Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Lào cai vùng đất giàu tiềm năng kinh tế văn hóa du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.25 KB, 19 trang )

MỤC LỤC


I. MỞ ĐẦU
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du miền núi phía
bắc. Có vị trí và vai trò rất quan trọng đóng góp vào việc giữ an ninh – quốc
phòng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là vùng kinh tế trọng
điểm của phía bắc, có điều kiện thuận lợi về địa lý tự nhiên trong phát triển kinh
tế. Đặc biệt là trong thời kì hiện nay khi mà đất nước đang trong quá trình hội
nhập quốc tế, việc phát triển các tiềm năng kinh tế của tỉnh là rất quan trọng.
Từng bước cải thiện đời sống nhân dân, ổn định chính trị
- Xã hội và phát triển bền vững của khu vực cũng như của cả đất nước
Xuất phát từ thực tế như vậy, tác giả chọn vấn đề: “Lào Cai – vùng đất
giàu tiềm năng kinh tế, văn hóa du lịch ” làm đề tài của mình, nhằm sáng tỏ
những tiềm năng, thành công kinh tế và rút ra hạn chế, định hướng phát triển
cho tương lai ở tỉnh Lào Cai

2


II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH LÀO CAI
1. Vị trí địa lý
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi
phái Bắc của Việt Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía
bắc Lào Cai giáp Trung Quốc , phía tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh
Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái
2. Lịch sử hình thành và phát triển lãnh thổ
Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay
50 – 60 triệu năm, trong đợt sơn tạo cuối cùng. Hơn một vạn năm trước, con
người đã có mặt ở nơi đây. Tổ tiên người bản địa Lào Cai ngày nay hồi đó cư trú


tập trung ở ven sông Hồng, sông Chảy. Các chủ nhân văn hóa Hòa Bình ở Lào
Cai đã biết làm nông nghiệp . Thời Hùng Vương là đất thuộc Tân Hưng, thời Âu
Lạc thì một phần Lào Cai thuộc Tây Vu còn lại thuộc các bộ lạc khác
Thời Bắc thuộc, Lào Cai thuộc Tây Vu , quận Giao Chỉ. Sau này Tân
Hưng, Giao Châu, tiếp lại đổi thành Đan Đường , Chu Quý (thời Tùy), tiếp đổi
thành Lâm Tây, Đức Hóa (thời Đường)
Trong thời tự chủ phong kiến thì vào thời Đinh, Lê, Lý có tên là Đăng
Châu, thời Trần là huyện Thủy Vĩ, trấn Quy Hóa, đạo Đà Giang. Năm 1940, nhà
Lê đổi đạo thừa tuyên Hưng Hóa thành xứ Hưng Hóa , đến thới Lê Tương Dực
đổi xứ Hưng Hóa thành trấn Hưng Hóa
Thời Nguyễn, Lào Cai thuộc đất Châu Thủy Vĩ , Châu Văn Bàn, một
phần thuộc Châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc Châu Lục Yên thuộc phủ
Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa
Thành lập Tỉnh Lào Cai

3


3/1886, sau khi đánh chiếm Lào Cai, đế quốc Pháp cai quản địa hạt này
theo chế độ quân sự . 7/1/1899, thành lập đạo quân binh IV nhằm kiểm soát và
khai thác vùng đất này. Ngày 12/07/1907, toàn quyền Đông Dương chuyển từ
chế độ quân quản sang cai trị dân sự , thành lập tỉnh Lào Cai. Địa danh Lào Cai
có tên trên bản đồ Việt Nam . Ngày 12/07 là ngày thành lập tỉnh Lào Cai
Tỉnh Lào Cai hiện nay gồm có thành phố Lào Cai với 12 phường, 5 xã, có
8 huyện với 9 thị trấn và 143 xã
3. Về nông, lâm, ngư nghiệp – công nghiệp – dịch vụ
Tỉnh Lào Cai đã tập trung phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tích cực
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, tăng độ
che phủ của rừng . Giá trị sản xuất nông – lâm nghiệp tăng bình quân 8,05%
/năm . Nhờ chuyển dịch cơ cấu nội ngành đúng hướng và tạo được bước đột phá

