2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.13
Bảng 2.12
Bảng 3.1


Tên bảng
Trang
Thời gian đào tạo hàng hải Singapore theo các cấp
24
Thống kê thời gian đào tạo chính quy các bậc học hàng
26
hải tại Việt Nam
Thời gian đào tạo thiết kế
31
Chương trình khung đào tạo Cao đẳng Điều khiển tàu biển
31
theo hệ tín chỉ
Kế hoạch giảng dạy học kỳ I
40
Kế hoạch giảng dạy học kỳ II
43
Kế hoạch giảng dạy học kỳ III
43
Kế hoạch giảng dạy học kỳ IV
44
Kế hoạch giảng dạy học kỳ V
45
Kế hoạch giảng dạy học kỳ VI
46
Bảng chuyển đổi thang điểm theo hệ tín chỉ
47
Bảng quy đổi thang điểm chữ và số
49
Bảng 2.11 Phân bố số lượng cán bộ, giảng viên theo Tổ
54

môn
Kết quả học tập sinh viên
58
Số lượng sinh viên Khoa Điều khiển tàu biển từ 2008 ÷
56
2013
Dự kiến kế hoạch bồi dưỡng trình độ khoa học và
57
chuyên môn cho cán bộ, giảng viên 2015 ÷ 2020

vi


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
1.1
1.2
2.1
3.1

Tên hình
Mô hình đào tạo của ngành hàng hải tại Nhật Bản
Các trường đào tạo, huấn luyện hàng hải ở Việt Nam
hiện nay
Sơ đồ tổ chức khoa Điều khiển tàu biển
Mô hình công tác quản lý sinh viên khoa Điều khiển tàu
biển

vii


Trang
23
25
40
71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc tạo ra giá trị vật chất và giá trị văn hóa cho quốc gia đó. Việc phát huy
tối đa nguồn nhân lực, không ngừng mở rộng số lượng, nâng cao chất lượng
để đem lại sức mạnh cho đất nước. Cho nên cần có biện pháp cụ thể sử dụng
hiệu quả nguồn nhân lực, nhằm đạt được mục tiêu ở từng giai đoạn nhất định.
Trong quản lý nguồn nhân lực, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
đóng vị trí then chốt, nhằm mục đích phát huy hết khả năng tiềm ẩn trong mỗi
con người, góp phần tăng cường sức mạnh và đóng góp của cá nhân cho tổ
chức, cho quốc gia. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực hàng
hải ở nước ta hiện nay càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, từng bước
thực hiện thành công nghị quyết hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương
Đảng khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 [8]. Theo đó, ngành
hàng hải có vai trò rất lớn và mang tính quốc tế hóa cao. Mục tiêu phát triển
kinh tế biển đến năm 2020 là kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp 50 ÷
55% tổng GDP của cả nước, trong đó ngành hàng hải có vị trí hàng đầu. Một
trong những mục tiêu ngành hàng hải cần tập trung thực hiện đó là đào tạo,
huấn luyện để phát triển nguồn nhân lực vận tải biển như sau:
Nâng cao chất lượng và mở rộng các hình thức đào tạo, huấn luyện
nguồn nhân lực hàng hải theo hướng bảo đảm cân đối giữa đào tạo lý thuyết
với huấn luyện thực hành; tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện
nhằm đáp ứng đầy đủ nguồn nhân lực đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế biển

và kinh tế hàng hải nói riêng.
Cung cấp đủ lực lượng lao động làm việc trong các lĩnh vực của ngành
hàng hải và các ngành liên quan khác của kinh tế biển: dầu khí, thuỷ sản, du
lịch, nghiên cứu biển, khảo sát và thăm dò tài nguyên biển,...; tăng nhanh số
1


lượng thuyền viên và những người lao động khác thuộc ngành hàng hải xuất
khẩu làm việc ở nước ngoài phù hợp với nhu cầu trong từng giai đoạn.
Phát triển bảo đảm chất lượng, uy tín của các trường đại học, cao đẳng,
trung học và những cơ sở đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực hàng hải khác
trong cả nước. Phấn đấu phát triển hệ thống đào tạo, huấn luyện nguồn nhân
lực hàng hải của Việt Nam tiến tới ngang tầm với hệ thống đào tạo, huấn
luyện hàng hải có uy tín, chất lượng của các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới.
Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước,
cũng như nhiệm vụ mà Bộ giao thông vận tải (GTVT) đã giao, để đào tạo,
huấn luyện nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng được nhu cầu phát triển của
đất nước nói chung và ngành hàng hải nói riêng, trong những năm qua, công
tác đào tạo và huấn luyện của Trường Cao đẳng Hàng hải I không ngừng phấn
đấu, đổi mới để vươn lên, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đã đạt
được thành tựu đáng kể đóng góp nguồn nhân lực dồi dào cho nền kinh tế của
đất nước và ngành hàng hải. Chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao,
quy mô đào tạo ngày càng lớn mạnh.
Đặc biệt trong những năm học gần đây, thực hiện theo Quyết định số
43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT)
[11], khoa Điều khiển tàu biển, Trường Cao đẳng Hàng hải I đã chuyển từ
hình thức đào tạo theo niên chế sang hình thức đào tạo theo hệ tín chỉ. Do nhà
trường mới chuyển sang đào tạo theo hệ tín chỉ từ năm học 2013 - 2014 nên
còn tồn tại một số vấn đề như: Phương pháp giảng dạy mang tính chất truyền

