Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phân tích những khả năng và điều kiện để phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.98 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đã bước sang thế kỉ XXI. Đây là thời kỳ mà các quan hệ quốc tế
đã phát triển tới mức không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống
kinh tế xã hội nào có thể tồn tại và phát triển mà không chịu sự tác động ấy. Việt
Nam đang trên con đường mở cửa nền kinh tế với thế giới bên ngoài, cơ hội đến
với chúng ta nhiều song thách thức cũng lắm. Tác động của nền kinh tế thế giới
tới Việt Nam ngày càng lớn và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
một cao. Điều này đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải có chính sách kinh tế đối
ngoại hợp lý để đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự phát triển
kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan
trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước
ngoài và phát triển du lịch. Thực tế các nước phát triển đi trước đã cho thấy việc
chú trọng đến hoạt động kinh tế đối ngoại trong công cuộc mở cửa hội nhập thị
trường thế giới là hoàn toàn có cơ sở và đúng đắn. Lợi ích kinh tế - xã hộ mà
kinh tế đối ngoại mang lại cho đất nước là hết sức to lớn, đó là sự phát triển sản
xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ,
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân.
Trên cơ sở đó, sau khi học tập môn Kinh tế quốc tế, để có những nhận thức
đúng đắn về chính sách đối ngoại của nước ta hiện nay, em chọn đề tài : “Phân
tích những khả năng và điều kiện để phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của
Việt Nam”

1


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
1 Kinh tế đối ngoại và vai trò của kinh tế đối ngoại:
1.1 Khái niệm:
“Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là


tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia
nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế
khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế”.
Mặc dù kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là hai khái niệm có mối quan
hệ với nhau, song không nên đồng nhất chúng với nhau. Kinh tế đối ngoại là
quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài -với nước khác
hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác. Còn kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh
tế với nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng
quốc tế.
1.2 Vai trò của kinh tế đối ngoại:
Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi
quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực.
Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI)
và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA),
thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ, khai thác và ứng dụng những kinh
nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp
tiên tiến hiện đại.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2


Tất nhiên những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt
động kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức của toàn cầu hoá và giữ
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Sự cần thiết của việc phát triển kinh tế đối ngoại:
Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những
đơn vị độc lập, tự chủ, nhưng phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học - công
nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ những yếu tố khách quan.
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng đối với bất kỳ quốc gia nào sự phát triển kinh tế
đòi hỏi có 16 sản phẩm cơ bản như: Năng lượng, than, dầu thô, khí đốt, sắt,
đồng, chì, kẽm, nhôm, niken, gỗ, lương thực, thiết bị kỹ thuật...
Mặt khác, sự phụ thuộc giữa các quốc gia còn bắt nguồn từ sự phát triển
của lực lượng sản xuất và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới.
Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đều tài nguyên thiên nhiên,
không một quốc gia nào có khả năng tự bảo đảm các sản phẩm cơ bản nói trên.
Mọi quốc gia đều phụ thuộc vào nước ngoài với mức độ khác nhau về các sản
phẩm đó.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển hết sức mạnh mẽ
với những nội dung: tự động hóa; vật liệu mới; năng lượng mới; công nghệ sinh
học; điện tử và tin học; công nghệ vũ trụ và đại dương; nó tạo ra nhiều thành
mọi quốc gia. Nó tạo ra những ngành nghề mới mà không có quốc gia nào trên
thế giới có đầy đủ những yếu tố đầu vào để sản xuất nó. Hơn nữa đầu ra của các
sản phẩm đó cũng không phải tiêu thụ ở trong nước hoặc ở trong một số nước
mà phải tiêu thụ ở nhiều nước. Do đó, sự phát triển cách mạng khoa học công
nghệ thúc đẩy quá trình phân công lao động mở rộng phát triển vượt ra khỏi
phạm vi của từng quốc gia, mang tính quốc tế. Do đó, lực lương sản xuất ngày
càng mang tính quốc tế cao. Các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau trng
quá trình phát triển. Vì vậy, muốn phát triển, muốn nền kinh tế đạt hiệu quả cao,
phát triển bền vững thì các quốc gia phải mở rộng quan hệ kinh tế với vên ngoài.

3



Do lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, tức là trong nền kinh tế lực
lượng sản xuất mang tính quốc tế hóa cao thì các quốc gia đều phát huy những
lợi thế trong nước, tranh thủ các thế mạnh bên ngoài để sản xuất những sản
phẩm chi phí thấp nhất, hiệu quả cao nhất. Lợi thế so sánh tồn tại là khách quan
mà mỗi quốc gia phải lợi dụng để góp phần vào sự phân công lao động và
thương mại quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thế giới muốn phát huy được thế
mạnh, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài thì phải giao lưu, mở rộng kinh tế với
nhau. Đó là xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này được biểu hiện
qua một số hình thức:
Thương mại trong các ngành tăng lên rõ rệt: sau chiến tranh thế giới thứ
hai, cùng với khoa học và công nghệ phát triển, sự phân công quốc tế đã có sự
thay đổi lớn về hình thức, chủ yếu thể hiện ở sự phân công giữa các ngành từng
bước chuyển sang phân công nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành
phát triển rất mạnh đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia.
Khối lượng thương mại trong các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng
mở rộng: cộng đồng kinh tế Châu âu (EEC), hiệp định sản phẩm xã hội Mỹ Canada. Hình thành thị trường thế giới, lấy Mỹ, Châu âu, Nhật Bản làm trung
tâm, và khu vực kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương cũng phát triển nhanh.
Thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng theo ba xu hướng:
Cùng với sự điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và chiến lược kinh tế của các
nước, các nước phát triển sẽ nhanh chóng chuyển vốn, thiết bị và kỹ thuật quá
thừa ra nước ngoài. Còn các nước đang phát triển sẽ tìm cách thu hút thiết bị kỹ
thuật của nước ngoài để phát triển sản xuất, mở rộng kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu bằng sáng chế, phát minh, giấy phép, bản vẽ thiết kế, tổ chức
quản lý… sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng.
Cạnh tranh gay gắt trong thị trường thương mại công nghệ. Trong cuộc
cạnh ấy, các xí nghiệp xuyên quốc gia của các nước phát triển giữ vai trò chi
phối.
Thưong mại phát triển theo hướng tập đoàn hóa kinh tế khu vực, và chịu