về tăng năng suất và mùa vụ cấy trồng nên sản lượng lương thực tăng đều qua
các năm. Năm 1995 là 110200 tấn, năm 2000 là 151400 tấn đến năm 2005 đạt
182000 tấn. Năm 2005 đạt 595,4 tỷ đồng, Chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang
nông nghiệp sản xuất hàng hóa, tiếp cận gần với chế biến và kinh tế thị trường .
Năm 1986, đàn trâu có 70300 con. Về bò, năm 1986 là 8300 con, năm 2000 là
17600 con. Về lợn, năm 2000 là 229100 con. Giai đoạn 2006 – 2010, Lào Cai
xác định nông nghiệp, nông thôn vẫn là mặt trận quan trọng và tập trung phát
triển nông nghiệp theo chiều sâu, đảm bảo sự phát triển bền vững. Cạnh đó, kinh
tế rừng phát triển, độ che phủ đạt 45% . Ngoài ra, giá trị sản xuất thủy sản tăng
đều qua các năm , năm 1986 đạt 218 tấn, năm 2000 đạt 528 tấn, năm 2005 đạt
1080 tấn .
Về công nghiệp – tiểu thủ công : Duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, bình
quân là 13,25% . Giá trị sản xuất công nghiệp tăng đều, năm 1991 là 20,6 tỷ
đồng thì đến năm 2000 là 273,8 tỷ và năm 2005 là 450,2 tỷ . Còn có vốn đầu
tư ODA cho công nghiệp, quy hoạch cho cụm công nghiệp Tằng Loong, Đông
Phố Mới, Bắc Duyên Hải, khu thương mại Kim Thành
4


Thương mại – du lịch: Hoạt động xuất nhập khẩu tăng mạnh, tổng kim
ngạch năm 2005 đạt 430 triệu USD tăng 3 lần so với năm 2000. Cửa khẩu quốc
tế Lào Cai ngày càng chứng tỏ vị trí, vai trò trong tuyến hành lang kinh tế Côn
Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Các dự án thu hút được tổng số vốn
ODA là 65,6 triệu USD . Du lịch là ngành mũi nhọn của tỉnh với 3 trọng điểm
Sapa, Bắc Hà, thành phố Lào Cai. Năm 2005 đón 510.000 lượt du lịch khách
trong đó có 36% khách quốc tế , doanh thu tăng 6,4 lần so với năm 2000
So với trước năm 1986, nền kinh tế Lào Cai vẫn nằm trong khối chung
bao cấp cả nước, trì trệ, nặng nề và kém phát triển tất cả các lĩnh vực . Nền kinh
tế chủ yếu tự cung, tự cấp, do mâu thuẫn giữa hai nước Việt Trung nên việc xuất
nhập khẩu ở cửa khẩu cũng kém . Khu du lịch sapa phát triển cầm chừng. Xong

từ đại hội VI (1986) và đại hội VII (1991), nhờ chủ trương chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước. Sự vận dụng sáng tạo phù hợp thực tiễn của tỉnh Lào
Cai có rất nhiều tiềm năng về phát triển kinh tế. Sự đoàn kết của 25 dân tộc anh
em cùng đi lên phát triển . Thu hút cả nguồn vốn trong và ngoài nước để phát
triển kinh tế - xã hội

5


CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ LỢI THẾ TO LỚN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - VĂN HÓA DU LỊCH
2. Mỏ Apatit Lào Cai – giá trị công nghiệp to lớn
2.1. Lịch sử hình thành
Quặng Apatit Lào Cai là một loại quặng phosphat có nguồn gốc trầm tích
biển, thành hệ tiền Cambri chịu tác dụng biến chất và phong hóa. Loại quặng
này được dùng chủ yếu để sản xuất phân lân. Mỏ Apatit lào Cai thuộc thị xã
cam Đường, phân bố dọc theo bờ phải sông Hồng, Mỏ có chiều dày 200m, rộng
từ 1- 4km chạy dài 100km với trữ lượng khoảng 2,5 tỷ tấn, lớn thứ 4 thế giới
Mỏ quặng Apatit được phát hiện rất tình cờ vào năm 1924 bởi một ông
lão người Tày (Trần Văn Nỏ) khi đi rừng, bắc bếp bằng những cục đá đun phát
ra tia lửa xanh kỳ lạ . Sau đó, biết tin người pháp đã bắt tay vào thăm dò và khai
thác.
Trước 1945, mỏ Apatit hoàn toàn do người Pháp quản lý khai thác, số phuphan
nên đến hơn 3000 người, lao động rất khổ cực, đói rét, bị đánh đập triền miên.
Từ 1945 đến 1954 chính phủ ta vẫn chưa lấy được mỏ vẫn nằm trong tay Pháp.
07/05/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Trong kỳ họp thứ 4
Quốc hội khóa I đã khẳng định nhiệm vụ trọng tậm là củng cố Miền Bắc, khôi
phục phát triển kinh tế, trong đó có chủ trương khôi phục công nghiệp mỏ Apatit
Lào Cai.
2.2 trước 1986

