Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

LỊCH sử VIỆT NAM tóm tắt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.46 KB, 43 trang )

LỊCH SỬ VIỆT NAM TÓM TẮT
THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
TK 7  TK 6 TCN, 15 bộ lạc sống tại vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, miền bắc Việt Nam
ngày nay thống nhất lập nên nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên của người Việt. Kinh đô đóng
tại Phong Châu (Vĩnh Phú ngày nay).
Vua nước Văn Lang, tất cả 18 đời, đều xưng là Hùng Vương.
TK 2 TCN, sau kháng chiến chống Tần Thủy Hoàng (218-208) Thục Phán lên làm vua nước
Văn Lang xưng là An Dương Vương đổi tên nc thành Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ Loa (Đông
Anh – Hà Nội) làm kinh đô.
THỜI KỲ BỊ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ
Năm 179 TCN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà xâm lược. (Triệu Đà là tướng quân
của nhà Tần.)
Âu Lạc bị đô hộ mở đầu cho thời kỳ lịch sử đen tối, đau thương, đầy uất hận dài đằng đẵng
hơn 1000 năm của dân tộc Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập thành các quận, huyện của các nhà
nước phong kiến phương Bắc (qua các triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương,
Tùy, Đường của Trung Quốc). Trong thời gian này, tuy bị cai trị, bóc lột tàn nhẫn, hà khắc
nhưng nhân dân ta vẫn không những chẳng khi nào chịu khuất phục mà còn liên tục vùng lên
đấu tranh nhằm giành lại độc lập tự chủ, chống bị Hán hóa.
Sau CN:
Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Nhưng chỉ 3 năm
sau. Đất nước lại bị rơi vào tay nhà Hán.
Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô thất bại.
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập từ tay nhà Lương, xưng là Lý
Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân với mong muốn đất nước mãi mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế thua trận liên tục
phải rút về động Khuất Lão. Tại đây ông bị bệnh chết. Triệu Quang Phục lên thay. Triệu Quang
Phục lui quân về đầm Dạ Trạch thực hiện chiến tranh du kích. Cuối cùng năm 550, Triệu Quang


Phục mới giành được thắng lợi, khôi phục nước Vạn Xuân, tự xưng là Triệu Việt Vương. Đến
năm 571, Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử cướp ngôi.


Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống được cuộc xâm lược của giặc, nước ta lại rơi vào tay
nhà Tùy, rồi nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa. Thất bại.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền. Nhà Đường công nhận chính
quyền tự chủ của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Nam Hán là một nước do Luu Ẩn, tướng của
nhà Hậu Lương cát cứ vùng đất Hoa Nam mà mình được nhà Lương giao cho cai quản thành
lập (nhà Lương cướp ngôi nhà Đường vào năm 907). Người đứng đầu nước ta lúc đó là Khúc
Thừa Mỹ không chống lại được, bị bắt sang Nam Hán. Các tướng lĩnh của họ Khúc tổ chức
nhiều cuộc kháng chiến.
Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương Đình Nghệ lãnh đạo thành công. Ông được tôn làm Tiết
Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể
Dương Đình Nghệ khởi binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên vua
Nam Hán vui vẻ nhận lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang nước ta theo đường thủy định phối
hợp với Kiều Công Tiễn đánh bại Ngô Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền
đã diệt được Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán lọt vào trận địa mai
phục của Ngô Quyền ở cửa sông Bạch Đằng thì bị đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận,
quân Nam Hán tháo chạy về nước. Vua Nam Hán bỏ mộng xâm lược.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở ra thời kỳ độc lập tự chủ hòan
toàn cho nước ta sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong kiến phương bắc.
Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình đất nước rơi vào cảnh hỗn lọan, tranh dành quyền lực
giữa các phe phái tướng lĩnh và con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều Ngô là Ngô Xương Văn chết, các tướng lĩnh địa phương thi
nhau cát cứ. Đất nước bị chia cắt thành 12 sứ quân.

THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM



Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân đánh đâu thắng đấy đuợc dân tôn là Vạn
Thắng Vương.
Năm 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại
Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn. Triều thần bắt giết Đỗ
Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi, lên làm vua. Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ
chính được giao cho Lê Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy tình hình nước ta rối ren, vua còn nhỏ
tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội trời cho để thôn tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua quân xâm
lược. Được tin, Thái Hậu Dương Vân Nga cùng triều thần nhất trí nhường ngôi báu cho Lê Hòan
để ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê Đại Hành). Ông gấp rút tổ chức lại
bộ máy hành chính, chỉnh đốn quân đội chuẩn bị nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai đường thủy, bộ. Nhờ chuẩn bị tốt,
và tài mưu lược. Lê Hoàn đánh bại quân Tống, giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành ngôi báu. Lê Long Đĩnh thắng lên
làm vua (Lê Ngọa Triều). Ông vua này rất thích bạo lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc
lòng dân chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều người, Lý Công Uẩn tự xưng vua (Lý
Thái Tổ) lập ra triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông và Lý
Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội ngày
nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống bên Trung Quốc cho là cơ hội tốt
chuẩn bị lương thảo có ý xâm lược nước ta. Vì vua còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý
Thường Kiệt nắm trọn binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương “đánh phủ đầu” quân Tống để tự vệ trước bèn tập trung
10 vạn quân thủy bộ chia làm hai đường đánh sang đất Tống với mục đích phá hủy các kho dữ
trữ lương thảo hậu cần nằm ở Ung Châu và Khâm Châu, Liêm Châu mà nhà Tống đang chuẩn
bị để phục vụ cho cuộc xâm lược nước ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ đánh Ung

Châu. Bị bất ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa tháng sau chính quyền Tống ở trung ương


mới biết được tin. Vua Tống lập tức chuẩn bị đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải
vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được mục đích và rút về nước
cũng là đề phòng bị đánh úp. Khi đó, đại binh quân Tống còn chưa kịp lên đường.
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực lượng, nhà Tống đem 30 vạn quân chia hai đường
thủy, bộ bắt đầu xâm lược nước ta và cũng là để trả thù cho sự kiện ở trên. Lý Thường Kiệt
chọn địa điếm quyết chiến tại sông Như Nguyệt, xây dựng phòng tuyến phòng thủ tại bờ nam
chờ giặc.
Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến phòng tuyến Như Nguyệt và bị chặn đứng ở đó. Thế trận
giằng co kéo dài, binh Tống ngày một hao tổn do thiếu lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du
kích. cuối cùng quân Tống phải chấp nhận giảng hòa rút quân về. Triều Lý bắt tay xây dựng đất
nước và bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu do các vua đều lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, bị chết yếu,…
quyền hành rơi vào tay ngọai tộc vốn lắm kẻ gian tham, bất tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý,
các quý tộc quan lại họ Trần nổi lên là một thế lực lớn có công giúp nhà Lý bình định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, 7 tuổi. Quyền bính nằm
cả trong tay quan điện tiền Trần Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng mình là Trần
Cảnh (Trần Thái Tông), cháu của Trần Thủ Độ, khi ấy cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn trong
tay Trần Thủ Độ với địa vị Thái Sư. Trần Thủ Độ tìm mọi cách để “nhổ sạch rễ” họ nhà Lý, củng
cố địa vị cho họ Trần. Nhà Lý kết thúc ở đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị, gây nhiều bất bình
trong dân chúng. Thậm chí còn gây nên mâu thuẫn lớn giữa một số người trong họ Trần. Tuy
nhiên, thế lực của Trần Thủ Độ quá lớn nên mọi việc cuối cùng cũng êm xuôi. Triều đại nhà
Trần dần phát triển và kéo dài 175 năm qua 12 đời vua (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Dương Nhật
Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế). Triều Trần

hưng thịnh nhất sau khi 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược nước Đại Việt của nhà Trần. Khi ấy Mông Cổ là một đại đế
quốc lớn nhất thế giới trong lịch sử có lãnh thổ bao gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái
Bình Dương cho tới Trung Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành trướng. “Vó ngựa Mông Cổ đi


tới đâu, nơi ấy cỏ cây không mọc được”. Lần xâm lược Đại Việt này nằm trong kế họach bành
trướng xuống phía Nam của Đại hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha (Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy chia làm nhiều cánh tràn vào Đại Việt tới Bạch
Hạc (Vĩnh Phú ngày nay) thì hợp lại cùng tiến về Thăng Long. Vua Trần Thái Tông và các tướng
lĩnh lần đầu ra quân gặp cường địch, non kinh nghiệm đối phó với kỵ binh Mông Cổ nên liên
tiếp thua trận phải thi hành kế sách bỏ Thăng Long vườn không nhà trống rút về phía Nam bảo
tòan lực lượng chờ thời cơ, đồng thời để một số quân ở lại kết hợp với dân chúng quanh vùng
đánh du kích. Quân Mông Cổ vào đến Thăng Long không cuớp bóc được nhiều của cải lương
thực để nuôi quân lại không quen khí hậu nên sinh bệnh, mệt mỏi, rối loạn đội ngũ, nhụt nhuệ
khí chiến đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức tập kích doanh trại quân giặc. Quân Mông
Cổ hốt hoảng không kịp phản ứng giày xéo nhau mà chạy, bị giết rất nhiều. Đại quân Trần truy
sát lại thêm phục binh quân Trần đổ ra chặn đánh khắp nơi, quân Mông Cổ chạy về Vân Nam
(Trung Quốc) mà không có thời gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng Đại
Việt sạch bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng Long vỏn vẹn được 9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Nhà Nguyên bên Trung quốc là do Hốt
Tất Liệt, em trai của đại hãn Mông Cổ Mông Kha, diệt nước Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng
nên. Vì vậy ta hay gọi quân Nguyên là Nguyên Mông hay Mông Nguyên.
50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến chiếm Đại Việt. Đích thân con trai Hốt Tất Liệt, thái
tử Thoát Hoan, chỉ huy hai đạo quân bộ từ hai hướng đông bắc, tây bắc Đại Việt đánh xuống,
đạo quân thủy do Toa Đô từ nước Chiêm Thành (sau khi lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai
Toa Đô đánh Chiêm Thành trước), phía nam Đại Việt đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào giữa.
Vua Trần lúc này là Trần Nhân Tông cử Trần Quang Khải làm Thượng Tướng Thái Sư, Trần Quốc
Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh ba quân chống giặc.
Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh quân bộ phía đông của Thoát Hoan trước. Trần Nhật