tác động bởi các nhân tố:
4


Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Cục diện thế giới thay đổi từ hai
cực sang đa cực, so sánh sức mạnh kinh tế thế giới cũng thay đổi rõ rệt. Để duy
trì lợi ích của mình và củng cố vị trí trong đàm phán nhiều nước đang phát triển
cũng tổ chức các loại hình liên minh kinh tế khu vực. Để đảm bảo sự ổn định và
phát triển hài hòa, các nước phát triển cũng không thể không xây dựng thị
trường chung có tính chất khu vực nhằm điều hòa ngành sản xuất và thương mại
của các nước.
Khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi ngành nghề
trên quy mô thế giới. Tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực mới như dịch vụ, quyền
sở hữu tài sản, trợ thuế ngày càng gia tăng. Vì vậy các nước có tiềm lực kinh tế
lớn muốn lợi dụng hiệp định thương mại song phương để gây sức ép trong đàm
phán thương mại đa phương và ra sức lấy đó làm mẫu mực ký kết hiệp định
thương mại tự do với các nước liên quan.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học
của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm
vi quốc tế được các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh để ra quyết định
lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại (ngoại thương, đầu tư quốc tế, dịch vụ
thu ngoại tệ,…) diễn ra trong điều kiện toàn cầu hóa, khu vực hóa và được biểu
hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong mấy thập niên gần
đây. Lịch sử thế giới chứng minh không có quốc gia nào có thể phát triển nếu
thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao đều là những nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế
trong nước phát triển, biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ để hiện đại hoá nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực
ngoài nước để phát huy các nguồn lực trong nước. Đối với nước ta là một nước
nghèo và kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội còn thấp, nhưng có nhiều tiềm năng chưa được khai thác,
để đảm bảo đường lối xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ với bên ngoài
là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách.

5


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM:
1. Khả năng và điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta:
Có nhiều nguồn lực sản xuất có thể phục vụ cho quá trình phát triển kinh
tế của một quốc gia, có nguồn lực đo, đếm được, song cũng có những nguồn lực
khó đo đếm. Đặc biệt trong điều kiện đất nước mở cửa, tăng cường giao lưu hợp
tác, buôn bán với bên ngoài thì các nguồn lực này có vị trí, thứ bậc khác nhau
trong việc tham gia hình thành giá trị, giá cả sản phẩm. Đó là do có sự khác biệt
giữa các vùng địa lý, kinh tế, lịch sử xã hội và phân công lao động xã hội của
mỗi khu vực và mỗi nước. Vì vậy, đánh giá đúng các nguồn lực sẽ phát huy sức
mạnh của nó và đem lại ích lợi lớn lao cho công cuộc phát triển kinh tế của đất
nước.
Việc đánh giá cũng có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn đều dựa
trên lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricarđô (1772-1823) nhà kinh tế học
người Anh. Lý thuyết này cho rằng trong trao đổi quốc tế thì hai bên đều có lợi.
Tư tưởng lợi thế so sánh đã trở thành quy luật kinh tế nói chung và kinh tế quốc
tế nói riêng được áp dụng cho đến ngày nay. Sau này nhà kinh tế học như Eh.
Heckscher, Bertil Ohlin. Gottfried Haberle, Samuelson... bổ sung hoàn thiện
thành lý thuyết về lợi thế các yếu tố sản xuất và chi phí cơ hội của một sản
phẩm. Tất cả đều thống nhất rằng : thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả
các quốc gia khi mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài dù các nguồn lực sản
xuất trong nước có lợi thế tuyệt đối hay không. Ngày nay mọi lợi thế đều ở trong

thế cạnh tranh giữa các quốc gia. Theo Porter, nhà kinh tế học người Mỹ thì lợi
thế cạnh tranh của một quốc gia được quyết định bởi 6 nhân tố:
a) Các điều kiện sản xuất vốn có (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý...).
b) Các điều kiện thị trường nội địa.
c) Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên đới.
d) Chiến lược và cơ cấu của các công ty; cạnh tranh trong nội bộ ngành.
đ) Chính sách và tác động của Chính phủ.
6


e) Các nhân tố ngẫu nhiên.
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum - WEF) và Viện
phát triển quản lý Quốc tế (International Institute For Management Development
- IMD) người ta dựa vào một loạt các thông số về : tiềm lực kinh tế nội địa, quốc
tế hoá nền kinh tế, chính phủ, tài chính tín dụng, cơ sở hạ tầng... để xếp thứ tự
các quốc gia có lợi thế cạnh tranh. Tuy có một số điểm khác nhau trong đánh
giá, song cả hai cách phân loại trên đều nhất trí về những nhân tố để một quốc
gia có lợi thế cạnh tranh là : nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, Chính phủ, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý v.v...
Ơ nước ta khi đánh giá các nguồn lực sản xuất có lợi thế so sánh để phát
triển kinh tế đối ngoại, người ta thường đề cập đến 3 nguồn lực cơ bản: nhân
lực, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi của đất nước. Theo Porter,
đây cũng là nhân tố đầu tiên để xem xét một quốc gia có lợi thế hay không, và
lợi thế như thế nào so với các nước trên thế giới.
+ Nguồn nhân lực: Hiện nay dân số nước ta hơn 80 triệu người, đứng thứ
13 trên thế giới, trong đó có khoảng 50% là lực lượng lao động. Trung bình mỗi
năm có khoảng trên 1 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Giá lao động
của người Việt Nam khá rẻ. Theo điều tra của công ty Werner International ở 51
quốc gia và lãnh thổ trên thế giới (1996), lương trung bình 1 giờ trong ngành dệt

Việt Nam là 0,39 USD. Đây là mức thấp so với nhiều quốc gia và lãnh thổ khác.
Chỉ số này chỉ bằng 1: 1,18 Indonesia; 1: 1,23 Trung Quốc; 1: 1,49 Â'n Độ; 1:
1,64 Ai Cập; 1: 34 Pháp; 1: 40 Italia; 1: 65,7 Nhật Bản v.v... Điều đó tạo ra lợi
thế cho Việt Nam khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Người Việt
Nam có truyền thống lao động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn kết cao,
thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật hiện đại và ứng
dụng nó, có khả năng thích ứng với những tình huống phức tạp. Song, tỷ lệ tăng
dân số cao tạo ra lực lượng lao động lớn, một mặt gây sức ép với nền kinh tế,
mặt khác tạo ra thị trường lao động cung lớn hơn cầu. Người Việt Nam hạn chế
về thể lực, trình độ kỹ thuật, kỷ luật, quản lý, kinh nghiệm sản xuất và lại mang
nặng tâm lý của người lao động sản xuất nhỏ. Đây chính là hạn chế về chất
7