05/1955, Mỏ Apatit Lào Cai được chính phủ cho khảo sát thăm dò, mời
chuyên gia Liên Xô sang giúp đỡ về mặt phục hồi và khai thác với công suất
500000 tấn/năm. 23/09/1958 Bác Hồ về thăm mỏ Apatit. Công ty đã lấy ngày
này làm ngày truyền thống.

6


Từ 1967-1968 do ảnh hưởng của chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế
quốc Mỹ, nhiều cán bộ công nhân của công ty đã lên đường làm nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Năm 1979, do chiến tranh biên giới Việt - Trung bùng nổ cho nên
mỏ có nhiều thiệt hại.
Như vậy, trước 1986 do nhiều nguyên nhân như chiến tranh điều kiện
khoa học còn thiếu nên việc khai thác còn kém hiệu quả. Trong thời kì bao cấp.
Do nước ta vừa thoát ra khỏi cuộc chiến nên điều kiện cơ sở hạ tầng thiếu, việc
khai thác tuy có xong chỉ là cầm chừng.
2.3 Sau năm 1986
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, đến năm 1988 mỏ được đổi tên thành xí
nghiệp liên hiệp Apatít Lào Cai. Đặc biệt là từ cuối thập niên 90 thế kỉ XX sang
đầu thế kỉ 21. Quá trình sản xuất tăng lên đáng kể, đặc biệt với giai đoạn sau:
Thời kỳ từ 1999 - 2009, trong 10 năm giá trị tổng sản của công ty tăng
trên 3 lần, doanh thu tăng trên 5 lần nộp ngân sách tăng 10,4 lần, thu nhập của
công nhân viên tăng 6,8 lần. Nhất là từ năm 2005 đến nay công ty đã có những
tiến bộ vượt bậc, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 19,3 %. Đỉnh cao là 2008 với
giá trị tổng sản lượng đạt 363 tỷ đồng, tăng 29% so với 2007, doanh thu đạt
1750 tỷ đồng, tăng 273%. Thu nhập của công nhân viên đạt 6,5
triệu/người/tháng. Năm 2009 tăng 19,6% và thu nhập công nhân viên đạt 6,8
triệu/người/tháng.
Dự kiến, năm 2015 công ty Apatit sẽ đạt doanh thu 1000 tỷ đồng/năm.
Trong tương lai sẽ xây dựng cụm mỏ Apatit Lào Cai trở thành một khu công

nghiệp lớn ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, góp phần vào kinh tế của
vùng, của đất nước.
Tính từ năm 1965 đến 2005 thì sản lượng quặng Apatít được khai thác là:
quặng loại I đạt 14triệu tấn, quặng loại II đạt 3 triệu tấn, quặng loại III ddatj 40
triệu tấn, quặng tuyển đạt 2,5 triệu tấn.

