Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP NHẦM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH án dân sự ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.72 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
Đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẦM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng
dẫn:
Ths: Vũ Thò Hương

Sinh viên thực
hiện:
Đinh Thò Hằng My
Lớp: K21B

H́, 4/2015




Với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ
tận tình của các thầy cô giáo, gia đình và bạn
bè đã giúp tôi hoàn thành niên luận này. Tuy
nhiên với năng lực bản thân và thời gian có
hạn nên bài làm không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong được tiếp thu ý kiến để
niên luận được hoàn thiện hơn.
Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân


thành tới :
- Cô giáo: Vũ Thò Hương người đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
thực hiện niên luận.
- Thầy cô giáo trong trường đại học luật Đại học Huế.
- Gia đình và bạn bè đã quan tâm giúp đỡ,
tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành niên
luận.
Huế, tháng 04
năm 2015
Sinh viên thực
hiện
2


Ñinh Thò Haèng My

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

4

THA

:

Thi hành án;


THADS

:

Thi hành án dân sự;

TAND

:

Toà án nhân dân;

CHV

:

Chấp hành viên;

TTDS

:

Tố tụng dân sự;

TTHS

:

Tố tụng hình sự;


TTHC

:

Tố tụng hành chính;

TTTHA

:

Tố tụng Thi hành án;

TTTP

:

Tố tụng tư pháp;

HĐND

:

Hội đồng nhân dân.


MỤC LỤC

5



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm
chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt
động THA có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép
nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực
tư pháp được thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết
định của TAND đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết
căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan
THADS, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan THA". Nhiều năm qua, Chính
phủ đã xác định công tác THADS là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa
ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Do
vậy, công tác THADS trong những năm qua đạt được một số kết quả đáng khích lệ,
mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ quan THADS
được hình thành trong cả nước, công tác THADS đã được triển khai và hoạt động có
hiệu quả bước đầu". Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác THADS hiện vẫn đang đứng
trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra
cần được giải quyết. Hiệu quả công tác THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt
động THA chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Tồn tại lớn nhất trong công tác THADS những năm qua là tình trạng án "tồn
đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa có biện pháp hữu hiệu để
giải quyết. Tính đến hết năm 2002 trong tổng số trên 450 ngàn vụ việc phải thi hành,
thì có trên 173 ngàn vụ việc không có điều kiện thi hành, chiếm gần 39% với tổng số
tiền lên tới 8.000 tỷ đồng. Riêng năm 2002 trong số 276.749 việc có điều kiện thi

hành thì chỉ có 247.000 việc các Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành được,
chiếm 89.23% nhưng số vụ việc thi hành xong hoàn toàn chỉ đạt 160.061 vụ, chiếm
57.83%, chưa kể số vụ việc chưa có điều kiện thi hành.
6


Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác THADS hiện nay. Thực trạng
này, một phần xuất phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ
phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp
và cá nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự
phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu
quan trong quá trình THADS; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về THADS chưa đầy đủ,
chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế THA hiện nay không
hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiểu quả công tác THA nói chung và THADS sự nói
riêng.
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả THADS
cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh tế, pháp luật,
chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ... Nhưng trong khuôn khổ luận
văn luật học, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những vấn đề liên quan đến pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác THADS, đã
có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề THADS, cụ thể là: Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại",
mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư
pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình
quản lý thống nhất công tác THA", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục THADS - Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện; Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn
thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế THADS, thực tiễn áp dụng và hướng
hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả

Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức và hoạt động THADS ở Việt Nam"; Luận
văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục THADS ở Việt
Nam"... Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật TTDS của trường Đại học luật Hà Nội và
các trường Đại học có chuyên ngành luật;
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về THADS ở những góc độ,
khía cạnh và mức độ khác nhau. ở một số công trình cũng đã đề cập đến vấn đề thực
trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu vấn đề đó một cách toàn diện, chuyên sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
7


-

-

Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho
việc đưa ra các giải pháp nhằm năng cao hiệu quả công tác THADS ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể sau:
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ những cơ sở lý luận về THA và THADS.
Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật về THADS thực tiễn
THADS.
Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
Đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả THADS.
4. Phạm vi nghiên cứu
"Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS ở Việt Nam" là một
đề tài có tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, trong

khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn về THA và THADS; đánh giá thực trạng THADS và từ đó rút ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật THADS sự nhằm nâng cao hiệu quả THADS trong điều kiện
mới của đất nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử;
Phương pháp phân tích;
Phương pháp so sánh;
Phương pháp thống kê;
Tổng hợp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về THADS.
Chương 2: Thực trạng pháp luật THADS, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
THADS.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm chung về THADS.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về THADS
Trong quá trình giải quyết một vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự thì việc điều tra, hoà giải, xét xử vụ án thực ra mới chỉ là giai đoạn đầu
của quá trình. Ở các giai đoạn này Toà án mới chỉ quyết định giải quyết về nội dung
vụ án, mới chỉ xác định quyền và lợi ích của các đương sự, các quyết định này muốn
trở thành hiện thực trong cuộc sống thì phải thông qua việc thi hành. Tổng hợp các
hành vi pháp lý thi hành các quyết định của Toà án trong các bản án, quyết định được