Duật thì chặn cánh quân phía Tây do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy. Trước thế giặc mạnh, vua tôi
nhà Trần vừa đánh vừa rút lui chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế chiếm Nội Bàng, Vạn Kiếp…
Khi quân Nguyên tới Thăng Long thì vua Trần đã rút về Thiên Trường (Nam Định) bỏ lại kinh
thành trống không như lần kháng Mông Cổ lần trước. Về Thiên Trường, Trần Quốc Tuấn cử
Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải trấn giữ Hoan Châu (Nghệ An) chặn đường tiến quân Toa Đô.
Khi Thoát Hoan chiếm Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo quân ra lấy lại Vạn Kiếp đánh sau
lưng Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho người về nước xin thêm binh cứu viện. Lúc đó, ở
phía Nam, Trần Nhật Duật rồi Trần Quang Khải không ngăn được Toa Đô. Khi Toa Đô tiến vào


đến Ái Châu (Thanh Hóa), Vua Trần công kích Thóat Hoan ở Thăng Long nhưng không được lại
lui về Thiên Trường. Thoát Hoan đuổi theo. Trần Quốc Tuấn phải đem quân từ Vạn Kiếp về
Thiên Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải Dương. Thoát Hoan đuổi theo sát gót. Đồng thời
Toa Đô cũng kéo quân thủy theo đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần Quốc Tuấn sử dụng
kế nghi binh dụ quân Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển còn mình đưa vua Trần thoát
vào Ái Châu theo đường bộ, thóat hiểm trong tíc tắc…
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt lội làm cho quân Nguyên vốn chỉ quen khí hậu lạnh
ở phương bắc bị bệnh dịch rất nhiều, lương thực lại cạn kiệt nên giảm sức chiến đấu. Trần
Quốc Tuấn chỉ chờ cơ hội như vậy để phản công. Ông cử Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật ,
Trần Quốc Tỏan, Nguyễn Khoái,… chặn đánh quân thủy của Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử,
Chương Dương… Đích thân Trần Quốc Tuấn thì đánh lên Vạn Kiếp. Quả nhiên quân Nguyên thất
thế. Toa Đô rút về Thiên Trường. Quân ở Vạn Kiếp chạy cả về Thăng Long. Liên lạc giữa hai
cánh thủy bộ của quân Nguyên bị quân Trần cắt đứt. Quân Trần tập trung đánh Thăng Long.
Thoát Hoan thua to, bỏ thành rút chạy về Bắc Ninh. Khi Toa Đô kéo lên Thăng Long định hội
quân với Thoát Hoan thì Thóat Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở Tây Kết. Đến đây, Toa
Đô bị đại quân của vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị đánh tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô
Mã Nhi, Lưu Khuê dắt tàn quân chạy vào Ái Châu. Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã
Nhi, Lưu Khuê phải bỏ thuyền tướng lấy thuyền nhỏ tháo chạy ra biển về nước, quân Trần bắt
sống được vài vạn tàn quân. Phía Thóat Hoan, sau khi về Bắc Ninh lại bị quân Trần đón đánh
thì chạy sang Vạn Kiếp nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn cũng đã bố trí sẵn quân mai phục. Giữa

lúc quân Nguyên đang vượt sông Thương, quân Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số kể.
Thoát Hoan cùng bộ tướng Lý Hằng gom tàn quân chạy về nước. Tới biên giới thuộc Lạng Sơn,
quân Trần phục sẵn trên núi bắn tên xuống như mưa, Lý Hằng trúng tên độc chết liền. Thoát
Hoan được hộ tướng giấu vào một vật dụng bằng đồng bỏ lên xe cho lính kéo chạy nhờ vậy
sống sót, chạy thoát về nước. Đại Việt sạch bóng quân Nguyên.
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát Hoan chỉ huy thẳng tiến Đại Việt để
báo thù. Lần này quân Nguyên cũng chia làm 3 đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai
Lỗ vào theo hướng dọc sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi theo đường biển vào sông
Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn thuyền lương thực do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã
Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội quân tại Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước. Quân Nguyên lúc này còn hăng hái
nên tiến được vào đến Vạn Kiếp tuy bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù nên


tung tăng đi trước bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã Nhị họp
quân với Thóat Hoan ở Vạn Kiếp thì đòan thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị Trần
Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong đất liền không hề hay
biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng Long. Trần Quốc Tuấn lại để thành
Thăng Long vườn không nhà trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không bắt được vua Trần liền
sai Ô Mã Nhi gấp rút đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực tức bằng cách cho quân cuớp
bóc dân chúng, đốt phá nhà cửa, chùa chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,..
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc Giang, Vạn Kíếp sai Ô Mã Nhi ra
biển tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải
Phòng) thì bị đánh tơi bời. Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã Nhi quay về Vạn Kiếp.
Vua Trần cho người mang theo tù binh bắt được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan
thông báo đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân Nguyên lo sợ vì
lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với
các tướng rút quân về nước. Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý. Thoát Hoan rút theo đường bộ
theo ngả Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho quân

mai phục tất cả mọi nẻo đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn Tiếp lọt vào trận địa
bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống, máu quân Nguyên nhuộm đỏ nước sông. Trên bộ,
Thoát Hoan cũng bị chặn đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới
Lạng Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung
Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc ngoại xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có được một thời gian dài ổn định và
phát triển hưng thịnh. Nhưng từ đời vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu
hiện suy thoái. Vua quan bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã có lúc rơi vào tay ngọai
tộc, giặc giã nỗi lên như nấm, các nước lân cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời
vua Trần Nghệ Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi lên là một nhà chính trị có tài và được trọng dụng.
Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của nhà Trần, Hồ Quý Ly đọat được ngôi báu.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước Đại Việt thành
Đại Ngu, và tiến hành nhiều cuộc cải cách lớn, trong đó có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy
“thông bảo hội sao”. Tuy nhiên không phải cuộc cải cách nào cũng được lòng dân chúng.
Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung Quốc lúc này là nhà Minh cử các tướng Mộc Thạnh,
Trương Phụ,… đem quân xâm lược nước Đại Ngu. Quân quan nhà Hồ chống cự quyết liệt


nhưng vì Đại Ngu lúc đó chưa ổn định, nhà Hồ chưa được dân chúng ủng hộ,… nên cuối cùng
quân Minh đập tan sức kháng cự của quân Hồ. Hồ Quý Ly cùng con trai và nhiều tướng bị bắt
giải sang Trung Quốc. Nhà Minh nhập Đại Ngu thành quận Giao Chỉ của họ. Lúc đó nhân dân
Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở nhiều nơi. Hic.
Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng là quý tộc tôn thất nhà Trần, tiến hành khởi nghĩa
chống quân Minh. Ban đầu cũng giành được một số thắng lợi đáng kể nhưng sau đó trong nội
bộ mất đoàn kết nên nghĩa quân suy yếu và bị dập tắt vào năm 1412.
Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào kiệt khắp nơi trong nước, trong đó có Nguyễn Trãi,
Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại núi Lam (thuộc Thanh Hóa ngày nay). Ban đầu lực lượng nghĩa
quân còn yếu, chừng vài nghìn người, nhưng cũng dùng mưu thắng được nhiều trận lớn gây
thanh thế như ở Lạc Thủy, Mường Một… Quân Minh tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của
nhiều kẻ bán nước, chỉ điểm nên có lúc chúng đẩy nghĩa quân lâm vào tình trạng hiểm nghèo.