lượng của người lao động Việt Nam. Theo chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI
(Human Development Index) dựa trên các thông số: tuổi thọ trung bình, trình độ
học vấn, tri thức, số năm đi học, thu nhập quốc dân v.v... cho thấy về nguồn
nhân lực của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc ở các nước trong khu vực
là : Hồng Kông 24; Hàn Quốc 32; Singapore 43; Thái Lan 54; Malaixia 57;
Trung Quốc 94; Philippin 99; Indonesia 105 và Việt Nam 106.
Như vậy, một quốc gia có dân số đông, lực lượng lao động nhiều chưa
hẳn là một quốc gia mạnh, thực tế các quốc gia trong khu vực có dân số lớn hơn
nước ta nhiều nhưng cũng chỉ là những quốc gia đang phát triển : Trung Quốc,
Indonesia, Â'n Độ... Một quốc gia mạnh trong phát triển kinh tế phải thể hiện
được tốc độ phát triển của nó, sự năng động để vận dụng những thành tựu khoa
học công nghệ nhằm đạt hiệu quả cao trong phát triển kinh tế xã hội, sự nhanh
nhạy nắm bắt thời cơ phát triển. Kết quả nghiên cứu NIEs và ASEAN cho thấy
nhân tố đầu tiên quyết định thành công trong phát triển kinh tế là tư chất của con
người, trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý, sự lựa chọn chiến lược
phát triển kinh tế, những giải pháp có tính khả thi phù hợp điều kiện dân tộc,

thời đại để khơi dậy sức mạnh của dân tộc, khai thác tiềm năng của đất nước,
đặc biệt là phát huy nguồn lực có lợi thế so sánh của đất nước để tham gia vào
thị trường của khu vực và thế giới. Có thể nói thắng lợi của NIEs, ASEAN chính
là kết quả lao động của trí tuệ, Singapore 3 triệu dân, Hồng Kông 5,8 triệu...
những quốc gia, lãnh thổ có dân số ít nhưng có những bước phát triển kinh tế
thần kỳ. Với lực lượng lao động lớn ở nước ta khi tham gia vào phân công lao
động khu vực và quốc tế ta sẽ có một nguồn lực quan trọng, một điều kiện thuận
lợi, một lợi thế cần thiết. Song yếu tố quyết định là tính trí tuệ của lao động. Với
truyền thống lao động, học tập trải qua những thử thách của lịch sử dân tộc,
nguồn lực lao động của người Việt Nam sẽ được nhân lên mạnh gấp nhiều lần
khi lao động đó chứa đựng trí tuệ, tầm cao của thời đại. Vì thế, chăm lo sự
nghiệp giáo dục đào tạo cho toàn xã hội, bồi dưỡng văn hoá, chuyên môn nghiệp
vụ cho người lao động là nuôi dưỡng và phát huy nguồn lực với đầy đủ tính chất
ưu thế của nó. Nếu biết đầu tư và đầu tư đúng nguồn lao động sẽ không bị cạn
8


kiệt khi khai thác mà ngược lại càng khai thác càng phát triển. Chăm lo bồi
dưỡng nguồn nhân lực, lợi ích mang lại không chỉ đạt mức dần dần mà còn có
những lúc đột biến. Chỉ có như thế nguồn nhân lực ở nước ta mới vừa có lợi thế
về số lượng vừa đạt cả chất lượng khi mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Nguồn tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta đa
dạng và phong phú bao gồm đất đai, rừng biển, nguồn nước, khoáng sản đủ loại,
khí hậu (sức gió, ánh nắng, lượng mưa để có thể hình thành năng lượng tự
nhiên) và tài nguyên du lịch. Có thể nói rằng với một nguồn tài nguyên như thế
đất nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi và tiềm năng để phát huy lợi thế của
mình so với một số nước NIEs, Đông A' (những nước có thị trường xuất nhập
khẩu lớn ở nước ta). Vấn đề đặt ra là sử dụng nó như thế nào ? Theo cách nhìn
truyền thống, tài nguyên thiên nhiên là điều kiện ưu đãi của tự nhiên, nhiều quốc

gia trở nên khá hơn nhờ những thuận lợi đó. Vì thế, thông thường khi mở cửa
giao lưu kinh tế với bên ngoài đẩy mạnh khai thác tài nguyên sẵn có của đất
nước là việc làm đầu tiên, bình thường của mọi quốc gia. Nhưng cần thấy rằng
ngày nay sự phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão, những thành tựu khoa học
kỹ thuật và công nghệ từ thập kỷ 80 đến nay cho phép con người sử dụng tài
nguyên chất xám, những thành tựu của trí tuệ từng bước thay thế tài nguyên hiện
có. Ví dụ : nghiên cứu thay thế vật liệu composit trong sản xuất máy bay Boing
757,767 giúp giảm 400 kg về trọng lượng; tiết kiệm 2% xăng (380 ngàn lít
xăng). Sử dụng gốm zinkon hoặc cabua silic trong lĩnh vực chất đốt, tiết kiệm
20% giá thành. Nhờ phát triển công nghệ sinh học, năm 1981 Braxin thay thế
20% xăng bằng rượu etylic sản xuất bằng công nghệ lên men từ nguồn nguyên
liệu đường mía, bột sắn hoặc lên men mêtan các phế thải làm nhiên liệu v.v... Từ
đây xuất hiện một số quan điểm cho rằng nền kinh tế thế giới đang chuyển từ
kinh tế "bẩn" (sử dụng tài nguyên) sang kinh tế "sạch" (sử dụng thành tựu khoa
học kỹ thuật) ở thế kỷ 21. Do vậy, các lợi thế về tài nguyên của các quốc gia
cũng cần được đánh giá đúng mức. ở nước ta cũng như thế giới, tài nguyên từ
lòng đất không phải là nguồn ưu thế vĩnh cửu mà đang mất dần lợi thế so sánh.
9


Đánh giá các nguồn lực còn giúp chúng ta có kế hoạch khai thác và tái tạo
hợp lý nhiều nguồn tài nguyên (biển, rừng, khí hậu...) mà hiện nay chúng ta
chưa đủ khả năng khai thác để phục vụ phát triển kinh tế, có nghĩa là những
nguồn lực sản xuất nguyên nhiên liệu có lợi thế so sánh nhưng chưa được sử
dụng hoặc khi đủ điều kiện sử dụng thì lợi thế so sánh mất dần hoặc không còn
lợi thế nữa. Vì vậy, cần vận dụng nhập khẩu những nguồn lực không có lợi thế
so sánh ở trong nước như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý... để
khai thác xuất khẩu những nguồn lực có lợi thế so sánh như đã nêu trên. Có
những nguồn lực mà chỉ cần đầu tư trong thời gian ngắn đã mang lại hiệu quả
ngay : khai thác rừng biển... là những nguồn lực nằm trong xu hướng đang phát