7


Việc khai thác quặng Apatít có vai trò rất to lớn, nó là nguồn để sản xuất
phân lân, khi mà diện tích cây trồng ngày càng cao. Với trữ lượng quặng Apatít
thứ 4thế giới, trong tương lai từ 2010 đến 2040 thì khoảng 90% sản lượng quặng
Apatít trên toàn thế giới sẽ dùng sản xuất phân bón. Theo tính toán thì đến năm
2040, dân số thế giới sẽ đạt 9,2 tỷ người vì vậy nhu cầu phân bón là rất bức
thiết.
3. Sapa - giá trị văn hóa du lịch to lớn
3.1. Lịch sử hình thành
Thị trấn Sapa xưa là cao nguyên Lồ suối Tùng rừng rậm âm u thuộc trại Ngòi bò
sau là tổng Hướng Vinh, Châu thủy vĩ tỉnh Hưng Hóa. Mùa Đông 1903, đoàn
thám hiểm người Pháp khi tiến hành đo đạc xây dựng bản đồ ở đây đã khám phá
ra cảnh quan cao nguyên Lồ Suối Tùng và làng Sa Pả ở thượng nguồn Ngài
Đum. Đoàn đã đặt tên cao nguyên là cao trạm SaPa đánh dấu vào quá trình phát
hiện SaPa
Năm 1905, người Pháp đã đặt được mốc tiêu lên đỉnh núi Phanxipan,
cung cấp nhiều dữ liệu về khí hậu, thảm thực vật, cảnh quan môi trường SaPa
thích hợp với dịch vụ du lịch điều dưỡng... Từ đó, SaPa dần đân thu hút khách
du lịch là nhà buôn, kỹ sư cầu đường, chủ thầu xây dựng. Họ đến SaPa vào cuối
tuần.
Ngày 02/06/2909, Pháp thành lập khu điều dưỡng trên Cao trạm SaPa.
Đầu tư cho SaPa, xây dựng SaPa thành kinh đô mùa hè là những kiến nghị trong

các hội nghị, tạp chí Đông Dương. Các nhà đầu tư liên tiếp đến SaPa. Năm 1909
Pháp xây dưng một nhà nghỉ dân dự. Năm 1912 khách sạn Tòa Sứ được xây
dựng. Hàng loạt đồn điền, công sở, nhà thờ mọc lên.
Năm 1916, Hiệp hội khuyến khích du lịch SaPa ra đời. Năm 1924, có
đường ôtô vào SaPa. Năm 1930, SaPa được dùng điện. Số khách du lịch không
ngừng tăng, năm 1927 chỉ có 51 du khách nhưng đến năm 1929 có 158 khách.
Cuối 1938-1939 có gần 300 lượt khách đến SaPa. SaPa trở thành Kinh Đô Mùa
8


Hè của người Pháp và giới Tư sản Việt Nam. Báo chí khi đó đã ca ngợi SaPa là
trạm điều dưỡng lý tưởng, là thần dược của kẻ liệt, là thiên đường của trẻ nhỏ, là
bà chúa của khách du lãng, là cảnh quan xanh trong bất tận phơn phớt mây vờn.
Năm 1945, khi quân Nhật tiến vào đây, SaPa đã bị tàn phá nhiều. Ngoài
ra năm 1947, SaPa bị tàn phá nhiều theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến và
trong chiến tranh biên giới (1979), hàng ngàn ha rừng thông bao phủ thị trấn bị
đốt sạch, nhiều tòa biệt thự cổ do Pháp xây dựng cũng bị phá hủy.
3.2 Trước 1986.
Trong cơ chế bao cấp, SaPa chỉ là trung tâm nghỉ mát, du lịch phát triển
cầm chừng.
Trước 1975 do nước ta còn trong chiến tranh loạn lạc, tất cả vì thống nhất
tổ quốc nê những việc phát triển du lịch ít được chú trọng.
Sau 1975 đến 1986, nước ta vừa thoát khỏi chiến tranh và bị Mỹ cấm vận,
đời sống nhân dân nghèo khổ, lại thực hiện đường lối chính sách bao cấp cứng
nhắc, khép kín cho nên khu du lịch SaPa vẫn chưa được phục hồi mà chỉ phát
triển hạn chế.
3.3 Sau 1986
Với Đại hội VI (1986) và tiếp theo Đại hội VII (1991) với cơ chế mở cửa
đất nước, cộng với việc (01/10/1991) khi Lào Cai tách khỏi Hoàng Liên Sơn cũ
tái thành lập Tỉnh thì SaPa mới thật sự bùng nổ du lịch và trở thành một trung

tâm du lịch lớn của toàn quốc. Hành loạt biệt thự, khách sạn được khôi phục và
xây dựng mới. Năm 1990 SaPa chỉ có 40 phòng nghỉ thì đến năm 1995 có 300
phòng. Hiện nay SaPa có khoảng 60 Nhà nghỉ, khách sạn với 1500 phòng.
Trong đó có khách sạn 4 sao Victoria với 77 phòng. Số du khách đến SaPa tăng
nhanh, năm 1991 là 2000 khách, đến năm 1995 là 20000 khách, năm 2001 là
45000 khách và 2002 là 60000 khách.
Hiện nay SaPa là nới có nhiều cảnh quan đẹp, hấp dẫn du khách với
những cánh rừng Samu xen các ngôi biệt thự đầy dáng dấp Châu Âu. Là nơi có
9