Ba lần nghĩa quân phải trốn lên núi Chí Linh, chịu cảnh đói khát, thiếu thốn trăm bề. Ở lần thứ
hai rút lên núi Chí Linh, năm 1419, nhờ 500 quân cảm tử do Lê Lai dẫn đầu đánh xông ra, mạo
danh Lê Lợi để cho giặc bắt giết nên nghĩa quân mới được bảo tòan xuống núi. Nghĩa quân Lê
Lợi chiến đấu như vậy ròng rã mấy năm trời cho đến năm 1424 thì mới tạo nên chuyển biến có
lợi cho mình.
Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại phần lớn đất nước, dồn quân Minh vào cố thủ
trong 4 thành Đông Quan (Thăng Long), Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Tướng quân Minh lúc đó là
Vương Thông phải cho người về nước xin viện Binh. Tuy nhiên, cả hai cánh quân cứu viện, với
số quân 15 vạn, do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay tại cửa
ải. Liễu Thăng bị chém đầu tại trận ở ải Chi Lăng. Mộc Thạnh hay tin thì đang đêm mang quân
chạy về nước nhưng cũng bị phục đánh tơi bời. Quân Lê Lợi giết được hàng nghìn lính, thu
nhiều ngựa và vàng bạc, khí giới. Ngày 10/12/1427, túng quẫn vì bị vây mà không có viện binh,
quân Minh đang cổ thủ trong các thành đều ra hàng. Lê Lợi tha cho 10 vạn giặc Minh và còn
cấp đủ lương thực cho chúng, sửa cầu đường cho chúng rút về nước. Cả bọn đều bái lạy.
Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở thành Đông Kinh (Thăng Long) khôi phục tên
nước Đại Việt mở đầu triều đại nhà Lê. (Gọi là nhà hậu Lê để phân biệt với nhà tiền Lê của Lê
Đại Hành trước kia).
Nhà hậu Lê phát triển ổn định và đại nhiều thành tựu lớn trong xây dựng đất nước qua năm đời
vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Đến đời
vua Lê Uy Mục thì bắt đầu xuống dốc.


Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi vua cho mình. Trước đó, ông ta
cậy có nhiều công nên lạm quyền, kết bè cánh và đã phế truất ngôi của Lê Chiêu Tông giao cho
Lê Cung Hoàng. Nhà Mạc thành hình. Ở trong nước là thế nhưng khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung
lại hèn kém trong ngọai giao với nhà Minh, nhún nhường nhận chức An Nam đô thống sứ do
vua Minh “trao tặng” khiến nhân dân và nhiều quan lại phẫn nộ.
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống lại nhà Mạc.
Năm 1532, Nguyễn Kim tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua (Lê Trang Tông), đóng ở Thanh
Hóa, nhiều quan lại của cũ của nhà Lê cũng theo về phò tá tạo nên một triều đình mới đối lập

với nhà Mạc ở phía bắc. Đại Việt lúc đó vì thế có hai triều đình ở hai miền nam, bắc.
Sau khi Nguyễn Kim chết (1546), vua Lê phong con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay. Trịnh
Kiểm tiến hành lọai trừ phe cánh của Nguyễn Kim để tập trung quyền lực vào tay mình. Các con
của Nguyễn Kim, Nguyễn Uông bị bắt giết, Nguyễn Hoàng lo sợ nên tìm cách lánh bằng cách
xin trấn giữ ở vùng Thuận Hóa. Trịnh Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn vào vùng đó ngấm
ngầm có ý lập nên “vương quốc” riêng của mình chống lại họ Trịnh nhưng bên ngoài vẫn tỏ về
thuần phục, giúp họ trịnh chống họ Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng thay.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà Mạc ở Thăng Long, thống nhất đất nước, nhà
Lê khôi phục, vua Lê bấy giờ là Lê Thế Tông. Tuy nhiên vua Lê chỉ là cái bóng. Họ Trịnh lập ra
vương phủ riêng tồn tại bên cạnh triều đình vua Lê. Quyền lực nằm cả trong tay họ Trịnh.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng ở phía Nam chết. Con là Nguyễn Phúc Nguyên vâng lời cha “dạy bảo
nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh” để “xây dựng cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế, họ Trịnh đem quân vào đánh.
Cuộc chiến giữa hai họ bắt đầu từ đó. Đại Việt bị chia cắt thành hai “đàng” lấy sông Gianh làm
ranh giới. Đàng Ngoài tính từ bờ bắc sông Gianh trở ra bắc, Đàng Trong từ bờ nam sông Gianh
trở vào nam. Ranh giới này tồn tại suốt gần 300 năm cho đến khi Nguyễn Huệ thống nhất vào
năm 1786.
Năm 1771, ở Đàng Trong, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo nông
dân khởi nghĩa ở Tây Sơn. Lúc này ở cả hai Đàng chính quyền phong kiến đều đã rất bê tha,
suy tàn. Trải qua mấy trăm năm chia cắt, chiến tranh triền miên giữa hai Đàng đã làm cho đất
nước điêu tàn, kiệt quệ, nông dân vô cùng đói khổ. Vì thế vô vàn nông dân đã hưởng ứng cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn. Với khẩu hiệu “ Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”, quân Tây Sơn tiến


đến đâu thì dân nghèo ở đấy đều tham gia. Thanh thế của nghĩa quân Tây Sơn lớn lên nhanh
chóng. Hầu như đánh đâu thắng đấy. Chẳng mấy chốc chiếm toàn bộ Quy Nhơn, Quảng Ngãi.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đóng ở thành Đồ Bàn (Bình Định), sai
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh thành Gia Định. Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ sau khi đánh lấy được
thành, giết chết chúa Nguyễn Phúc Thuần, cắt người trấn thủ xong thì rút về Quy Nhơn.

Nguyễn Ánh là cháu của Nguyễn Phúc Khoát (chúa Đàng Trong ngày xưa, trước Nguyễn Phúc
Thuần) đem quân chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức.
Năm 1783, quân Tây Sơn đánh chiếm lại thành Gia Định, Nguyễn Ánh thua chạy trốn sang
Xiêm (Thái Lan) cầu cứu.
Năm 1784, quân Xiêm cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân, 300 chiến thuyền và
Chiêu Thùy Biên đem 3 vạn quân bộ cùng Nguyễn Ánh tấn công Gia Định. Đến cuối năm đó thì
chiếm được nửa đất Gia Định, Tây Sơn chỉ còn giữ hai thành Gia Định, Mỹ Tho.
Đầu năm 1785, Nguyễn Ánh và quân Xiêm từ Sa Đéc tiến đánh Mỹ Tho. Nguyễn Huệ cho quân
mai phục, chặn đánh trên sông Mỹ Tho, đoạn ở Rạch Gầm- Xoài Mút. Quân Xiêm đại bại, chỉ
còn vài ngàn bộ binh rút chạy về nước. Tây Sơn truy bắt Nguyễn Ánh nhưng không được.
Nguyễn Huệ củng cố ba quân, cử tướng trấn giữ Gia Định rồi rút ra Tây Sơn cùng với Vũ Văn
Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh (một tướng Đàng Ngoài không phục Trịnh Khải, bỏ nhà Trịnh theo
Tây Sơn) chiếm luôn thành Phú Xuân đang do Đàng Ngoài nắm giữ. Rồi nhân đà thắng lợi
giành lại hết các vùng đất của Đàng Trong. Xong, lấy danh nghĩa giúp vua Lê diệt chúa Trịnh,
tiến đánh luôn quân Trịnh ở Đàng Ngoài.
Năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, lật đổ chúa Trịnh, trao lại quyền hành cho
vua Lê Hiển Tông. Vua Lê thưởng công cho Nguyễn Huệ bằng cách phong Nguyễn Huệ là Uy
Quốc Công, nhường đất Nghệ An cho Tây Sơn. Được vài hôm, Lê Hiển Tông vì bịnh nặng từ
trước, qua đời. Vua kế vị là Lê Chiêu Thống. Sau đó, Nguyễn Huệ rút quân về phương Nam để
Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại đất bắc. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ chia nhau
cai quản từ Nghệ An trở vào. Nguyễn Huệ sau khi chinh phục miền bắc được Nguyễn Nhạc
phong làm Bắc Bình Vương, làm chủ từ Nghệ An đến Phú Xuân. Nguyễn Lữ giữ vùng đất phía
nam, Gia Định. Nguyễn Nhạc giữ vùng Quãng Ngãi đến Bình Thuận.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đi, miền bắc trở nên rối loạn. Các thế lực của họ Trịnh ra sức khôi phục
lại cơ đồ. Lê Chiêu Thống phải dựa vào sức cửa Nguyễn Hữu Chỉnh để chống đỡ. Chỉnh dẹp yên


được họ Trịnh, cậy mình có công lớn nên sinh ra lộng quyền, chống lại Tây Sơn, đòi lại đất
Nghệ An.

Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm ra bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh
cùng vua Lê bỏ chạy lên phía bắc. Dọc đường Chỉnh bị bắt giết, Lê Chiêu Thống thoát sang đất
nhà Thanh cầu cứu. Diệt được Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lại lộng quyền. Nguyễn Huệ đích thân ra
bắc giết chết Nhậm, đưa Ngô Văn Sở lên thay, tuyển dụng người giỏi, hiền tài để trao quyền
hành. Nhà Lê mất từ đây.
Năm 1788, vua Thanh là Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi Đống… đem 20 vạn quân cùng Lê
Chiêu Thống tiến vào nước ta để “tiêu diệt Tây Sơn, dựng lại nhà Lê”. Ngô Văn Sở bỏ trống
Thăng Long rút về xây phòng tuyến ở Tam Điệp một mặt báo tin cho Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị
vào Thăng Long quá dễ cho là Tây Sơn sợ mất mật nên trốn cả nên hống hách, coi thường Tây
Sơn, cho quân cướp phá hết sức tàn bạo. Lê Chiêu Thống cũng thực hiện việc trả thù, báo oán
cũng không kém phần tàn ác, ti tiện.
Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo, ngày 22/12/1788, lập đàn tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng
đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi hành quân thần tốc ra bắc. Qua vùng Nghệ An, Thanh Hóa
đều tuyển thêm quân lính. Khi đến phòng tuyến Tam Điệp ngày 15/01/1779 đã có được đại
quân hơn 10 vạn người.
Rạng sáng mùng 5 tết Kỷ Dậu, 30/01/1789, sau khi chuẩn bị kỹ càng, vua Quang Trung cho
quân tấn cống thành Ngọc Hồi, cùng lúc đó cánh quân khác đánh vào đồn Khương Thượng ở
Đống Đa, sát thành Thăng Long. Ở Ngọc Hồi, trước sức tấn công mãnh liệt, mưu trí của quân
Tây Sơn, mặc dù chống trả kịch liệt nhưng quân Thanh cũng nhanh chóng để mất thành, chạy
tán loạn, nhưng đều bị mai phục chết nhiều vô kể. Ở Đống Đa, quân Tây Sơn do Đô đốc Đông
chỉ huy cũng giành thắng lợi lớn. Thây giặc Thanh chất cao như núi. Tướng giặc là Sầm Nghi
Đống phải treo cổ tự tử kéo theo nhiều bộ hạ thân tín tự sát theo, tàn quân chạy hết về Thăng
Long. Quân Tây Sơn đuổi theo truy sát vào tận Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị lúc đó còn đang mơ
màng trong giấc mộng, giật mình tỉnh giấc thì thấy quanh mình lửa cháy khắp nơi, sáng rực
trời. Không kịp đóng yên cương, nhảy lên ngựa chạy trốn. Quân lính tranh nhau cướp đường
chạy theo tướng về hướng bắc. Chen lấn xô đẩy qua cầu phao sông Hồng. Cầu chịu không nổi,
đứt. Hàng vạn lính bị cuốn trôi theo nước dòng sông. Số chạy thoát đều bị mai phục, chặn
đánh tơi bời.
Trưa mùng 5, vua Quang Trung tiến vào Thăng Long giữa tiếng hò reo của ba quân và dân
chúng. Chỉ trong vòng một tuần, Vua đã từ Phú Xuân hành quân thần tốc đánh tan 20 vạn



quân Thanh hùng hậu. Vua tiến hành khôi phục đât nước với nhiều cải cách triệt để giúp đất
nước phát triển nhanh chóng. Đến năm 1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản lên
thay.
Năm 1793, Nguyễn Ánh từ Gia Định đem quân đánh tới tận thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc.
(Nguyễn Ánh sau khi thất bại cùng với quân Xiêm, sống lưu vong nhiều năm, tới 1797 đã quay
về chiêu mộ được nhiều binh lính, có cả người một số người Pháp do linh mục Bá Đa Lộc đưa
tới, giúp sức, tái chiếm được thành Gia Định từ 1788 khi Quang Trung đang chuẩn bị đánh
quân Thanh, Nguyễn Lữ chạy về Quy Nhơn). Nguyễn Nhạc bị vây khốn phải cầu cứu Quang
Toản. Quang Toản sai tướng đem quân giải vây xong thì có ý muốn chiếm luôn. Nguyễn Nhạc vì
thế uất ức mà chết. Nguyễn Ánh rút nhưng từ đó thường đem quân đánh phá. Hai bên giành
nhau thành Quy Nhơn mấy lần.
Sau khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc chết, nhà Tây Sơn do Quang Toản lãnh đạo. Nhưng vua còn
non nớt nên bị Thái sư Bùi Đắc Tuyên lộng quyền gây nên nhiều mẫu thuẫn nội bộ. Các tướng
tự đánh giết lẫn nhau. Triều đình suy yếu. Trong khi đó Nguyễn Ánh đựơc sự giúp sức của
người Pháp ngày một mạnh lên.
Năm 1801, lợi dụng hai tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng của Tây Sơn đang đánh để
giành lại thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh đánh úp Phú Xuân, lấy được thành, vua Quang Toản
chạy ra bắc. Hai tướng Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng sau khi chiếm đựơc Quy Nhơn, hay tin
ấy quyết định bỏ thành, mượn đường Ai Lao tính ra bắc hội quân với Quang Toản. Dọc đường
thì bị quân Nguyễn Ánh truy sát, bắt giết. Vua Quang Toản và các tướng còn lại cũng không
chống được. Cuối cùng đều bị bắt giết. Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn rất dã man. Nhà
Nguyễn Tây Sơn hoàn toàn bị diệt.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam, mở
ra triều đại nhà Nguyễn kéo dài cho tới năm 1945 qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức, . Tuy nhiên từ 1858 đến 1945, Việt Nam bị thực dân Pháp Xâm lược. Thực dân
Pháp ra sức bóc lột tài nguyên, nhân, vật lực của Việt Nam, dìm các cuộc khởi nghĩa của nông
dân, một số danh sĩ yêu nước trong biển máu. Các vị vua cuối triều Nguyễn không có quyền
quyết định các quốc sách. Họ chỉ là những vị vua bù nhìn, chỉ biết lo cho thân phận mình được

yên ổn. Họ đã bất lực đầu hàng Pháp, không giúp gì được cho đất nước lại còn bóc lột dân
chúng bằng lắm thứ tô thuế,… nặng nề để phục vụ cho cuộc sống xa hoa của họ.
Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân Việt Nam đã lật đổ được chính quyền của Pháp, Nhật, lật đổ chế độ quân chủ phong


kiến của nhà Nguyễn để lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một thể chế nhà nước mới
mà tất cả nhân dân lao động được làm chủ đất nước, bình đẳng với nhau, không có ai bóc lột
ai cả.

NƯỚC VIỆT NAM THỜI KỲ 1945 – 1975
Tháng 8/1945, Pháp nổ súng tái chiếm Nam Kỳ mở đường xâm lược Việt Nam lần 2.
Tháng 12/1946, Pháp ra tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam ở Hà Nội, phải giải tán quân đội,
giao nộp vũ khí. Biết đã tới giới hạn cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng
chiến. Cử một bộ phận quân đội ở lại cầm cự với Pháp tại Hà Nội, còn lại rút hết lên vùng rừng
núi phía Bắc, lập căn cứ kháng chiến.
Không đựơc đáp ứng tối hậu thư, Pháp tấn công Hà Nôi, quân Việt Nam chặn quân Pháp ở đó
hơn hai tháng, khi đại quân và tài sản đã di tản lên căn cứ kháng chiến an toàn thì rút đi. Pháp
chiếm được Hà Nội và sau đó mở rộng ra khắp vùng đồng bằng bắc bộ. Tuy nhiên không tiêu
diệt được chính phủ của Hồ Chí Minh.
Pháp tuy chiếm được Việt Nam nhưng phần lớn chỉ có đủ quân để giữ các vùng đô thị. Nhân
dân Việt Nam tổ chức đánh du kích ở vùng nông thôn và rừng núi. Pháp càng đánh càng đuối
sức trong khi quân Việt Nam càng đánh càng trưởng thành và lớn mạnh. Đến năm 1950 thì
quân đội Việt Nam đã bắt đầu lấy lại thế chủ động có thể đánh những trận lớn trực diện. Và
đến năm 1953 thì Pháp đã rơi vào tình thế bị động đối phó.
Năm 1954, với nỗ lực nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường, Pháp ra sức càn quét,
tăng cường bắt lính để mở rộng nguỵ quân, xin thêm viện binh, viện trợ vũ khí. Xây dựng
những cứ điểm phòng thủ ở miền bắc để thi hành kế hoạch Nava: phòng thủ ở miền bắc, bình
định miền Nam, sau khi bình định miền Nam sẽ có thêm nhiều ngụy quân và thanh thế tiến ra
miền bắc tiêu diệt quân bắc Việt. Và Điện Biên Phủ là một trong những cứ điểm lớn nhất,

mạnh nhất, đông quân nhất và “không thể công phá” tại Đông Dương đã được xây dựng với sự
giúp đỡ của người Mỹ. Pháp định dùng nó làm cái bẫy để nhử quân Việt Nam vào đánh để tiêu
diệt. Thế nhưng…
Tháng 5/1954, cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân Việt Minh bắt sống toàn bộ
16 nghìn quân Pháp trong đó có cả sở chỉ huy. Cả thế giới chấn động. Thất bại này khiến Pháp


phải ký hiệp định Giơ ne vơ chấm dứt xâm lược Việt Nam, chấm dứt sự hiện diện của quân đội
nước ngoài tại Việt Nam.
Pháp rút, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam dựng nên chính quyền tay sai là Ngô Đình Diệm
đàn áp những người chống đối.
Cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống lại Mỹ, và tay sai kéo dài từ đó tới năm 1975. Trong
suốt 20 năm đó, Mỹ và chính quyền do Mỹ dựng lên đã tìm đủ mọi cách, đủ mọi phương tiện
chiến tranh hiện đại nhất để chống lại nhân dân Việt Nam nhưng cuối cùng đều bị thất bại.
Nước Việt Nam độc lập từ đó cho đến nay./.