triển hiện nay. Song cũng có những nguồn lực đòi hỏi phải đầu tư lâu dài mới
đem lại hiệu quả: tái tạo rừng, nuôi trồng thuỷ hải sản, khai thác năng lượng
thiên nhiên... là những lĩnh vực cần có quan niệm mới trong việc đầu tư nuôi
dưỡng tạo nguồn lực để sử dụng lâu dài.
Tiềm năng du lịch là một nguồn tài nguyên đặc biệt của quốc gia. Xét về
góc độ ngành sản xuất, du lịch và dịch vụ du lịch là ngành công nghiệp không
khói. Đây là ngành tổng hợp nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội, lịch sử, kinh tế, văn
hoá, môi trường... mà việc khai thác nguồn tài nguyên này trong thời kỳ đất
nước mở cửa sẽ mang lại nhiều nguồn lợi lớn lao cho phát triển kinh tế. Nước ta
có tài nguyên du lịch phong phú, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử
không những có tính quốc gia mà còn mang tầm cỡ quốc tế. Trong thực tế chúng
ta chưa khai thác được bao nhiêu. Chẳng hạn năm 1994, tổ chức được hơn 1
triệu lượt khách quốc tế du lịch, doanh thu trên 200 triệu USD, bình quân so với
các nước trong khu vực chỉ bằng 1/4 về số lượng khách và 1/18 về doanh thu
(1). Có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản là do chúng ta
chưa đánh giá đúng mức tài nguyên du lịch, coi chúng thuần tuý là di tích của tự
nhiên và lịch sử mà chưa đặt trong quan hệ kinh tế, văn hoá... chỉ xem tài
nguyên du lịch phục vụ con người dưới dạng cổ sơ nguyên thuỷ, chưa đầu tư tôn
tạo, chưa khai thác với tư cách là ngành kinh tế. Vì thế cần có quan điểm đúng
đắn về tiềm năng du lịch, xây dựng những ngành kinh tế để hoạt động dịch vụ
10


du lịch (phục vụ người du lịch) đào tạo đội ngũ biết làm kinh tế từ văn hoá du
lịch, kết hợp nhiều ngành cùng với chính quyền ban hành những chính sách, giải
pháp để gìn giữ môi trường : chính trị, kinh tế, y tế... tạo nên sức mạnh tổng hợp
cho phát triển tiềm năng du lịch sau này.
+ Vị trí địa lý: Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với
biển Đông, là bao lơn nhìn ra Thái Bình Dương, có tuyến đường giao thông
hàng hải, hàng không từ Đông sang Tây với những vịnh, cảng quan trọng.

Đường bộ, đường sông đã nối 3 nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế,
quân sự thuận lợi. Điều này tạo khả năng cho Việt Nam phát triển nhiều loại
hình kinh tế khác nhau trong hoạt động dịch vụ. Nhất là nước ta lại nằm trong
khu vực phát triển kinh tế với tốc độ tăng GDP từ 7-9%/năm trong vài ba thập
kỷ trở lại đây. Tuy nhiên trong thực tế chúng ta chưa khai thác lợi thế về vị trí
thuận lợi của đất nước được bao nhiêu. Một trong những nguyên nhân là vấn đề
đánh giá lợi thế này. Vị trí địa lý của một đất nước có thuận lợi hay không chưa
phải là yếu tố quyết định để đất nước đó phát triển. Nhưng nó là điều kiện tiền
đề quan trọng, đặc biệt là khi đất nước mở cửa giao lưu với bên ngoài. Tiền đề
này giải quyết những nghịch lý ở những đất nước đang phát triển là: đất nước
còn khó khăn, chi phí vận chuyển lớn, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giảm được chi phí
vận chuyển; khai thác hoạt động dịch vụ giải quyết được hàng triệu công ăn việc
làm, thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng nhanh, kích
thích đầu tư mở rộng sản xuất. Một trong những nguyên nhân để những quốc
gia, đảo và bán đảo trong khu vực (Singapore, Malaisia, Hồng Kông...) đạt được
mức tăng trưởng cao, là biết khai thác vị trí địa lý thuận lợi của mình.
Từ việc đánh giá các nguồn lực trên đây cho chúng ta một cách nhìn
tổng quát:
1. Những lợi thế so sánh về nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý
thuận lợi mà Porter xếp vào loại lợi thế tĩnh, lợi thế cấp thấp, thực chất đây là lợi
thế về chi phí sản xuất. Trong giao lưu kinh tế các nước thì các ngành sử dụng
nhiều nguyên liệu, lao động... có lợi thế là chi phí sản xuất thấp, hàng hoá xuất
khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời sẽ hấp
11


dẫn và thu hút nước ngoài trực tiếp đầu tư (FDI) để sử dụng các nguồn lực đó.
Song các lợi thế này không tồn tại lâu dài do sự hạn chế của tài nguyên, lao
động và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Do vậy, lợi thế này khó cạnh tranh
nổi với những nước có lợi thế cấp cao (vốn, lao động, trình độ khoa học kỹ thuật

cao...) trong khu vực.
2. Trong các lý thuyết về lợi thế so sánh mới chỉ đề cập đến những nguồn
lực cụ thể như: vốn, hao phí lao động, nguyên vật liệu... tức là những nguồn lực
cụ thể có hình hài, cân đong đo đếm được, tính được hệ số so sánh mà ta gọi đó
là nguồn lực hữu hình. Bên cạnh đó còn có nguồn lực vô hình, khó đo đếm (vị
trí địa lý, tiềm năng du lịch, nguồn nhân lực trí tuệ) cần được đánh giá đúng tầm
quan trọng của chúng để có biện pháp khai thác.
3. Các nguồn lực hữu hình có thể dự đoán được kết quả nhưng nguồn lực
vô hình thì khó dự đoán cụ thể. Bởi vì sức mạnh nguồn lực vô hình có thể tăng
nhanh và hiệu quả kinh tế lớn khi khai thác, đôi khi có thể tăng đột biến. Vấn đề
đặt ra là cần đầu tư đặc biệt cho nguồn nhân lực, khai thác triệt để yếu tố thuận
lợi về vị trí địa lý của đất nước.
4. Yếu tố vô hình và hữu hình đan xen lẫn nhau, không có yếu tố hữu hình
hay vô hình thuần tuý. Chẳng hạn tài nguyên thiên nhiên nhiều nhưng lại phụ
thuộc điều kiện khai thác thế nào, hay nguồn nhân lực cũng có con số nhất định.
Vì thế khi đánh giá yếu tố hữu hình phải chú ý yếu tố vô hình hoặc ngược lại.
5. Thực tế con người không tạo ra yếu tố hữu hình nhưng có thể tạo ra yếu
tố vô hình như : tạo môi trường du lịch, bồi dưỡng văn hoá, chuyên môn nghiệp
vụ cho nguồn nhân lực...
Tóm lại, các nguồn lực có lợi thế so sánh để phát triển kinh tế đối ngoại trên đây
không phải là những giá trị cố định, nó có thể mất đi tính lợi thế hoặc có lợi thế
so sánh nhưng không tạo ra sức mạnh. Tất cả tuỳ thuộc vào nhận thức và cách
đánh giá của chúng ta. Mỗi nguồn lực có tầm quan trọng và vị trí riêng của nó.
Song nguồn nhân lực, nhân lực có trí tuệ có tầm quan trọng bao trùm lên tất cả.
Nâng cao yếu tố vô hình đó mới thực sự tạo điều kiện đem lại hiệu quả kinh tế -