6 dân tộc sinh sống với nhiều phong tục tập quán. Với rất nhiều sự thú vị từ
Thác Bạc, Hàm Rồng, Chợ tình SaPa, thác Cát Cát, những rừng mỏ đào mận nở
hoa rực rỡ đại ngàn. Đặc biệt khi mùa đông còn có tuyết rơi tạo nên khung cảnh
như một thành phố đẹp ở trời Âu. Bên cạnh đó còn có bãi đá cổ nằm ở Mường
Hoa rộng 3 km2 với hơn 200 hòn đá to nhỏ chạm khắc nhiều hình vẽ, hoa văn,
dấu hiệu chữ viết đang được đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế
giới.

10


CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRONG TƯƠNG LAI
1. Tiềm năng mỏ Apatit
Hiện công ty Apatit Việt Nam đang thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư vốn cả
trong và ngoài nước. Đưa nguồn khoáng sản Apatit trở thành mặt hàng xuất
khẩu ra thế giới. Dự kiến là đến năm 2015 doanh thu hằng năm của công ty sẽ
đạt 1000 tỷ đồng/ năm.
Sự đầu tư máy móc trang thiết bị đều là của cộng hòa liên bang Đức với đội ngũ

xe khai thác siêu trường, siêu trọng.
Tỉnh Lào Cai cũng chú trọng đầu tư 100 tỉ đồng đầu tư xây dựng khu
công nghiệp Đông Phố Mới - Kim Thành - Tằng Loỏng
2. Tiềm năng văn hóa du lịch SaPa
Với sự giúp đỡ của trường Đại học Bordeaux 3 ( CH Pháp) và Chính phủ
Pháp cùng với nhiều nguồn vốn ODA nước ngoài nhằm thúc đẩy ngành công
nghiệp du lịch của Tỉnh Lào Cai trở thành ngành mũi nhọn của Tỉnh trong tương
lai.
Hiện nay với cơ sở hạ tầng, khách sạn nhà nghỉ, danh lam thắng cảnh ở
SaPa được khôi phục và trùng tu, xây dựng nhiều công trình. Tiến tới trong
tương lai trở thành thành phố Du lịch, đô thị loại 3.

11


KẾT LUẬN
Với những lợi thế riêng có của mình, chắc chắn trong tương lai Lào Cai
trở thành một trung tâm công nghiệp - du lịch ở miền Trung Du và miền núi
phía Bắc. Nhưng trong tình hình hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế trong cơ cấu
quản lý cũng như khó khăn về nguồn tài chính xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng.
Bên cạnh đó thì hiện nay Tỉnh Lào Cai vẫn được xếp là một trong những
Tỉnh nghèo nhất cả nước. Dù có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng để tiến lên trở
thành một Tỉnh giầu mạnh còn là một con đường gian truân. Xong Đảng và
đồng bào các dân tộc tỉnh Lào Cai luôn đoàn kết với nhau để xây dựng quê
hương Lào Cai ngày một giàu đẹp, đóng góp chung cho xu thế mở cửa của kinh
tế đất nước

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, đất nước Việt Nam qua các đời.
2. Vũ Tự Lập (2011), Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm,
t56
3. Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Lào Cai (1994), tập I, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
4. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký toàn thư, quyển VIII, phần bản kỷ toàn thư, t127
5. Các trang web:

/> />


13


PHỤ LỤC ẢNH

Ruộng bậc thang ở SaPa

Quặng Apatit
14


Một góc thành phố Lào Cai

15


Một góc thị trấn SaPa

Bác Hồ về thăm mỏ Apatit năm 1958


16


Khai thác mỏ Apatit

Dinh Hoàng A Tưởng

Nhà thờ SaPa
17


18


19



×