thống, chưa phát huy được hiệu quả của phương pháp học tập tích cực mà đào
tạo theo hệ tín chỉ mang lại, sinh viên hạn chế về tính chủ động, sáng tạo
trong học tập đặc biệt là khả năng tự học, kỹ năng thực hành chưa được cải
thiện, tinh thần gắn bó với nghề chưa cao, chưa có tính chuyên nghiệp, yếu về
2


ngoại ngữ, khả năng sử dụng tin học còn chậm,… gây thiệt hại cho chủ tàu,
công ty cho thuê tàu và người lao động. Tinh thần và thái độ đôi khi thiếu
nhiệt tình, thiếu tác phong công nghiệp,… các chủ tàu thường đào tạo và huấn
luyện lại gây ra sự lãng phí lớn về thời gian và kinh tế.
Chính vì thế việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân Cao đẳng Điều khiển tàu biển theo hệ
tín chỉ tại Trường Cao đẳng Hàng hải I” mang ý nghĩa thời sự và có tính cấp
thiết, phù hợp với xu thế phát triển chung của ngành hàng hải, đáp ứng được
nhu cầu đòi hỏi thực tiễn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Xác định cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về vấn đề chất lượng đào tạo,
huấn luyện hàng hải.
Phân tích, đánh giá chất lượng đào tạo cử nhân Cao đẳng Điều khiển
tàu biển hiện nay về: Nội dung, chương trình đào tạo; đội ngũ giảng viên; đội
ngũ sinh viên; cơ sở vật chất,... để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo cử nhân Cao đẳng Điều khiển tàu biển theo hệ tín chỉ tại Trường Cao
đẳng Hàng hải I phù hợp với công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sinh viên và giảng viên khoa Điều
khiển tàu biển, Trường Cao đẳng Hàng hải I. Ngoài ra, tham khảo ý kiến đội
ngũ lao động ngành Điều khiển tàu biển sau khi tốt nghiệp làm việc trong và
ngoài nước, đội ngũ thuyền viên, sỹ quan làm việc tại các công ty vận tải biển
trong nước và xuất khẩu.

Từ đó, dự đoán có cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá chất lượng,
chương trình đào tạo hiện nay, đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo theo hệ thống tín chỉ.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
3


Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu quy định, nghị quyết, giáo
trình, tài liệu, luật, bộ luật, tiêu chuẩn đánh giá, quy trình quản lý chất lượng
(ISO),...
Phương pháp nghiên cứu bổ trợ: Thống kê, biểu bảng, hình vẽ...
Từ những nghiên cứu trên, tác giả luận văn đã tiến hành phân tích, đánh
giá thực trạng công tác đào tạo, huấn luyện sinh viên Điều khiển tàu biển; đối
chiếu, so sánh với tiêu chuẩn về kiến thức, năng lực theo quy định của công
ước STCW 78/95 sửa đổi 2010, kết hợp tham khảo các chương trình mẫu của
IMO, chương trình đào tạo của một số quốc gia trong khu vực và trên thế
giới; áp dụng phương pháp tiếp cận mục tiêu để xây dựng mới chương trình
đào tạo, huấn luyện sinh viên Điều khiển tàu biển một cách toàn diện nhằm
thỏa mãn mục tiêu đã đề ra, phù hợp với thực tiễn đòi hỏi, đáp ứng sự phát
triển của ngành hàng hải Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học
Cơ sở từ chương trình khung đào tạo cao đẳng điều khiển tàu biển theo
hệ tín chỉ đã sửa đổi theo công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010 và cơ sở pháp
lý của việc nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện hàng hải ngành Điều
khiển tàu biển, phù hợp với xu thế phát triển, xu thế hội nhập, từng bước tiến
tới đạt chuẩn chất lượng quốc tế về đào tạo, huấn luyện hàng hải để xây dựng
thành chương trình khung đào tạo cao đẳng Điều khiển tàu biển theo hệ tín
chỉ.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phát huy những ưu điểm của chương trình đào tạo cử nhân Cao đẳng
Điều khiển tàu biển theo hệ tín chỉ hiện nay, đánh giá kết quả học tập, đánh
giá chất lượng đào tạo, huấn luyện. Từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao
4


chất lượng đào tạo sinh viên ngành Điều khiển tàu biển tại Trường Cao đẳng
Hàng hải I phù hợp với thực tiễn, đáp ứng sự phát triển của ngành Hàng hải
Việt Nam.
Thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng, tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống
trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục thực hiện: “Chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa” tạo điều kiện cho sinh viên ra trường nói riêng và người lao động
nói chung có nhiều cơ hội tìm việc làm. Góp phần hoàn thành mục tiêu,
nhiệm vụ của Trường Cao đẳng Hàng hải I về đào tạo, huấn luyện hàng hải.