Sơ lược lịch sử Việt Nam
Cách đây khoảng 4.000 năm, ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang đã
dựng nước Văn Lang, ông tự xưng Vua- gọi là Hùng Vương, kinh đô đóng ở Phong Châu (Phú
Thọ). Nước Văn Lang tồn tại 2.621 năm và truyền được 18 đời vua.
Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Thủ lĩnh bộ lạc Âu Việt (sinh sống chủ yếu ở Việt
Bắc) đã sát nhập với Văn Lang lập ra nước Âu Việt. Ông xưng Vua lấy hiệu An Dương Vương
và dời đô từ Phong Châu về Phong Khuê (Đông Anh - Hà Nội). Nước Âu Lạc tồn tại được 50
năm bị bọn phong kiến phương Bắc xâm lược (quân Triệu Đà và sau đó là nhà Trần) và cai trị
suốt 246 năm (207 trước Công Nguyên- 39), sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ I.
Tháng 3 năm 40, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đã phát động khởi nghĩa ở Mê Linh,
nhân dân theo Hai Bà rất đông. Trong thời gian ngắn đã đánh đuổi bọn cai trị đứng đầu là Tô
Định. Đất nước được độc lập, Trưng Trắc được suy tôn làm Vua (Trưng Vương). Sau nhà Hán
cử Mã Viện sang xâm lược. Hai Bà bị thất bại phải nhảy xuống sông Hát tự vẫn (5/43). Đất
nước ta bị bọn phong kiến phương Bắc cai trị suốt 501 năm (43- 544), sử gọi là thời kỳ Bắc

thuộc lần thứ II. Trong thời kỳ này, năm 248, Bà Triệu quê ở Thanh Hóa đã nổi dậy khởi nghĩa


làm cho bọn đô hộ hoảng sợ phải tập trung lực lượng để đối phó; sau Bà chết ở núi Tùng, khởi
nghĩa thất bại.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí quê ở Thái Bình đã phát động khởi nghĩa, quét sạch được
bọn phong kiến phương Bắc đô hộ giành lại độc lập cho Tổ quốc. Năm 544 Ông tuyên bố dựng
nước Vạn Xuân, lên ngôi hoàng đế và tự xưng là Nam Đế, đóng đô ở Long Biên. Sau đó Triệu
Quang Phục (Triệu Việt Vương) tiếp tục xây dựng nước Vạn Xuân.
Năm 603, phong kiến Phương Bắc (nhà Tùy) lại xâm lược và cai trị nước ta suốt 336
năm (603 - 939), sử gọi là thời kỳ bắc thuộc lần thứ III.
Năm 938, Ngô Quyền quê ở Đường Lâm (Hà Tây) đã lãnh đạo nhân dân ta đánh tan
quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Với chiến thắng này đã kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất
nước kéo dài hơn 1000 năm. Một thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc bắt đầu. Năm 944, sau khi
Ngô Quyền mất thì xảy ra loại 12 sứ quân. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh quê ở Hoa Lư (Ninh
Bình) dẹp được loạn 12 sứ quân thống nhất lại đất nước, lập ta triều đại nhà Đinh, ông lên ngôi
hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng chết, triều đình đã suy tôn thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên
làm vua, lập ra triều đại Tiền Lê. Trong thời kỳ này có cuộc kháng chiến chống quân phong kiến
phương Bắc xâm lược (nhà Tống) thắng lợi.
Năm 1009, sau khi Lê Long Đỉnh chết, triều đình đã suy tôn 1 võ tướng cao cấp là Lý
Công Uẩn, người làng Cổ Tháp (Hà Bắc) lên làm vua, lập ra triều đại nhà Lý. Năm 1010 Lý Thái
Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên là Thăng Long, đặt tên nước là Đại Việt. Nhà Lý
tồn tại 215 năm (1010 - 1225), truyền được 9 đời vua. Trong thời kỳ này, năm 1077 Lý Thường
Kiệt đã đánh thắng quân Tống xâm lược Sông Cầu, nền độc lập nước ta được giữ vững.
Năm 1226, do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho chồng là
Trần Cảnh. Trần Cảnh lên ngôi Hoàng Đế, lập ra triều đại nhà Trần. Nhà Trần tồn tại 175 năm
(1226- 1400), truyền được 13 đời vua, vẫn cứ lấy tên nước là Đại Việt kinh đô là Thăng Long.
Thời Trần, nhân dân ta đã ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông xâm lược: lần thứ
nhất năm 1258, lần thứ II năm 1285, lần thứ III năm 1287.

Từ cuối thế kỷ XIV, triều Trần suy vong, phong trào nông dân khởi nghĩa bùng nổ khắp
nơi. Trước tình hình đó, Hồ Quý Ly - một quý tộc trong triều đã ép vua Trần nhường ngôi cho


mình để lập ra triều Hồ. Hồ Quý Ly, lên ngôi Hoàng đế - đặt tên nước là Đại Ngu (đóng đô ở
Tây Đô - Thanh hóa). Sau đó bọn phong kiến Phương Bắc (nhà Minh) lại kéo 20 vạn quân xâm
lược nước ta. Hồ Qúy Ly bị bắt và bị giải về Trung Quốc. Nhân dân ta không chịu khuất phục,
năm 1416 đã theo Lê Lợi làm cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi
lập ra triều đại nhà Lê. Nhà Lê tồn tại 99 năm (1428- 1527), truyền được 11 đời vua, đặt tên
nước là Đại Việt, kinh đô là Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Đô.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung - một võ quan triều Lê đã cướp ngôi, lập ra triều nhà Mạc,
nhưng nhiều cựu thần nhà Lê không chịu thuần phục và nổi dậy khắp nơi. Năm 1533, Nguyễn
Kim đã tìm dòng dõi nhà Lê tôn lên làm Vua, lập ra nhà Hậu Lê. Nhà Hậu Lê tồn tại được 255
năm (1533 - 1789), truyền được 17 đời Vua. Nhưng Vua chỉ bù nhìn, quyền hành trong tay
Nguyễn Kim, khi Nguyễn Kim chết, quyền hành rơi vào tay con rễ là Trịnh Kiểm. Con trai của
Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng đã vào phía nam tập hợp lực lượng, đến năm 1627 thì không
thuần phục họ Trịnh nữa, vì vậy xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Kết quả không tiêu diệt
được nhau, họ Trịnh - Nguyễn chia cắt đất nước thành hai miền, lấy sông Gianh làm giới tuyến.
Tình trạng này kéo dài hàng trăm năm.
Năm 1771 ba anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đã phát động cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1783 tiêu diệt được tập đoàn họ Nguyễn ở đàng trong; năm 1788 lật
đổ được tập đoàn họ Trịnh nhà hậu Lê ở đàng ngoài. Đất nước trở lại thống nhất. Khi triều đại
Tây Sơn mới thành lập, tháng 11 năm 1788 nhà mãn Thanh đã sai Tôn Sĩ Nghị dẫn 20 vạn
quân sang xâm lược nước ta. Ngày 22/12/1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu
là Quang Trung và lập tức kéo quân thần tốc ra Bắc tiêu diệt quân Thanh. Ngày 30/01/1789
Quang Trung đã tiêu diệt quân địch ở Ngọc Hồi, Khương Thượng rồi tiến vào thành Thăng
Long. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt kéo quân ra sông Hồng, Khương Thượng rồi tiến vào thành
Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt kéo quân ra Sông Hồng, tháo chạy thục mạng về nước.
Cuộc xâm lược của Mãn Thanh bị đập tan. Triều đại Tây Sơn tồn tại 14 năm, truyền được 13
đời vua, đóng đô ở Phú Xuân (Huê).

Trong khi Quang Trung tiến hành xây dựng lại đất nước thì con cháu nhà Nguyễn là
Nguyễn Ánh đã cầu viện nước Pháp chống lại nhà Tây Sơn. Đến năm 1802 thì lật đổ nhà Tây
Sơn và lập ra triều đại nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm (1802- 1945), truyền 13 đời
vua, đóng đô ở Phú Xuân nhưng đổi tên là Huế, đặt tên nước là Việt Nam.


Ngày 1/9/1858 thực dân pháp bắt đầu xâm lược nước ta, đến năm 1884 chúng chiếm
xong nước ta. Ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nổi dậy đấu tranh, làm
nên cuộc cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, kết thúc hơn 80 năm nô lệ cho thực dân
Pháp.
Ngày 02/9/1945 Bác Hồ đã đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch
sử, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng thực dân Pháp đã quay lại xâm lược
nước ta lần nữa. Nhân dân Việt Nam nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ kiên trì đấu tranh
trong cuộc kháng chiến 9 năm (1945 - 1954), từ ngày 18/3 đến 07/5/1954 quân và dân ta đã
giành thắng lợi to lớn ở Điện Biên phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắt sống Tướng
Đờ Cáttơri, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Genève về Đông Dương. Hòa bình lập lại
nhưng nước ta còn tạm thời chia cắt hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Nhân dân miền
Nam kiên trì đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai. Nhân dân miền Bắc đã
đánh tan chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Tháng 3/1975, từ chiến thắng
ở Ban Mê Thuột ở Tây Nguyên đến các chiến thắng ở các tỉnh miền Trung và Nam bộ, ngày
30/4/1975, quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã chiếm dinh Độc Lập, giải phóng Sài Gòn,
kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành được thắng lợi cuối cùng, quét sạch lũ cướp
nước và bán nước ra khỏi bờ cõi, đất nước thống nhất.
Năm 1976, Quốc hội đã đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hiện nay nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đang vững bước trên con đường đổi mới với
mục tiên “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
Tóm tắt lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
Vào thế kỷ thứ 7đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, 15 bộ lạc sinh sống tại vùng châu thổ sông Hồng,
sông Mã, miền bắc Việt Nam ngày nay thống nhất lập nên nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên của người