12


xã hội cho việc biết tìm hiểu vận dụng, tái tạo, bồi bổ để khai thác các nguồn lực

có lợi thế của đất nước.
2. Thành tựu và khó khăn :
2.1 Thành tựu:
Kinh tế đối ngoại gồm nhiều lĩnh vực, như xuất, nhập khẩu, đầu tư nước
ngoài, khách quốc tế đến Việt Nam, kiều hối,…
Trước Cách mạng tháng 8/1945, Việt Nam đã từng xuất khẩu than, gạo,
cao su,…, nhưng đây chủ yếu là hoạt động kinh tế nhằm vơ vét tài nguyên và
bóc lột sức lao động của thực dân, phong kiến.
Giai đoạn trước năm 1991, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu sang Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu- một phần lớn là đổi lấy nguyên nhiên
vật liệu, lương thực, hàng tiêu dùng; xuất khẩu sang các nước khác rất hạn hẹp,
do bị bao vây cấm vận và năng lực sản xuất hàng xuất khẩu hạn chế.
Với đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập, chính sách đa dạng hoá, đa
phương hoá, từ năm 1995 đến nay, xuất khẩu của nước ta đạt được nhiều sự
vượt trội với kim ngạch xuất khẩu tăng và đạt quy mô khá ngày một lớn.
Xuất khẩu bình quân đầu người tăng lên và hiện đạt quy mô cao gấp nhiều
lần so với năm 1985, nếu năm 1985 mới đạt 11,7 USD, năm 1990 đạt 36,4 tỷ
USD, năm 2000 đạt 186,6 USD, năm 2005 đạt 393,8 USD, năm 2010 đạt 830,5
USD, thì năm 2012 đạt 1291 USD và dự báo năm 2013 đạt 1450 USD (ước năm
2013 cao gấp gần 124 lần năm 1985, bình quân 1 năm tăng 18,8% - một tốc độ
tăng rất cao so với các ngành, lĩnh vực khác).
Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP tăng khá nhanh: năm 1985 mới đạt 5%, năm
1995 đạt 26,2%, năm 2000 đạt 46,4%, năm 2005 đạt 61,1%, năm 2007 đạt
64,7%, năm 2012 đạt 73,8%. Khả năng năm 2013 có thể đạt trên 75%, cao hơn
tỷ lệ của Đông Nam Á, cao gấp ba lần tỷ lệ của châu Á và thế giới, đứng thứ 5
trên thế giới. Tốc độ tăng xuất khẩu khá cao, từ năm 1993 đến năm 2010 gần
như liên tục đạt 2 chữ số (chỉ bị giảm vào năm 2009 hoặc tăng thấp vào năm
1998, năm 2001- là những năm mà Việt Nam bị tác động bởi các cuộc khủng
hoảng trên thế giới, ở khu vực và cuộc khủng hoảng chu kỳ ở Mỹ..).
13



Kim ngạch xuất khẩu ước năm 2013 cao gấp 186,1 lần năm 1985, gấp
trên 4 lần năm 2005,… Tốc độ tăng xuất khẩu cao gấp nhiều lần tốc độ tăng
GDP, nên xuất khẩu đã trở thành lối ra, thành động lực của tăng trưởng kinh tế.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng thứ hạng cao trên
thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày dép, gỗ và
sản phẩm gỗ,... và gần đây có một số mặt hàng có trình độ kỹ thuật- công nghệ
cao, như điện thoại di động, máy vi tính, sản phẩm điện tử, máy ảnh...
Trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn trong nước và từ thị
trường thế giới như giá cả hàng hoá và nguyên, nhiên liệu nhập khẩu, sản xuất
công nghiệp tăng chậm trong những tháng đầu năm, thiếu điện do hạn hán, dịch
cúm gia cầm... xuất khẩu đã tạo được sự bứt phá kể từ tháng 5/2005, tăng cả về
quy mô, tốc độ và thị trường để đạt được một kết quả ấn tượng được thế giới
công nhận.
Năm 2005, xuất khẩu đã góp phần nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 101, 6 tỉ USD, tốc độ tăng trưởng bình
quân 5 năm đạt 17, 4%, cao hơn so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2005 là 1, 3%. Quy mô xuất khẩu 5 năm 20012005 gấp hơn 2 lần so với 5 năm 1996-2000 (đạt 51, 824 tỷ USD). Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu cao là nhân tố quan trọng góp phần vào kết quả tăng trưởng
GDP 8, 4% của cả nước.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
cao. Đặc biệt một số mặt hàng đạt tốc độ tăng kim ngạch ấn tượng như
gạo(+49%), rau quả(+36, 1%), cao su(+25, 2%), dầu thô(+35%)...Riêng mặt
hàng may mặc, mặc dù phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn trên thị trường thế
giới do việc bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với các thành viên WTO nhưng xuất
khẩu mặt hàng này đã vượt qua những tháng đầu năm khó khăn, về đích với tốc
độ tăng khoảng 10% so với năm 2004.
Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục đạt được những tiến bộ : tăng các mặt
hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối

lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từng
14


bước được nâng lên, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu từng bước được cải
thiện, thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được các đơn
hàng lớn, đồng thời hàng hoá Việt Nam đã vươn tới nhiều thị trường mới.Tính
bình quân 5 năm 2001-2005, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, có sự dịch chuyển tích
cực : nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 16, 8% và chiếm tỷ trọng
34, 2 tổng kim ngạch xuất khẩu, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp tăng 21% chiếm tỷ trọng 40, 7%, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản tăng
12%, chiếm tỷ trọng 25, 1%.
Thị trường xuất khẩu được mở rộng ra gần 200 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, trong đó đứng đầu là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức,
Malaysia, Australia, Singapore, Anh,… Xuất khẩu dịch vụ đã tăng khá, từ 4,3 tỷ
USD năm 2005 lên 7,5 tỷ USD năm 2010, lên 9,6 tỷ USD năm 2012.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bao gồm: đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư gián tiếp (FII) thời gian
qua đã đạt nhiều kết quả tích cực.
Nguồn FDI đạt kết quả khá trên nhiều mặt: Quy mô vốn tính từ năm 1988
đến tháng 8/2013 khá cả về lượng vốn đăng ký (259 tỷ USD), cả về lượng vốn
thực hiện (107,8 tỷ USD).
FDI đăng ký tăng trở lại trong năm 2012 và 8 tháng năm 2013 tăng
19,5%; FDI thực hiện 8 tháng 2013 tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả
63 tỉnh, thành phố của cả nước đều có vốn FDI, trong đó có 27 tỉnh, thành phố
có số vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD.
Hiện có trên 80 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam,
trong đó có 16 nước và vùng lãnh thổ có vốn đăng ký (còn hiệu lực) đạt trên 1 tỷ
USD (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh,
Nga, Đức, Pháp, Australia…).