5


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGÀNH
ĐIỀU KHIỂN TÀU BIỂN
1.1. Căn cứ pháp lý để xây dựng chương trình đào tạo theo hệ tín chỉ
Theo quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 về
việc đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Đây là
phương pháp đào tạo lấy người học làm trung tâm, người học là người tiếp
nhận kiến thức nhưng đồng thời cũng là người chủ động tạo kiến thức cho nên
phát huy được tính chủ động sáng tạo của người học, hướng tới đáp ứng
những nhu cầu của thị trường lao động ngoài xã hội.
Ngày 01/01/2012, Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010 bắt đầu có hiệu

lực. Đây là công ước quốc tế quan trọng về đào tạo, huấn luyện và cấp chứng
chỉ chuyên môn cho thuyền viên của tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO), bắt
buộc các quốc gia thành viên của công ước phải tuân thủ, trong đó có Việt
Nam.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện thuyền viên và đáp ứng
yêu cầu của Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010, ngày 16/02/2012, Bộ
GTVT ra quyết định số 317/QĐ-BGTVT thành lập hội đồng thẩm định các
chương trình đào tạo, huấn luyện thuyền viên theo Công ước STCW 78/95
sửa đổi 2010. Trước đó, Bộ GTVT đã có chỉ thị về việc nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, huấn luyện thuyền viên đáp ứng yêu cầu của Công ước
STCW 78/95 sửa đổi 2010.
Theo đó, Bộ GTVT yêu cầu Cục Hàng hải Việt Nam (HHVN) hoàn
thiện dự thảo (lần 2) 04 thông tư thay thế các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến công tác đào tạo, huấn luyện thuyền viên, trình Bộ GTVT và Bộ Y
tế thẩm định, ban hành.
Căn cứ các tiêu chuẩn về đào tạo, huấn luyện thuyền viên quy định tại
Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010 và các văn bản quy phạm pháp luật của
6


Việt Nam liên quan được ban hành trước ngày 01/4/2012 để hoàn thành đề án
triển khai Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010 nhằm đáp ứng yêu cầu của
Công ước, trình Bộ GTVT trước ngày 01/5/2012.
Bên cạnh đó, Cục HHVN tiếp tục nghiên cứu, đổi mới công tác quản lý
thuyền viên; bồi dưỡng, thi và cấp giấy chứng nhận khả năng chuyên môn cho
thuyền viên đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng, đảm bảo khách quan
trong thi, kiểm tra và tạo thuận lợi cho các thuyền viên, doanh nghiệp trong
việc cấp, đổi, gia hạn giấy chứng nhận khả năng chuyên môn; phối hợp với
các cơ quan liên quan tuyên tuyền, phổ biến về những sửa đổi của Công ước
STCW 78/95 tới các chủ tàu, thuyền viên sau khi các văn bản quy phạm pháp

luật về việc triển khai Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010 được ban hành.
Trong Chỉ thị về việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, huấn luyện
thuyền viên đáp ứng yêu cầu của Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010, Bộ
GTVT yêu cầu cơ sở đào tạo, huấn luyện thuyền viên cần khẩn trương triển
khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng (ISO) trong cơ sở đào tạo, huấn
luyện thuyền viên trước ngày 01/7/2012; chuẩn bị đội ngũ giáo viên, giáo
trình, tài liệu giảng dạy, cơ sở vật chất để đáp ứng yêu cầu của Công ước
STCW 78/95 sửa đổi 2010.
Các cơ sở đào tạo phải dự thảo báo cáo gửi IMO về nội dung công việc
được phân công và gửi Cục HHVN để tổng hợp trước ngày 01/7/2012; triển
khai đào tạo, huấn luyện thuyền viên theo đúng các chương trình đào tạo,
huấn luyện được Bộ GTVT ban hành.
Hàng năm, các cơ sở đào tạo, huấn luyện thuyền viên tổ chức đánh giá
nội bộ về việc thực hiện Công ước STCW 78/95 sửa đổi 2010; đẩy mạnh sự
phối hợp giữa các cơ sở đào tạo, huấn luyện thuyền viên trong nước và hợp
tác quốc tế trong đào tạo, huấn luyện thuyền viên.