Việt. Kinh đô đóng tại Phong Châu (Vĩnh Phú ngày nay). Vua nước Văn Lang, tất cả 18 đời, đều xưng là
Hùng Vương.
Thế kỷ thứ 2 trước CN, sau cuộc kháng chiến chống lại quân Tần Thủy Hoàng (218-208), nhà nước phong
kiến Trung Quốc ở phương Bắc, Thục Phán lên làm vua nước Văn Lang xưng là An Dương Vương và đổi
tên nước thành Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội) làm kinh đô.
THỜI KỲ BỊ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ


Năm 179 trước CN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà xâm lược. (Triệu Đà là tướng quân của
nhà Tần. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, ông ta nhân cơ hội chiếm phần đất do mình được giao cai quản ở
phía nam nước Tần lập nên nước Nam Việt. Còn nhà Tần thì bị nhà Hán thay thế.) Nước Âu Lạc bị đô hộ
mở đầu cho thời kỳ lịch sử đen tối, đau thương, đầy uất hận dài đằng đẵng hơn 1000 năm của dân tộc
Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập thành các quận, huyện của các nhà nước phong kiến phương Bắc (qua các
triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường của Trung Quốc). Trong thời gian này,
tuy bị cai trị, bóc lột tàn nhẫn, hà khắc nhưng nhân dân ta vẫn không những chẳng khi nào chịu khuất
phục mà còn liên tục vùng lên đấu tranh nhằm giành lại độc lập tự chủ, chống bị Hán hóa.
Sau CN, năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Nhưng chỉ 3 năm
sau. Đất nước lại bị rơi vào tay nhà Hán.
Nhiều cuộc khởi nghĩa lại dậy lên sau đó.
Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô thất bại.
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập từ tay nhà Lương, xưng là Lý Nam Đế, lập
ra nước Vạn Xuân với mong muốn đất nước mãi mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế thua trận liên tục phải rút về
động Khuất Lão. Tại đây ông bị bệnh chết. Triệu Quang Phục lên thay. Triệu Quang Phục lui quân về đầm
Dạ Trạch thực hiện chiến tranh du kích. Cuối cùng năm 550, Triệu Quang Phục mới giành được thắng lợi,
khôi phục nước Vạn Xuân, tự xưng là Triệu Việt Vương. Đến năm 571, Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử
cướp ngôi.
Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống được cuộc xâm lược của giặc, nước ta lại rơi vào tay nhà Tùy, rồi
nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa. Thất bại.

Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền. Nhà Đường công nhận chính quyền tự chủ
của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Nam Hán là một nước do Luu Ẩn, tướng của nhà Hậu
Lương cát cứ vùng đất Hoa Nam mà mình được nhà Lương giao cho cai quản thành lập (nhà Lương cướp
ngôi nhà Đường vào năm 907). Người đứng đầu nước ta lúc đó là Khúc Thừa Mỹ không chống lại được,
bị bắt sang Nam Hán. Các tướng lĩnh của họ Khúc tổ chức nhiều cuộc kháng chiến.
Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương Đình Nghệ lãnh đạo thành công. Ông được tôn làm Tiết Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể Dương Đình
Nghệ khởi binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên vua Nam Hán vui vẻ nhận
lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang nước ta theo đường thủy định phối hợp với
Kiều Công Tiễn đánh bại Ngô Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền đã diệt được Kiều


Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán lọt vào trận địa mai phục của Ngô Quyền ở cửa
sông Bạch Đằng thì bị đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận, quân Nam Hán tháo chạy về nước. Vua
Nam Hán bỏ mộng xâm lược.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở ra thời kỳ độc lập tự chủ hòan toàn cho
nước ta sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong kiến phương bắc.
Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình đất nước rơi vào cảnh hỗn lọan, tranh dành quyền lực giữa các phe
phái tướng lĩnh và con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều Ngô là Ngô Xương Văn chết, các tướng lĩnh địa phương thi nhau cát
cứ. Đất nước bị chia cắt thành 12 sứ quân.
THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân. Do ông đánh đâu thắng đấy nên đuợc dân chúng
tôn là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt
tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn. Triều thần bắt giết Đỗ Thích, lập Đinh
Toàn, 5 tuổi, lên làm vua. Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ chính được giao cho Lê
Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy tình hình nước ta rối ren, vua còn nhỏ tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội

trời cho để thôn tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua quân xâm lược. Được tin, Thái Hậu Dương Vân Nga cùng
triều thần nhất trí nhường ngôi báu cho Lê Hòan để ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê Đại Hành). Ông gấp rút tổ chức lại bộ máy
hành chính, chỉnh đốn quân đội chuẩn bị nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai đường thủy, bộ. Nhờ chuẩn bị tốt, và tài mưu
lược. Lê Hoàn đánh bại quân Tống, giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành ngôi báu. Lê Long Đĩnh thắng lên làm vua (Lê
Ngọa Triều). Ông vua này rất thích bạo lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc lòng dân chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều người, Lý Công Uẩn tự xưng vua (Lý Thái Tổ) lập
ra triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông,
Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông và Lý Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống bên Trung Quốc cho là cơ hội tốt chuẩn bị
lương thảo có ý xâm lược nước ta. Vì vua còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt nắm trọn
binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương “đánh phủ đầu” quân Tống để tự vệ trước bèn tập trung 10 vạn
quân thủy bộ chia làm hai đường đánh sang đất Tống với mục đích phá hủy các kho dữ trữ lương thảo


hậu cần nằm ở Ung Châu và Khâm Châu, Liêm Châu mà nhà Tống đang chuẩn bị để phục vụ cho cuộc
xâm lược nước ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ đánh Ung Châu. Bị bất ngờ nên quân Tống thua
liên tiếp. Nửa tháng sau chính quyền Tống ở trung ương mới biết được tin. Vua Tống lập tức chuẩn bị
đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được mục đích và rút về nước cũng là đề
phòng bị đánh úp. Khi đó, đại binh quân Tống còn chưa kịp lên đường.
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực lượng, nhà Tống đem 30 vạn quân chia hai đường thủy, bộ bắt
đầu xâm lược nước ta và cũng là để trả thù cho sự kiện ở trên. Lý Thường Kiệt chọn địa điếm quyết
chiến tại sông Như Nguyệt, xây dựng phòng tuyến phòng thủ tại bờ nam chờ giặc.
Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến phòng tuyến Như Nguyệt và bị chặn đứng ở đó. Thế trận giằng co
kéo dài, binh Tống ngày một hao tổn do thiếu lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du kích. cuối cùng

quân Tống phải chấp nhận giảng hòa rút quân về. Triều Lý bắt tay xây dựng đất nước và bước vào thời
kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu do các vua đều lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, bị chết yếu,… quyền
hành rơi vào tay ngọai tộc vốn lắm kẻ gian tham, bất tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý, các quý tộc quan
lại họ Trần nổi lên là một thế lực lớn có công giúp nhà Lý bình định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, 7 tuổi. Quyền bính nằm cả trong tay
quan điện tiền Trần Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng mình là Trần Cảnh
(Trần Thái Tông), cháu của Trần Thủ Độ, khi ấy cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn trong tay Trần Thủ Độ
với địa vị Thái Sư. Trần Thủ Độ tìm mọi cách để “nhổ sạch rễ” họ nhà Lý, củng cố địa vị cho họ Trần. Nhà
Lý kết thúc ở đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị, gây nhiều bất bình trong dân
chúng. Thậm chí còn gây nên mâu thuẫn lớn giữa một số người trong họ Trần. Tuy nhiên, thế lực của
Trần Thủ Độ quá lớn nên mọi việc cuối cùng cũng êm xuôi. Triều đại nhà Trần dần phát triển và kéo dài
175 năm qua 12 đời vua (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh
Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Dương Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế, Trần
Thuận Tông, Trần Thiếu Đế). Triều Trần hưng thịnh nhất sau khi 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông
Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược nước Đại Việt của nhà Trần. Khi ấy Mông Cổ là một đại đế quốc lớn
nhất thế giới trong lịch sử có lãnh thổ bao gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái Bình Dương cho tới
Trung Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành trướng. “Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu, nơi ấy cỏ cây không
mọc được”. Lần xâm lược Đại Việt này nằm trong kế họach bành trướng xuống phía Nam của Đại hãn
Mông Cổ lúc đó là Mông Kha (Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy chia làm nhiều cánh tràn vào Đại Việt tới Bạch Hạc (Vĩnh
Phú ngày nay) thì hợp lại cùng tiến về Thăng Long. Vua Trần Thái Tông và các tướng lĩnh lần đầu ra quân


gặp cường địch, non kinh nghiệm đối phó với kỵ binh Mông Cổ nên liên tiếp thua trận phải thi hành kế
sách bỏ Thăng Long vườn không nhà trống rút về phía Nam bảo tòan lực lượng chờ thời cơ, đồng thời
để một số quân ở lại kết hợp với dân chúng quanh vùng đánh du kích. Quân Mông Cổ vào đến Thăng