Khu vực FDI hiện đã chiếm trên 18% GDP, 46,3% giá trị sản xuất công
nghiệp theo giá thực tế, 66,2% kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm trực
tiếp cho trên 1,7 triệu lao động.

15


Nguồn vốn ODA đạt quy mô khá (từ năm 1993 đến nay cam kết đạt trên
76 tỷ USD, giải ngân đạt khoảng 39 tỷ USD), trong đó 8 tháng năm 2013 giải
ngân 2,74 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với tiếp nhận FDI nước ngoài, Việt Nam đã đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, tính từ 1989 đến hết năm 2012 có 729 dự án, với tổng vốn đăng ký đạt
trên 15,1 tỷ USD. Tại 23 nước và vùng lãnh thổ, các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư với lượng vốn lớn (những dự án còn hiệu lực) đạt trên 10 triệu
USD, trong đó có 11 dự án đạt trên 100 triệu USD, cao nhất là Lào 3.672,5 triệu
USD, tiếp đến là Campuchia 2.575,7 triệu USD, Peru 1.276,7 triệu USD...
Lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng tăng liên tục qua các năm. Với
quy mô và tốc độ tăng trong 8 tháng đầu năm, khả năng năm 2013 có thể đạt
trên 7,3 triệu lượt người. Lượng ngoại tệ do khách quốc tế chi tiêu khi đến Việt
Nam cũng tăng khá (nếu năm 2005 đạt 2,3 tỷ USD, thì năm 2006 đạt 2,85 tỷ
USD, năm 2007 đạt 3,75 tỷ USD, năm 2008 đạt 3,93 tỷ USD, năm 2009 đạt 3,05
tỷ USD, năm 2010 đạt 4,45 tỷ USD, năm 2011 đạt 5,71 tỷ USD, năm 2012 đạt
6,83 tỷ USD, khả năng 2013 đạt mốc 7,5 tỷ USD).
Với chủ trương mở cửa, hội nhập ngày một sâu rộng, với phương châm
làm bạn với tất cả các nước, đa dạng hoá, đa phương hoá, Việt Nam đã có quan
hệ ngoại giao, quan hệ đầu tư, quan hệ buôn bán, du lịch với hầu hết các nước,
trong đó có các nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Trong năm 2002, nhập khẩu đã phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất, xuất
khẩu và tiêu dùng trong nước. Đặc biệt, mặc dù cung cầu và giá cả của một số
mặt hàng chiến lược có biến động mạnh trên thị trường thế giới nhưng nhập

khẩu vẫn đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu trong nước và không để xảy ra các cơn
sốt giá trên thị trường trong nước.
Cơ cấu và tỷ trọng mặt hàng nhập khẩu tập trung chủ yếu vào việc phục vụ
sản xuất và đầu tư : nhóm máy móc thiết bị(14,3%), nguyên vật liệu phục vụ sản
xuất hàng xuất khẩu(15,7%), nhiên liệu(10,4%), phân bón, hoá chất (10%), hàng
tiêu dùng chỉ chiếm 2, 7% tổng kim ngạch nhập khẩu.

16


Thị trường nhập khẩu năm 2005 tập trung chủ yếu vào Châu á.Theo số
liệu về thị trường nhập khẩu 11 tháng đầu năm, nhập khẩu từ châu á chiếm tới
80%(trong đó ASEAN chiếm 25%) tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Nhập khẩu năm 2005 tập trung vào khu vực châu á là do cước phí vận tải tăng
mạnh, việc nhập khẩu nguyên, nhiên liệu có xu hướng tập trung ở các nước
trong khu vực để tiết kiệm chi phí vận chuyển.
Nhập siêu năm 2005 đạt khoảng 4, 6 tỷ USD năm 2003 và 5, 45 năm
2004. Tỷ lệ giữa giá trị nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu sau khi đạt mức
cao nhất trong năm 2003 đã giảm dần, năm 2005 là 15, 6%(thời kỳ 2001-2005 tỷ
lệ này khoảng 17, 6%). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giá trị nhập siêu
cao:
Thứ nhất, do kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng trong năm nay, dẫn đến
nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất tăng mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế.
Thứ hai, giá nguyên, nhiên liệu tăng mạnh so với năm trước và những
năm gần đây, đặc biệt là các mặt hàng chiến lược mà nước ta phải nhập khẩu với
khối lượng lớn, đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến giá trị nhập siêu cao.
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến nhập siêu.
2.2 Khó khăn:

Tỷ trọng xuất khẩu nguyên vật liệu hàng nông sản hàng công nghiệp chế
biến gia công chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến công nghệ
cao tuy có gia tăng nhưng còn thấp, hiện nay mới chiếm 38%. Hơn nữa, tỷ lệ giá
trị gia tăng trong tổng giá trị của hàng hoá xuất khẩu còn thấp, điều này cho thấy
nến kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào công nghiệp phụ trợ vốn chưa
được phát triển trong nước, còn mang nặng tính chất gia công chế biến, xuất
khẩu nguyên vật liệu thô là chủ yếu. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp và bản thân nền kinh tế.