7


Trường Đại học Hàng hải Việt Nam, Trường Cao đẳng Hàng hải I
chuẩn bị để Hội đồng thẩm định của Bộ GTVT tổ chức họp thẩm định chương
trình đào tạo, huấn luyện đã được giao; tiếp thu ý kiến góp ý của hội đồng
thẩm định để hoàn thiện dự thảo và trình Bộ GTVT ban hành.
Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, huấn luyện thuyền viên là nhiệm
vụ quan trọng nhằm thực hiện khâu đột phá về cung cấp nguồn nhân lực hàng
hải chất lượng cao, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn
hàng hải.
1.2. Phương pháp đào tạo theo học chế tín chỉ
Tín chỉ là một phương thức đào tạo có nhiều ưu thế so với phương thức

đào tạo truyền thống, được áp dụng từ lâu tại các nước tiên tiến trên thế giới.
Tại Việt Nam cách đây một vài năm đã có một số trường đại học chủ động áp
dụng phương thức đào tạo tiên tiến này.
1.2.1. Lịch sử của giờ tín chỉ
Trước hết cần phải khẳng định rằng phương thức đào tạo theo tín chỉ là
sản phẩm trí tuệ của người Mỹ [21], được hình thành và phát triển để phục vụ
cho các mục đích cụ thể của nền giáo dục nước này. Theo thời gian, từ lúc tín
chỉ khởi đầu được thiết kế ra để chuẩn hóa những thước đo khả năng học tập
của học sinh phổ thông trung học, đáp ứng số lượng học sinh trung học phổ
thông ghi danh vào học đại học ngày càng tăng, đến nay nó đã được phát triển
và trở thành một hệ thống đào tạo, một thước đo toàn diện trong giáo dục đại
học ở Mỹ.
Vượt ra ngoài biên giới nước Mỹ, đào tạo theo tín chỉ bắt đầu được áp
dụng mạnh mẽ trước hết ở các nước Tây Âu từ những năm 1960. Trước đó,
chương trình truyền thống trong các trường đại học ở Châu Âu, đặc biệt là ở
Tây Âu hầu như do giáo viên quyết định. Nó có xu hướng áp đặt, có rất ít khả
năng cho người học lựa chọn các học phần. Hơn 40 quốc gia Châu Âu có các
8


cơ sở đào tạo đại học, vì vậy việc áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ
cũng khác nhau. Trong nhiều nước, đặc biệt là các nước Bắc Âu các chương
trình đại học được mô tả theo tín chỉ tương đương với những gì được mô tả
trong các chương trình đại học ở Mỹ. Ở Phần Lan chẳng hạn, “độ dài của các
chương trình cử nhân được tính theo tín chỉ (opintoiikko, nghĩa đen là "tuần
học tập"). Một tín chỉ (1 tuần học tập) gồm khoảng 40 giờ làm việc trong đó
bao gồm các hoạt động như giảng bài của giáo viên và các hình thức hoạt
động khác như thảo luận, làm bài tập, xêmina, tự học ở nhà hay trong thư
viện,.... Số tín chỉ một sinh viên tích lũy để được cấp bằng cử nhân là 120.
Thụy Điển cũng phát triển hệ thống điểm tín chỉ (poang) dựa trên hệ thống

điểm tín chỉ của Mỹ trong đó một tín chỉ bao gồm khoảng 40 giờ học tập và
số lượng tín chỉ một sinh viên phải tích lũy để được cấp bằng cử nhân là 120
÷ 140. Hệ thống tín chỉ ở các nước như Hà Lan, Na Uy và Băng Đảo cũng
tương tự như vậy, với khối lượng học tập của sinh viên trên một học kì được
tính theo đơn vị tín chỉ (vettall) ở Na Uy, điểm học tập (studiepunten) ở Hà
Lan và tín chỉ học tập (namseiningar) ở Băng Đảo. Tuy nhiên, ở Băng Đảo,
do phần nhiều lượng thời gian học tập được thực hiện trong bóng tối, cho nên
việc học toàn thời được tính là 50 giờ một tuần chứ không phải là 40 như các
nước khác. Ở Pháp, người ta cũng sử dụng đơn vị tín chỉ (unite de valeur –
nghĩa đen là đơn vị giá trị) để đo khả năng hoàn thành công việc học tập của
sinh viên theo học kì cho cả khối những học phần bắt buộc và khối những học
phần lựa chọn. Ở Anh, người ta còn đi xa hơn nữa, một mặt họ áp dụng
phương thức Đào tạo theo tín chỉ, mặt khác họ chủ trương môđun hóa toàn bộ
chương trình Đào tạo đại học.
Ở Châu Á, tín chỉ cũng được áp dụng mạnh mẽ, bắt đầu từ Nhật Bản,
Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Phillipine, Trung Quốc. Phương thức đào tạo theo tín chỉ cũng được áp dụng
9