Long không cuớp bóc được nhiều của cải lương thực để nuôi quân lại không quen khí hậu nên sinh bệnh,
mệt mỏi, rối loạn đội ngũ, nhụt nhuệ khí chiến đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức tập kích doanh
trại quân giặc. Quân Mông Cổ hốt hoảng không kịp phản ứng giày xéo nhau mà chạy, bị giết rất nhiều.
Đại quân Trần truy sát lại thêm phục binh quân Trần đổ ra chặn đánh khắp nơi, quân Mông Cổ chạy về
Vân Nam (Trung Quốc) mà không có thời gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng Đại
Việt sạch bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng Long vỏn vẹn được 9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Nhà Nguyên bên Trung quốc là do Hốt Tất Liệt, em
trai của đại hãn Mông Cổ Mông Kha, diệt nước Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng nên. Vì vậy ta hay
gọi quân Nguyên là Nguyên Mông hay Mông Nguyên.
50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến chiếm Đại Việt. Đích thân con trai Hốt Tất Liệt, thái tử Thoát
Hoan, chỉ huy hai đạo quân bộ từ hai hướng đông bắc, tây bắc Đại Việt đánh xuống, đạo quân thủy do
Toa Đô từ nước Chiêm Thành (sau khi lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai Toa Đô đánh Chiêm Thành
trước), phía nam Đại Việt đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào giữa. Vua Trần lúc này là Trần Nhân Tông
cử Trần Quang Khải làm Thượng Tướng Thái Sư, Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh ba
quân chống giặc.
Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh quân bộ phía đông của Thoát Hoan trước. Trần Nhật Duật thì
chặn cánh quân phía Tây do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy. Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần vừa đánh
vừa rút lui chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế chiếm Nội Bàng, Vạn Kiếp… Khi quân Nguyên tới Thăng
Long thì vua Trần đã rút về Thiên Trường (Nam Định) bỏ lại kinh thành trống không như lần kháng Mông
Cổ lần trước. Về Thiên Trường, Trần Quốc Tuấn cử Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải trấn giữ Hoan Châu
(Nghệ An) chặn đường tiến quân Toa Đô. Khi Thoát Hoan chiếm Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo
quân ra lấy lại Vạn Kiếp đánh sau lưng Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho người về nước xin thêm
binh cứu viện. Lúc đó, ở phía Nam, Trần Nhật Duật rồi Trần Quang Khải không ngăn được Toa Đô. Khi
Toa Đô tiến vào đến Ái Châu (Thanh Hóa), Vua Trần công kích Thóat Hoan ở Thăng Long nhưng không
được lại lui về Thiên Trường. Thoát Hoan đuổi theo. Trần Quốc Tuấn phải đem quân từ Vạn Kiếp về
Thiên Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải Dương. Thoát Hoan đuổi theo sát gót. Đồng thời Toa Đô
cũng kéo quân thủy theo đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần Quốc Tuấn sử dụng kế nghi binh dụ
quân Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển còn mình đưa vua Trần thoát vào Ái Châu theo đường
bộ, thóat hiểm trong tíc tắc…
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt lội làm cho quân Nguyên vốn chỉ quen khí hậu lạnh ở phương

bắc bị bệnh dịch rất nhiều, lương thực lại cạn kiệt nên giảm sức chiến đấu. Trần Quốc Tuấn chỉ chờ cơ
hội như vậy để phản công. Ông cử Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật , Trần Quốc Tỏan, Nguyễn Khoái,…
chặn đánh quân thủy của Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương… Đích thân Trần Quốc Tuấn thì
đánh lên Vạn Kiếp. Quả nhiên quân Nguyên thất thế. Toa Đô rút về Thiên Trường. Quân ở Vạn Kiếp chạy
cả về Thăng Long. Liên lạc giữa hai cánh thủy bộ của quân Nguyên bị quân Trần cắt đứt. Quân Trần tập
trung đánh Thăng Long. Thoát Hoan thua to, bỏ thành rút chạy về Bắc Ninh. Khi Toa Đô kéo lên Thăng


Long định hội quân với Thoát Hoan thì Thóat Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở Tây Kết. Đến đây,
Toa Đô bị đại quân của vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị đánh tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô Mã
Nhi, Lưu Khuê dắt tàn quân chạy vào Ái Châu. Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã Nhi, Lưu Khuê
phải bỏ thuyền tướng lấy thuyền nhỏ tháo chạy ra biển về nước, quân Trần bắt sống được vài vạn tàn
quân. Phía Thóat Hoan, sau khi về Bắc Ninh lại bị quân Trần đón đánh thì chạy sang Vạn Kiếp
nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn cũng đã bố trí sẵn quân mai phục. Giữa lúc quân Nguyên đang vượt
sông Thương, quân Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số kể. Thoát Hoan cùng bộ tướng Lý Hằng
gom tàn quân chạy về nước. Tới biên giới thuộc Lạng Sơn, quân Trần phục sẵn trên núi bắn tên xuống
như mưa, Lý Hằng trúng tên độc chết liền. Thoát Hoan được hộ tướng giấu vào một vật dụng bằng đồng
bỏ lên xe cho lính kéo chạy nhờ vậy sống sót, chạy thoát về nước. Đại Việt sạch bóng quân Nguyên.
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát Hoan chỉ huy thẳng tiến Đại Việt để báo thù.
Lần này quân Nguyên cũng chia làm 3 đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai Lỗ vào theo hướng
dọc sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi theo đường biển vào sông Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn
thuyền lương thực do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội quân tại
Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước. Quân Nguyên lúc này còn hăng hái nên
tiến được vào đến Vạn Kiếp tuy bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù nên tung tăng đi
trước bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã Nhị họp quân với Thóat Hoan
ở Vạn Kiếp thì đòan thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị Trần Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở
Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong đất liền không hề hay biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng Long. Trần Quốc Tuấn lại để thành Thăng
Long vườn không nhà trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không bắt được vua Trần liền sai Ô Mã Nhi gấp

rút đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực tức bằng cách cho quân cuớp bóc dân chúng, đốt phá
nhà cửa, chùa chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,..
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc Giang, Vạn Kíếp sai Ô Mã Nhi ra biển tìm
đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải Phòng) thì bị đánh tơi
bời. Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã Nhi quay về Vạn Kiếp. Vua Trần cho người mang theo
tù binh bắt được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan thông báo đoàn thuyền lương Trương
Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân Nguyên lo sợ vì lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công
ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với các tướng rút quân về nước. Tất cả tướng Nguyên đều
đồng ý. Thoát Hoan rút theo đường bộ theo ngả Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng. Nhưng
Trần Quốc Tuấn đã cho quân mai phục tất cả mọi nẻo đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn
Tiếp lọt vào trận địa bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống, máu quân Nguyên nhuộm đỏ nước sông.
Trên bộ, Thoát Hoan cũng bị chặn đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới
Lạng Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc). Đại Việt
lại sạch bóng giặc ngoại xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có được một thời gian dài ổn định và phát triển
hưng thịnh. Nhưng từ đời vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu hiện suy thoái. Vua


quan bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã có lúc rơi vào tay ngọai tộc, giặc giã nỗi lên như nấm,
các nước lân cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời vua Trần Nghệ Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi
lên là một nhà chính trị có tài và được trọng dụng. Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của nhà Trần, Hồ
Quý Ly đọat được ngôi báu.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước Đại Việt thành Đại Ngu,
và tiến hành nhiều cuộc cải cách lớn, trong đó có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy “thông bảo hội sao”.
Tuy nhiên không phải cuộc cải cách nào cũng được lòng dân chúng.
Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung Quốc lúc này là nhà Minh cử các tướng Mộc Thạnh, Trương
Phụ,… đem quân xâm lược nước Đại Ngu. Quân quan nhà Hồ chống cự quyết liệt nhưng vì Đại Ngu lúc
đó chưa ổn định, nhà Hồ chưa được dân chúng ủng hộ,… nên cuối cùng quân Minh đập tan sức kháng cự
của quân Hồ. Hồ Quý Ly cùng con trai và nhiều tướng bị bắt giải sang Trung Quốc. Nhà Minh nhập Đại
Ngu thành quận Giao Chỉ của họ. Lúc đó nhân dân Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở nhiều nơi. Hic.

Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng là quý tộc tôn thất nhà Trần, tiến hành khởi nghĩa chống quân
Minh. Ban đầu cũng giành được một số thắng lợi đáng kể nhưng sau đó trong nội bộ mất đoàn kết nên
nghĩa quân suy yếu và bị dập tắt vào năm 1412.
Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào kiệt khắp nơi trong nước, trong đó có Nguyễn Trãi, Lê Lợi phất
cờ khởi nghĩa tại núi Lam (thuộc Thanh Hóa ngày nay). Ban đầu lực lượng nghĩa quân còn yếu, chừng vài
nghìn người, nhưng cũng dùng mưu thắng được nhiều trận lớn gây thanh thế như ở Lạc Thủy, Mường
Một… Quân Minh tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của nhiều kẻ bán nước, chỉ điểm nên có lúc chúng
đẩy nghĩa quân lâm vào tình trạng hiểm nghèo. Ba lần nghĩa quân phải trốn lên núi Chí Linh, chịu cảnh
đói khát, thiếu thốn trăm bề. Ở lần thứ hai rút lên núi Chí Linh, năm 1419, nhờ 500 quân cảm tử do Lê
Lai dẫn đầu đánh xông ra, mạo danh Lê Lợi để cho giặc bắt giết nên nghĩa quân mới được bảo tòan
xuống núi. Nghĩa quân Lê Lợi chiến đấu như vậy ròng rã mấy năm trời cho đến năm 1424 thì mới tạo nên
chuyển biến có lợi cho mình.
Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại phần lớn đất nước, dồn quân Minh vào cố thủ trong 4
thành Đông Quan (Thăng Long), Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Tướng quân Minh lúc đó là Vương Thông phải
cho người về nước xin viện Binh. Tuy nhiên, cả hai cánh quân cứu viện, với số quân 15 vạn, do Liễu
Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay tại cửa ải. Liễu Thăng bị chém đầu tại trận
ở ải Chi Lăng. Mộc Thạnh hay tin thì đang đêm mang quân chạy về nước nhưng cũng bị phục đánh tơi
bời. Quân Lê Lợi giết được hàng nghìn lính, thu nhiều ngựa và vàng bạc, khí giới. Ngày 10/12/1427, túng
quẫn vì bị vây mà không có viện binh, quân Minh đang cổ thủ trong các thành đều ra hàng. Lê Lợi tha
cho 10 vạn giặc Minh và còn cấp đủ lương thực cho chúng, sửa cầu đường cho chúng rút về nước. Cả
bọn đều bái lạy.
Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở thành Đông Kinh (Thăng Long) khôi phục tên nước Đại
Việt mở đầu triều đại nhà Lê. (Gọi là nhà hậu Lê để phân biệt với nhà tiền Lê của Lê Đại Hành trước kia).