17


Xét về các tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng tổ
chức tiêu thụ và thương hiệu của doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của nước ta
thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Những ưu thế của
nước ta về nguyên vật liệu dồi dào, sức lao động rẻ đang vấp phải cạnh tranh
quốc tế gay gắt, nhất là của Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước trong khu vực
hiện nay.
Sự yếu kém về xuất khẩu có nguyên nhân cuả việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế còn chậm, chúng ta chưa tạo được những ngành kinh tế chủ lực dựa trên
các lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của đất nước.Mặt khác, một số chính sách
liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu cần được bổ sung hoàn thiện trong điều
kiện mới. Cụ thể, chính sách bảo hộ thị trường trong nước chưa khuyến khích
các doanh nghiệp tận dụng cơ hội để kinh doanh các sản phẩm trong nước.
Nhập khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu, nhất là nguyên liệu gia công sản
xuất các ngành như dệt may, giày dép. Điều đó thể hiện sự phụ thuộc đáng kể
của sản xuất vào thị trường cung cấp ở nước ngoài. Sự phụ thuộc về đầu vào này
khiến cho nền kinh tế gặp bất lợi mỗi khi giá các nguyên, nhiên vật liệu nhập
khẩu chủ yếu của nước ta tăng cao trên thị trường thế giới (như xăng dầu, phôi
thép, phân bón, chất dẻo nguyên liệu…), làm tăng chi phí sản xuất trong nước,

giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Thị trường nhập khẩu của Việt Nam vẫn là thị trường châu Á- Thái Bình
Dương nên công nghệ, máy móc, thiết bị nhập khẩu đa số là công nghệ trung
gian; thị trường Âu - Mỹ còn chiếm tỷ trọng chưa cao nên chưa tiếp cận được
nhiều công nghệ nguồn, công nghệ cao ; hơn nữa, do thiếu vốn nên nhiều doanh
nghiệp phải nhập khẩu hàng đã qua sử dụng, mức độ lạc hậu khá lớn, ảnh hưởng
đến năng suất, chất lượng, giá thành sản xuất, làm giảm chất lượng hàng xuất
khẩu, hạn chế khả năng cạnh tranh, hơn nữa còn gây tác hại tới môi trường.
Giá nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ chốt trên thế giới tăng, giá dầu thô leo
thang dẫn đến giá nhiều nguyên liệu dẫn xuất cuả dầu thô cũng tăng giá, nhu cầu
gia tăng ở nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới là những yếu tố làm giá hàng nhập

18


khẩu tăng. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu hợp lý để đáp ứng nhu cầu của sản
xuất, tiêu dùng trong nước tăng.
Khó khăn lớn và rõ nét nhất là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn
yếu trên thị trường thế giới. Sự yếu kém này không chỉ về chất lượng và giá cả
mà còn ở phương thức giao hàng, phương thức thanh toán, ở các dịch vụ sau bán
hàng...Theo diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế việt nam vẫn xếp ở hạng rất thấp và bấp bênh trên thế giới. Nền kinh tế
Việt nam năm 1977 xếp thứ 49 trên tổng 53 nước xếp hạng, năm 1998 tăng lên
vị trí 39 do các nước khác bị khủng hoảng nhưng năm 1999 lại tụt xuống 48.
Đến năm 2000 vị trí của Việt nam là 52 trên 59 nước. Đằng sau năng lực cạnh
tranh là trình độ công nghệ và trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn yếu
kém, là sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa quản lý vi mô và quản lý vĩ mô. Trong
khi đó uy tín kinh doanh còn chưa rõ nét, chưa có những sản phẩm, những nhãn
hiệu hàng hoá mang đặc trưng Việt Nam giữ vị trí đáng kể trên thị trường thế
giới.

Nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với nền kinh tế các nước
trong khu vực và nền kinh tế thế giới là một thách thức đáng kể đối với chúng
ta.Thu nhập bỡnh quõn đầu người của nước ta khoảng 450 USD, với mức tăng
trưởng GDP năm 2002 là 7, 2% chia đều cho mỗi người, mỗi người sẽ được
thêm 32 USD. Trong khi đó, thu nhập bỡnh quõn đầu người của Thái Lan là
2.200 USD, với mức tăng trưởng của Thái Lan năm 2002 là 4, 8%, mỗi người
dân Thái Lan sẽ được thêm 132 USD. Như vậy dù tốc độ tăng trưởng của ta hơn
Thái Lan đến khoảng gần 50% năm 2002, bỡnh quõn người dân Thái Lan vẫn
“giàu” thêm hơn ta gấp 3 lần. Sự tụt hậu ở đây không những về trình độ phát
triển thể hiện ở chỉ tiêu GDP bình quân đầu người mà điều quan trọng là ở sự
thấp kém về trình độ công nghệ, sự lạc hậu về cơ cấu kinh tế, sự chậm trễ về
trình độ quản lý, sự bất cập của hệ thống luật pháp và một nền hành chính kém
hiệu quả...
Xu hướng tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ nhưng xu hướng
bảo hộ mậu dịch cũng hết sức dày đặc với những công cụ bảo hộ mới. Các nước
19


đi sau như Việt Nam vừa phải chịu sức ép của quá trình hội nhập quốc tế, của
việc mở cửa tham gia vào các tổ chức mậu dịch quốc tế đa phương với sự cạnh
tranh gay gắt, vừa phải đối phó với hàng rào bảo hộ mậu dịch tinh vi thông qua
các tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước phát triển. Điều này làm cho việc gia nhập
các tổ chức thương mại đa phương trở thành thách thức lớn đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam.
Sự mất ổn định của môi trường kinh tế-tài chính-tiền tệ khu vực và
toàn cầu, sự cạnh tranh giữa các cường quốc và trung tâm kinh tế quốc tế lớn, sự
cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài..., sự đổ vỡ của một số
mô hình phát triển hướng ngoại gây khó khăn trong việc chủ động tham gia vào
phân công lao động quốc tế, khó khăn cho việc lựa chọn mô hình và chính sách
phát triển cho các nước đi sau trong đó có Việt Nam.


20


CHƯƠNG III: PHẢN ÁNH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau khi phá được thế bị bao vây, cấm vận, quan hệ Việt Nam với tất cả
các nước và tổ chức quốc tế được thúc đẩy, mở rộng và từng bước đi vào chiều
sâu, vừa tạo điều kiện bảo vệ vững chắc an ninh Tổ quốc, vừa tranh thủ và thúc
đẩy hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại với các đối tác, phục vụ
trực tiếp cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước hết, chúng ta đã tạo
được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với
tất cả các nước láng giềng, khu vực, góp phần củng cố môi trường hòa bình và
hợp tác xung quanh ta.
Chúng ta đã thúc đẩy quan hệ hợp đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với
Lào. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo phương châm: “Hợp tác láng
giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Nhiều cơ chế và
hình thức hợp tác giữa 3 nước được hình thành và mang lại hiệu quả thiết thực.
Quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc được thúc đẩy toàn diện theo
khuôn khổ 16 chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai” và phương châm “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt,
đối tác tốt”. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai bên đã ký Hiệp ước biên giới trên đất
liền và đang tiến hành phân giới, cắm mốc, ký kết và thực hiện Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ, duy trì diễn
đàn đàm phán về vấn đề Biển Đông.
Quan hệ với các nước ASEAN được đẩy mạnh theo hướng ổn định, đi vào
chiều sâu, tăng tinh cậy và hiểu biết lẫn nhau trong khi đã nâng lên tầm cao mới
quan hệ với các nước Hàn Quốc, Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân. Quan hệ với các nước
bạn bè truyền thống và các nước khác đã được củng cố và có bước phát triển
mới. Việt Nam tiếp tục củng cố mối quan hệ đoàn kết, hợp tác, thủy chung, ủng
hộ mạnh mẽ Cu-Ba trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khắc phục khó