mạnh mẽ ở các nước thuộc Khối Liên hiệp Anh ở Nam Thái Bình Dương như
Australia, New Zealand,...
Việc áp dụng hệ thống đào tạo theo tín chỉ phản ánh quan điểm lấy
người học làm trung tâm, người học là người tiếp nhận kiến thức nhưng đồng
thời cũng là người chủ động tạo kiến thức, hướng tới đáp ứng những nhu cầu
của thị trường lao động ngoài xã hội. Nó cho phép họ chọn trong số những
học phần được thiết kế trong chương trình, nhiều trong số những học phần đó
có thể thay thế được với nhau và hữu ích như nhau.
1.2.2. Khái niệm tín chỉ
Trong kho tàng các tư liệu nghiên cứu, có khoảng hơn 60 khái niệm về

tín chỉ. Có khái niệm coi trọng khía cạnh định tính, có khái niệm coi trọng
khía cạnh định lượng, có khái niệm nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh
viên, có khái niệm lại nhấn mạnh vào các mục tiêu của một chương trình học.
Một khái niệm về tín chỉ được các nhà quản lí và các nhà nghiên cứu giáo dục
ở Việt Nam biết đến nhiều nhất có lẽ là của học giả người Mỹ gốc Trung
Quốc James Quan thuộc Đại học Washington. Trong buổi thuyết trình về hệ
thống đào tạo theo tín chỉ tại Đại học Khoa học Công nghệ Hoa Trung, Vũ
Hán mùa hè năm 1995, học giả James Quan trình bày cách hiểu của ông về tín
chỉ như sau [21]:
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một học phần cụ thể, bao gồm: (1) thời gian lên
lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác
đã được quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên
cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; đối với các học phần lí thuyết
một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần và kéo
dài trong một học kì 15 tuần; đối với các học phần ở studio hay phòng thí

10


nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối với các môn
tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần.
Có bảy điểm cần phải làm rõ từ khái niệm về tín chỉ như sau:
Thứ nhất, hoạt động dạy - học theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình
thức: lên lớp, thực hành, và tự học. Trong ba hình thức tổ chức dạy - học này,
hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giáo viên và sinh
viên (giáo viên giảng bài, hướng dẫn, sinh viên nghe giảng, thực hành, thực
tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, ...), hình thức thứ ba không có sự tiếp
xúc trực tiếp giữa giáo viên và sinh viên (giáo viên giao nội dung để sinh viên
tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành). Ba hình thức tổ chức dạy - học này

tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và
giờ tín chỉ tự học. Theo đó, một giờ tín chỉ lên lớp bao gồm 1 tiết (50 phút)
giáo viên giảng bài và 2 tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở nhà; một giờ tín
chỉ thực hành bao gồm 2 tiết giáo viên hướng dẫn, điều khiển và giúp đỡ sinh
viên thực hành, thực tập và và 1 tiết sinh viên tự học, tự chuẩn bị; và một giờ
tín chỉ tự học bao gồm 3 tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành
theo những nội dung giáo viên giao và những gì sinh viên thấy cần phải
nghiên cứu hoặc thực hành thêm (những hoạt động học tập này có thể được
thực hiện ở nhà hoặc ở trong phòng thí nghiệm, trong studio,...).
Thứ hai, trong ba hình thức tổ chức dạy - học, cụ thể là trong ba kiểu
giờ tín chỉ, lượng kiến thức sinh viên thu được có thể khác nhau nhưng để
thuận tiện cho việc tính toán (giờ chuẩn cho giáo viên, kinh phí cho từng học
phần, nhân lực để phục vụ cho dạy - học,...), ba kiểu giờ tín chỉ này được coi
là có giá trị ngang nhau.
Thứ ba, có hai thuật ngữ dễ gây nhầm lẫn; đó là, một giờ tín chỉ (a
credit hour) và một tín chỉ (a credit). Trong cách hiểu của chúng ta hiện nay,
tín chỉ và giờ tín chỉ là hai khái niệm có nội dung khác nhau. Theo đó, một tín
11


chỉ gồm 15 giờ tín chỉ, thực hiện trong một học kì, kéo dài 15 tuần, mỗi tuần
01 giờ tín chỉ.
Thứ tư, có thể có những học phần chỉ gồm một kiểu giờ tín chỉ, nhưng
có thể có những học phần gồm nhiều hơn một kiểu giờ tín chỉ. Trong mọi
trường hợp, công thức tính cho mỗi học phần là không đổi: 1 + 0 + 2 cho học
phần thuần lí thuyết, 0 + 2 + 1 cho học phần thuần thực hành, thực nghiệm, và
0 + 0 + 3 cho học phần thuần tự học.
Thứ năm, người học trong phương thức đào tạo theo tín chỉ được cấp
bằng theo hình thức tích lũy đủ tín chỉ. Theo thông lệ chung của Giáo dục đại
học ở Mỹ, một sinh viên được cấp bằng cử nhân khi anh ta tích lũy được 120