Nhà hậu Lê phát triển ổn định và đại nhiều thành tựu lớn trong xây dựng đất nước qua năm đời vua Lê
Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Đến đời vua Lê Uy Mục thì
bắt đầu xuống dốc.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi vua cho mình. Trước đó, ông ta cậy có nhiều
công nên lạm quyền, kết bè cánh và đã phế truất ngôi của Lê Chiêu Tông giao cho Lê Cung Hoàng. Nhà

Mạc thành hình. Ở trong nước là thế nhưng khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung lại hèn kém trong ngọai giao
với nhà Minh, nhún nhường nhận chức An Nam đô thống sứ do vua Minh “trao tặng” khiến nhân dân và
nhiều quan lại phẫn nộ.
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống lại nhà Mạc.
Năm 1532, Nguyễn Kim tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua (Lê Trang Tông), đóng ở Thanh Hóa,
nhiều quan lại của cũ của nhà Lê cũng theo về phò tá tạo nên một triều đình mới đối lập với nhà Mạc ở
phía bắc. Đại Việt lúc đó vì thế có hai triều đình ở hai miền nam, bắc.
Sau khi Nguyễn Kim chết (1546), vua Lê phong con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay. Trịnh Kiểm tiến
hành lọai trừ phe cánh của Nguyễn Kim để tập trung quyền lực vào tay mình. Các con của Nguyễn Kim,
Nguyễn Uông bị bắt giết, Nguyễn Hoàng lo sợ nên tìm cách lánh bằng cách xin trấn giữ ở vùng Thuận
Hóa. Trịnh Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn vào vùng đó ngấm ngầm có ý lập nên “vương quốc” riêng
của mình chống lại họ Trịnh nhưng bên ngoài vẫn tỏ về thuần phục, giúp họ trịnh chống họ Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng thay.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà Mạc ở Thăng Long, thống nhất đất nước, nhà Lê khôi
phục, vua Lê bấy giờ là Lê Thế Tông. Tuy nhiên vua Lê chỉ là cái bóng. Họ Trịnh lập ra vương phủ riêng
tồn tại bên cạnh triều đình vua Lê. Quyền lực nằm cả trong tay họ Trịnh.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng ở phía Nam chết. Con là Nguyễn Phúc Nguyên vâng lời cha “dạy bảo nhân
dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh” để “xây dựng cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế, họ Trịnh đem quân vào đánh. Cuộc chiến
giữa hai họ bắt đầu từ đó. Đại Việt bị chia cắt thành hai “đàng” lấy sông Gianh làm ranh giới. Đàng Ngoài
tính từ bờ bắc sông Gianh trở ra bắc, Đàng Trong từ bờ nam sông Gianh trở vào nam. Ranh giới này tồn
tại suốt gần 300 năm cho đến khi Nguyễn Huệ thống nhất vào năm 1786.
Năm 1771, ở Đàng Trong, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo nông dân khởi
nghĩa ở Tây Sơn. Lúc này ở cả hai Đàng chính quyền phong kiến đều đã rất bê tha, suy tàn. Trải qua mấy
trăm năm chia cắt, chiến tranh triền miên giữa hai Đàng đã làm cho đất nước điêu tàn, kiệt quệ, nông
dân vô cùng đói khổ. Vì thế vô vàn nông dân đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Với khẩu hiệu “ Lấy
của nhà giàu chia cho người nghèo”, quân Tây Sơn tiến đến đâu thì dân nghèo ở đấy đều tham gia.
Thanh thế của nghĩa quân Tây Sơn lớn lên nhanh chóng. Hầu như đánh đâu thắng đấy. Chẳng mấy chốc
chiếm toàn bộ Quy Nhơn, Quảng Ngãi.



Năm 1777, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đóng ở thành Đồ Bàn (Bình Định), sai Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ đánh thành Gia Định. Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ sau khi đánh lấy được thành, giết chết chúa
Nguyễn Phúc Thuần, cắt người trấn thủ xong thì rút về Quy Nhơn. Nguyễn Ánh là cháu của Nguyễn Phúc
Khoát (chúa Đàng Trong ngày xưa, trước Nguyễn Phúc Thuần) đem quân chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức.
Năm 1783, quân Tây Sơn đánh chiếm lại thành Gia Định, Nguyễn Ánh thua chạy trốn sang Xiêm (Thái
Lan) cầu cứu.
Năm 1784, quân Xiêm cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân, 300 chiến thuyền và Chiêu
Thùy Biên đem 3 vạn quân bộ cùng Nguyễn Ánh tấn công Gia Định. Đến cuối năm đó thì chiếm được nửa
đất Gia Định, Tây Sơn chỉ còn giữ hai thành Gia Định, Mỹ Tho.
Đầu năm 1785, Nguyễn Ánh và quân Xiêm từ Sa Đéc tiến đánh Mỹ Tho. Nguyễn Huệ cho quân mai phục,
chặn đánh trên sông Mỹ Tho, đoạn ở Rạch Gầm- Xoài Mút. Quân Xiêm đại bại, chỉ còn vài ngàn bộ binh
rút chạy về nước. Tây Sơn truy bắt Nguyễn Ánh nhưng không được. Nguyễn Huệ củng cố ba quân, cử
tướng trấn giữ Gia Định rồi rút ra Tây Sơn cùng với Vũ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh (một tướng
Đàng Ngoài không phục Trịnh Khải, bỏ nhà Trịnh theo Tây Sơn) chiếm luôn thành Phú Xuân đang do
Đàng Ngoài nắm giữ. Rồi nhân đà thắng lợi giành lại hết các vùng đất của Đàng Trong. Xong, lấy danh
nghĩa giúp vua Lê diệt chúa Trịnh, tiến đánh luôn quân Trịnh ở Đàng Ngoài.
Năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, lật đổ chúa Trịnh, trao lại quyền hành cho vua Lê Hiển
Tông. Vua Lê thưởng công cho Nguyễn Huệ bằng cách phong Nguyễn Huệ là Uy Quốc Công, nhường đất
Nghệ An cho Tây Sơn. Được vài hôm, Lê Hiển Tông vì bịnh nặng từ trước, qua đời. Vua kế vị là Lê Chiêu
Thống. Sau đó, Nguyễn Huệ rút quân về phương Nam để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại đất bắc. Ba anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ chia nhau cai quản từ Nghệ An trở vào. Nguyễn Huệ sau khi chinh
phục miền bắc được Nguyễn Nhạc phong làm Bắc Bình Vương, làm chủ từ Nghệ An đến Phú Xuân.
Nguyễn Lữ giữ vùng đất phía nam, Gia Định. Nguyễn Nhạc giữ vùng Quãng Ngãi đến Bình Thuận.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đi, miền bắc trở nên rối loạn. Các thế lực của họ Trịnh ra sức khôi phục lại cơ đồ.
Lê Chiêu Thống phải dựa vào sức cửa Nguyễn Hữu Chỉnh để chống đỡ. Chỉnh dẹp yên được họ Trịnh, cậy
mình có công lớn nên sinh ra lộng quyền, chống lại Tây Sơn, đòi lại đất Nghệ An.
Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm ra bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh cùng vua
Lê bỏ chạy lên phía bắc. Dọc đường Chỉnh bị bắt giết, Lê Chiêu Thống thoát sang đất nhà Thanh cầu cứu.

Diệt được Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lại lộng quyền. Nguyễn Huệ đích thân ra bắc giết chết Nhậm, đưa Ngô
Văn Sở lên thay, tuyển dụng người giỏi, hiền tài để trao quyền hành. Nhà Lê mất từ đây.
Năm 1788, vua Thanh là Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi Đống… đem 20 vạn quân cùng Lê Chiêu
Thống tiến vào nước ta để “tiêu diệt Tây Sơn, dựng lại nhà Lê”. Ngô Văn Sở bỏ trống Thăng Long rút về
xây phòng tuyến ở Tam Điệp một mặt báo tin cho Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long quá dễ cho
là Tây Sơn sợ mất mật nên trốn cả nên hống hách, coi thường Tây Sơn, cho quân cướp phá hết sức tàn
bạo. Lê Chiêu Thống cũng thực hiện việc trả thù, báo oán cũng không kém phần tàn ác, ti tiện.


×