khăn kinh tế, đồng thời tích cực tìm kiếm những phương thức hợp tác mới hai
bên cùng có lợi.
Trong khi ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, nước ta đã
chủ động thúc đẩy thiết lập khuôn khổ quan hệ hợp tác với các nước lớn và các
21


trung tâm chính trị-kinh tế lớn. Với Mỹ, ta đã có những bước chủ động thúc đẩy
quan hệ hai nước, đặc biệt qua chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan
Văn Khải (6/2005), duy trì và mở rộng sự hợp tác với Mỹ trên nhiều lĩnh vực.
Mặt khác, Việt Nam cũng tích cực chủ động có nhiều biện pháp đấu tranh linh
hoạt và khôn khéo trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc...Quan
hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt với Nga tiếp tục được tăng
cường. Với Nhật Bản, quan hệ hai nước được phát triển theo phương châm “Đối
tác tin cậy, ổn định lâu dài”, viện trợ phát triển chính thức ODA và đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI cho Việt Nam vẫn tiếp tục được duy trì ở mức cao và Nhật
Bản là bạn hàng lớn của Việt Nam.
Với các nước Liên minh châu Âu (EU), ta đã tăng cường quan hệ hợp tác
trên nhiều lĩnh vực, chú trọng các đối tác quan trọng và đẩy nhanh quan hệ với
một số đối tác mới có tiềm năng. Nhìn chung quan hệ kinh tế-thương mại, đầu
tư và viện trợ của EU với Việt Nam ổn định và tiếp tục mở rộng. EU trở thành
đối tác hàng đầu của ta về thương mại, đầu tư, viện trợ ODA.
Có thể nói năm 2005 cũng là năm hoạt động ngoại giao đa phương diễn ra
sôi động và có hiệu quả. Các đồng chí lónh đạo éảng, Nhà nước, Chính phủ và
Quốc hội ta đó tham gia rất nhiều diễn đàn, hội nghị quốc tế và khu vực quan
trọng như : Hội nghị Cấp cao Á – Phi, kỷ niệm 50 năm Hội nghị Bangdung tại
Indonesia, Hội nghị cấp cao APEC 13 ở Hàn Quốc, Hội nghị Cấp cao ASEAN
11 và cấp cao éụng Á lần thứ nhất tại Malaysia, Hội nghị cấp cao ASEAN đặc
biệt về sóng thần tại Indonesia, Hội nghị cấp cao Tiểu vùng Mê-công mở rộng
(GMS) lần 2 tại Trung Quốc, Hội nghị cấp cao cỏc nhà lónh đạo Nghị viện tại

New York, Hội nghị AIPO lần thứ 26 tại Lào, Hội nghị cấp cao kiểm điểm thực
hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và Hội nghị cấp cao ASEAN - Liên Hợp
quốc tại New York...
Sự tham gia tích cực của Việt Nam đó gúp phần vào thành cụng của cỏc
diễn đàn, hội nghị và qua đó, chúng ta có thể chia sẻ, học hỏi từ bạn bè thế giới
về những kinh nghiệm phát triển. Dự các hội nghị quốc tế với sự tham gia của
nhiều nhà lónh đạo các nước cũng là dịp để lónh đạo ta có nhiều cuộc tiếp xúc
22


song phương với lónh đạo các nước, bàn những biện pháp cụ thể thúc đẩy quan
hệ hữu nghị hợp tác với các nước.
Từ năm 2000 đến nay, vốn FDI vào Việt Nam đã phục hồi nhưng còn
chậm và chưa bền vững. Có nhiều nguyên nhân lý giải tình trạng suy giảm và
chậm phục hồi của FDI vào Việt Nam, trong đó nguyên nhân quan trọng là hệ
thống pháp luật và chính sách về FDI của Việt Nam còn nhiều qui định không
tạo thuận lợi, thậm chí gây khó khăn cho hoạt động FDI, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế. Đây chính là các rào cản pháp lý đối với hoạt động FDI tại Việt
Nam.
Quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ chủ yếu mang tính chất
đơn cực, đối tác chính là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây(với một
số chương trình / dự án chưa phải là lớn của các cơ quan Liên hợp quốc, của
Pháp, Ấn Độ, Thuỵ Điển, Hà Lan,...Hình thức hợp tác chủ yếu về khoa học –
công nghệ trước thời kỳ Đổi mới là song phương, chủ yếu diễn ra giữa Nhà nước
ta với một số nước và tổ chức quốc tế, do đó có đặc điểm tập trung và bao cấp,
không khuyến khích các quan hệ trực tiếp giữa các tổ chức, cá nhân và với thành
phần tư nhân.

23



KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
Ngày nay, thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương
diện kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dần đan quyện vào nhau và chi phối nền
kinh tế của tất cả các nước. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương
đối thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế
của các quốc gia.
Thời cơ mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng gió mới sẽ
có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới, biết tận
dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với
nền kinh tế thế giới.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, kinh tế đối ngoại đóng vai trò hết sức
quan trọng trong sự phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, tham gia có hiệu
quả vào sự phân công lao động và trao đổi mậu dịch quốc tế, thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế quốc dân cũng như các lĩnh vực liên quan đến kinh tế đối
ngoại. Để đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
trong bối cảnh toàn cầu hoá, Việt Nam đã và đang thực hiện những giải pháp
tích cực để thực hiện đường lối phát triển kinh tế đối ngoại, tiếp thu những kinh
nghiệm thương mại, kinh tế và khoa học, công nghệ tiên tiến của các nước, tạo
điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần đẩy mạnh công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đối với nước ta, việc hoà nhập
vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết. Nếu không
quan tâm đến điều này, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay.
Nắm bắt được vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế có ý nghĩa thực tiễn
to lớn đặc biệt đối với đất nước Việt Nam chúng ta, nơi đã từng trải qua bao nhiêu
cuộc chiến tranh giữ nước hào hùng , nhưng đói nghèo luôn luôn đe doạ. Muốn
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, xích lại trình độ phát triển cao của khu vực
và thế giới thì phải thực hiện tốt chủ trương của Đảng và nhà nước : ”Đẩy mạnh
hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối


24


quan hệ kinh tế”. Trong thế kỷ XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển
mạnh mẽ và sẽ trở thành nước công nghiệp phát triển trong những năm tới.
Do thời gian có hạn nên không tránh khỏi những sai sót, em rất mong thầy
đóng góp ý kiến để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

25


×