÷ 140 tín chỉ.
Thứ sáu, khái niệm tín chỉ trên mới chỉ đo năng lực học tập của người
học thông qua thời lượng và theo số lượng tín chỉ được tích lũy, nó chưa đo
được các mục tiêu hay chất lượng đầu ra của quá trình học tập. Tuy nhiên,
người học được cấp bằng không phải chỉ phụ thuộc vào số tín chỉ mà họ tích
lũy đủ mà còn phục thuộc vào điểm trung bình chung quy định cho từng học
kì, từng kiểu văn bằng (cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ). Những quy định này
phần lớn là do từng trường đại học quyết định.
Đặc điểm cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là, khác với
phương thức đào tạo truyền thống, phương thức đào tạo theo tín chỉ xem tự
học như là một thành phần hợp pháp trong cơ cấu giờ học của sinh viên:
ngoài việc nghe giảng và thực hành trên lớp, sinh viên được giao những nội
dung để tự học, tự thực hành, tự nghiên cứu; những nội dung này được đưa
vào thời khóa biểu để phục vụ cho công tác quản lí và quan trọng hơn, chúng
phải được đưa vào nội dung các bài kiểm tra thường xuyên và bài thi hết học
phần.
1.2.3. Những lợi thế của phương thức đào tạo theo tín chỉ
12


Như có thể thấy, trong phương thức đào tạo truyền thống, một chương
trình cử nhân gồm từ 200 ÷ 210 đơn vị học trình, mỗi đơn vị học trình gồm 15
tiết tiếp xúc trực tiếp trên lớp giữa giáo viên và sinh viên (tương đương với
3000 ÷ 3150 tiết). Đây là một chương trình được cho là “lấy công làm lãi”,
chú trọng vào việc nhồi kiến thức của giáo viên sang sinh viên, không tính
đến thời lượng tự học của sinh viên và do đó bỏ qua khả năng tự học, tự tìm
tòi và phát triển tri thức của họ. Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, tự
học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi trọng được tính vào nội dung và
thời lượng của chương trình. Đây là phương thức đưa giáo dục đại học, cao
đẳng về với đúng nghĩa: người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét

kiến thức của người dạy, và do đó, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của
người học. Đây là lợi thế thứ nhất của phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Lợi thế thứ hai của phương thức đào tạo theo tín chỉ liên quan đến độ
mềm dẻo và linh hoạt của chương trình. Chương trình được thiết kế theo
phương thức đào tạo tín chỉ bao gồm một hệ thống những học phần thuộc
khối kiến thức chung, những học phần thuộc khối kiến thức chuyên ngành,
những học phần thuộc khối kiến thức cận chuyên ngành. Mỗi khối kiến thức
đều có số lượng những học phần lớn hơn số lượng các học phần hay số lượng
tín chỉ được yêu cầu; sinh viên có thể tham khảo giáo viên hoặc cố vấn học
tập để chọn những học phần phù hợp với mình, để hoàn thành những yêu cầu
cho một văn bằng và để phục vụ cho nghề nghiệp tương lai của mình.
Lợi thế thứ ba do chính đặc điểm “tích lũy tín chỉ” trong phương thức
đào tạo theo tín chỉ mang lại. Sinh viên được cấp bằng khi đã tích lũy được
đầy đủ số lượng tín chỉ do trường đại học quy định; do vậy họ có thể hoàn
thành những điều kiện để được cấp bằng tùy theo khả năng và nguồn lực (thời
lực, tài lực, sức khỏe,...) của cá nhân.

13


Lợi thế thứ tư là, phương thức đào tạo theo tín chỉ phản ánh được
những mối quan tâm và những yêu cầu của người học như là những người sử
dụng kiến thức và nhu cầu của các nhà sử dụng lao động trong các tổ chức
kinh doanh và tổ chức Nhà nước.
Lợi thế thứ năm là, như đã đề cập ở trên, phương thức đào tạo theo tín
chỉ hầu như đã trở thành phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Chuyển sang
phương thức đào tạo theo tín chỉ sẽ tạo được sự liên thông ngang, liên thông
dọc trong cùng một cơ sở đào tạo và có thể giữa các cơ sở đào tạo đại học,
cao đẳng trong và ngoài nước.
1.2.4. Vai trò người dạy

Trong phương thức đào tạo truyền thống, người dạy có một số vai trò,
trong đó hai vai trò nổi bật nhất là “người toàn trí” (người biết mọi tri thức về
học phần liên quan) và “người quyết định mọi hoạt động dạy - học trong lớp
học”. Trong vai trò thứ nhất, người dạy được xem như là nguồn kiến thức duy
nhất, và người học chỉ cần tiếp thu được nguồn kiến thức này từ người dạy là
đủ. Trong vai trò thứ hai, người dạy được xem như là người có toàn quyền
quyết định dạy cái gì (nội dung) và dạy như thế nào (phương pháp); người
học được xem là những người nghe giảng bài, ghi chép và học thuộc những gì
được dạy, không được phép can thiệp vào những công việc của người dạy.
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hai vai trò đã nêu ở trên ở một
mức độ nào đó vẫn được duy trì. Tuy nhiên, người dạy phải đảm nhiệm thêm
ít nhất ba vai trò nữa đó là: (i) cố vấn cho quá trình học tập; (ii) người tham
gia vào quá trình học tập; và (iii) người học và nhà nghiên cứu.
Với tư cách là cố vấn cho quá trình học tập, khi giảng bài cũng như khi
hướng dẫn thảo luận, người dạy phải chọn những vấn đề cốt lõi, quan trọng để
giảng mà nếu không có người dạy thì người học khó có thể lĩnh hội được, tạo
điều kiện cho người học tiếp thu và khám phá tiếp kiến thức.
14


Trong vai trò của người tham gia vào quá trình dạy - học, người dạy
hoạt động như là một thành viên tham gia vào quá trình học tập ở trên lớp với
các nhóm người học. Với tư cách vừa là cố vấn vừa là người tham gia vào quá
trình học tập, người dạy còn có thêm một vai trò bổ sung nữa; đó là, nguồn
tham khảo cho người học, giúp họ tháo gỡ những khó khăn trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Trong vai trò là người học và người nghiên cứu, với tư cách là một
thành viên tham gia vào các hoạt động học tập ở trên lớp, người dạy, ở một
mức độ nào đó, có điều kiện trở lại vị trí của người học, hiểu và chia sẻ những
khó khăn và trách nhiệm học tập với họ. Có thực hiện được vai trò của người

học thì người dạy mới có thể phát huy được vai trò tích cực của người học,
lựa chọn được phương pháp và thủ thuật giảng dạy phù hợp. Ngoài ra, thông
qua nghiên cứu, người học sẽ ý thức được rằng dạy - học là một nhiệm vụ liên
nhân, một nhiệm vụ mà cả người dạy và người học đều có trách nhiệm tham
gia, trong đó học có vai trò trung tâm, dạy có vai trò hỗ trợ, và mục tiêu học
tập chi phối toàn bộ quá trình dạy - học.
1.2.5. Vai trò của người học
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, người học phải được tạo điều
kiện để thực sự trở thành người đàm phán tích cực và có hiệu quả:
(i) với chính mình trong quá trình học tập;
(ii) với mục tiêu học tập;
(iii) với các thành viên trong nhóm và trong lớp học;
(iv) với người dạy.
Sinh viên đại học, cao đẳng trong xã hội hiện đại không chỉ là những
người thu nhận kiến thức thụ động từ giáo viên và từ sách vở mà điều quan
trọng là họ phải là những người biết cách học như thế nào. Kiến thức thường
được xác định lại khi sinh viên khám phá nhiều hơn về nó và trong khi xây
15


dựng kế hoạch học tập cho riêng mình, sinh viên có thể nhận ra rằng các
chiến lược học tập trước đó của họ có thể không còn phù hợp nữa và có thể bị
thay thế bằng các chiến lược học tập mới phù hợp hơn. Quá trình điều chỉnh
này được gọi là quá trình đàm phán với chính mình trong quá trình học tập để
đạt được những mục tiêu mà học phần đề ra. Hơn nữa, học không hoàn toàn
là một hoạt động cá nhân; nó xảy ra trong một môi trường văn hóa xã hội nhất
định trong đó sự tương tác giữa những người học với nhau có vai trò hết sức
quan trọng trong thu nhận và tạo kiến thức. Xem học như là một vấn đề cá
nhân thì không khác nào xem quá trình này xảy ra trong chân không, và có lẽ
cách nhìn này không phù hợp với thế giới hiện đại, một thế giới trong đó hội

nhập và toàn cầu hóa đang đang là xu thế tất yếu. Thực tế này yêu cầu ng ười
học phải có thêm một vai trò nữa đó là vai trò của người cùng đàm phán trong
nhóm và trong lớp học. Vì dạy - học theo trường lớp thường là một quá trình
cộng sinh, cho nên ngoài những vai trò đã kể trên, người học trong phương
thức đào tạo theo tín chỉ còn phải đảm nhiệm thêm một vai trò quan trọng nữa
đó là: người tham gia vào môi trường cộng tác dạy - học. Trong vai trò này,
người học được xem như là một thành phần hợp pháp trong quá trình dạy học. Họ hoạt động vừa như là những cộng sự với người dạy trong việc xác
định nội dung và phương pháp giảng dạy, vừa như là người cung cấp thông
tin phản hồi về bản thân mình như là những người học (trình độ, khó khăn,
thuận lợi, nhu cầu, chờ đợi, mong muốn về học phần,...) cho người dạy để
người dạy có thể điều chỉnh nội dung, phương pháp và thủ thuật giảng dạy
phù hợp, tăng hiệu quả dạy - học.
1.2.6. Các nhược điểm của học chế tín chỉ
Qua các khảo sát và báo cáo của các trường, học chế tín chỉ vẫn còn
nhiều điểm tồn tại như sau:

16


Cắt vụn kiến thức: Phần lớn các modul được quy định khá nhỏ, cỡ 3
hoặc 4 tín chỉ, nên không có đủ thời gian để trình bày kiến thức đầy đủ.
Khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên: Vì các lớp học theo Modul
không ổn định, khó xây dựng các tập thể gắn kết chặt chẽ nên việc tổ chức
sinh hoạt đoàn thể của sinh viên gặp khó khăn.
Các mô hình đào tạo liên thông giữa các chương trình, các trường trong
và ngoài nước đến nay vẫn chưa có hoặc chưa phát triển mạnh.
Đội ngũ cố vấn học tập còn chưa chuyên nghiệp, chưa phát huy hết vai
trò cố vấn cho người học.
Các hạn chế kể trên cho thấy rằng hệ thống tín chỉ của các trường đại
học, cao đẳng hiện nay ở ta chưa thật sự là các hệ thống có tính “chuyển đổi”

như của các nước. Ngay cả trong giai đoạn hiện nay, khi hệ thống chuyển đổi
tín chỉ đã được phổ biến rộng rãi ở các nước, nhiều trường đại học, cao đẳng
của ta vẫn trong tình trạng “đóng cửa” và loay hoay với những mô hình đã thể
hiện nhiều bất cập của mình. Những áp dụng còn tính chất “nửa vời” hiện nay
cho thấy sự yếu kém của một cơ chế “bao cấp” còn sót lại và sự chưa triệt để
của quyết tâm đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng của chúng ta.
1.3. Những vấn đề cần giải quyết đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân
lực Hàng hải ở Việt Nam hiện nay
Theo số liệu thống kê của Cục Đăng kiểm Việt Nam: “Tại thời điểm
30/4/2013, đội tàu vận tải biển treo cờ Việt Nam có khoảng 570 chiếc, tổng
trọng tải 4,028 triệu DWT.
Riêng tàu của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines, doanh
nghiệp chủ lực trong vận tải biển Việt Nam có khoảng 141 tàu vận tải biển,
tổng trọng tải 2,961 triệu DWT.
Có khoảng 1.140 tàu nhỏ với tổng trọng tải 2,1 triệu DWT (tổng dung
tích đội tàu dưới 14.000) quản lý khai thác. Đó là chưa kể 60 tàu treo cờ nước
17


ngoài với tổng trọng tải 1,1 triệu DWT do các doanh nghiệp Việt Nam mua và
quản lý khai thác”. Từ số liệu trên cho thấy vận tải biển Việt Nam đã phát
triển mạnh trong những năm qua cả về số lượng tàu, trọng tải tàu và cả về các
doanh nghiệp quản lý khai thác vận tải biển, đồng thời cũng cho ta thấy sự
quá manh mún và phân tán của vận tải biển Việt Nam. Sự phát triển quá nóng
và phân tán này đã và đang làm cho vận tải biển Việt Nam phải đối mặt với
nhiều thách thức.
Một trong những thách thức lớn với các chủ tàu Việt Nam đang phải
đối mặt đó là tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực có năng lực
thực sự và có tâm huyết với ngành, với nghề, kể cả nguồn nhân lực làm công
tác quản lý khai thác tàu trong các doanh nghiệp và cả sỹ quan thuyền viên

làm việc trên tàu. Nhiều sỹ quan, thuyền viên được đào tạo chính quy trong
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp,... nhưng chỉ được đào tạo lý thuyết
chưa qua thực hành. Một số sỹ quan, thuyền viên có tay nghề cao, có kinh
nghiệm nhưng không tâm huyết với nghề. Nhiều giám đốc doanh nghiệp vận
tải biển không được đào tạo chuyên ngành, không biết ngoại ngữ. Với gần
100 tàu treo cờ Việt Nam bị PSC lưu giữ ở các cảng nước ngoài trong năm
2012 vì nhiều khiếm khuyết rất đơn giản là minh chứng rất cụ thể cho khẳng
định trên.
Bên cạnh đó, nhiều năm qua các công ty vận tải nước ngoài có nhu cầu
thuyền viên rất lớn từ Việt Nam, họ đã chào mời nhiệt tình nhưng các công ty
xuất khẩu lao động thuyền viên nước ta hiện nay không đáp ứng được số
lượng lớn mà chỉ là con số nhỏ giọt. Hiện không có con số thống kê chính
thức được công bố về thuyền viên xuất khẩu trong những năm qua nhưng theo
tính toán sơ bộ, trên cơ sở số lượng thuyền viên được đào tạo trong toàn quốc
và số thuyền viên đang làm việc trên đội tàu Việt Nam, qua tìm hiểu ở một số
công ty xuất khẩu lao động thuyền viên, thì có thể sơ bộ tổng hợp số lượng
18


×