đưa ra thi hành thành một giai đoạn độc lập của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của
các đương sự. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn THA. Tuy nhiên, khi đưa ra khái
niệm về THADS thì có rất nhiều quan niệm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất của PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng THADS không phải
là một thủ tục TTDS, mà là một hoạt động mang tính chấp hành và điều hành như
vậy THADS là một thủ tục hành chính.
Quan điểm thứ 2 của TS. Phan Hứu Thư cho rằng THADS là một thủ tục TTDS.
Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ
quyền lợi của đương sự.
Cả 2 quan điểm trên đều có điểm hợp lý, nhưng quan điểm thứ 2 là phù hợp hơn
cả vì những lý do sau:
Thứ nhất, khi tranh chấp dân sự phát sinh, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình, các đương sự phải nhờ sự can thiệp của nhà nước mà cụ thể là của toà án. Sau
khi thụ lý vụ việc, Toà án tiến hành điều tra, hoà giải, xét xử để đưa ra phán quyết
của mình. Việc giải quyết vụ việc mới thực sự là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng.
Ở giai đoạn này, toà án mới giải quyết được về nội dung của vụ án, phân định quyền
và nghĩa vụ của các bên. Nếu phán quyết đó không được thi hành đưa ra thi hành thì
lợi ích của đương sự thực chất chưa được bảo vệ. Hiệu lực bản án, quyết định của
Toà án không được bảo đảm. Việc bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự là cả một quá
trình và phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Chỉ khi nào tiến hành xong các giai
đoạn này thì quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự mới được coi là hoàn thành.
Thứ hai, về nguyên tắc, khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải
được đưa ra thi hành theo yêu cầu của người được thi hành án hay cơ quan THA chủ
động thi hành. Tuy nhiên bản án, quyết định của Toà án đang được đưa ra thi hành
9


hoặc đã thi hành xong vấn có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
nếu có kháng nghị của người có thẩm quyền. Do đó, giai đoạn THA và quá trình xét
xử có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau, nó là hai mặt thống nhất của quá trình

bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó việc ra bản án, quyết định là tiền đề, là điều
kiện để tiến hành giai đoạn THA. Nói như thế, không có nghĩa chỉ khi nào giai đoạn
xét xử được thực hiện xong thì mới đến giai đoạn THA mà THA còn được tiến hành
song song cùng với giai đoạn xét xử. chẳng hạn việc xin giải quyết quá trình xin ly
hôn, xét điều kiện khó khăn của người vợ, Toà án có thể ra quyết định khẩn cấp tạm
thời buộc người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của
người vợ, cơ quan THA tiến hành thực thi ngay quyết định đó mặc dù toà án vẫn
chưa giải quyết xong việc ly hôn đó.
Thứ 3 tranh chấp dân sự của các bên đều xuất phát từ quan hệ pháp luật nội
dung. Do đó, án dân sự chủ yếu là giải quyết các vấn đề về tài sản giữa các đương sự.
Mặt khác, nếu bản án, quyết định toà án chưa có hiệu lực pháp luật mà đương sự tự
nguyện thi hành thị thuần tuý đây là quan hệ dân sự thông thường chứ không có sự
can thiệp của cơ quan nhà nước. Do đó, không thể coi đây là thủ tục hành chính được.
Hơn nữa, nếu cho rằng trong tố tụng dân sự chỉ có toà án mới là chủ thể tiến hành tố
tụng còn cơ quan THA không phải là chủ thể được phép tiến hành các hoạt động tố
tụng nên việc THA của cơ quan THA không phải là hoạt động tố tụng là không thoả
đáng. Bởi lẽ việc giải quyết vụ án dân sự là một quá trình khó khăn và phức tạp, liên
quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực đó đều được một cơ
quan chuyên môn đảm nhiệm. Vì vậy, để giải quyết tốt một vụ việc dân sự thì phải có
sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan tổ chức với nhau. Kết quả hoạt
động của cơ quan này tạo cơ sở, tiền đề cho hoạt động của cơ quan khác và góp phần
vào nhiệm vụ chung là giải quyết vụ việc được nhanh chóng, chính xác, kịp thời,
đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, hoạt
động của THA phải được coi là một thủ tục TTDS và là một bộ phận không thể thiếu
của ngành luật TT. Đến nay điều này đã được khẳng định trong bộ luật TTDS. Theo
điều 1 của bộ luật TTDS thì THADS là hoạt động TTDS.
Vì vậy, THADS là hoạt động TTDS nhằm thi hành bản án, quyết định của Toà án.
Giai đoạn THADS là giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự trong
bản án, quyết định của toà án được đưa ra thi hành trên thực tế.
1.1.2. Ý nghĩa của THADS/

THADS là một bộ phận của THA, đó là hoạt động của cơ quan THA tiến hành
theo trình tự, thủ tục nhất định nhằm đưa những Bản án, Quyết định có hiệu lực của
10


Tòa án ra thi hành. Đây là giai đoạn không thể thiếu của quá trình bảo vệ quyền lợi
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Hoạt động THA nói chung và hoạt động THADS nói riêng có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với mọi phương diện của đời sống. Về mặt Nhà nước, THA là một
trong những phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước, giữ nguyên kỉ cương phép
nước, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Đối với đời sống xã hội, THA góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho các cơ quan, tổ chức và mọi công dân, tạo niềm tin vững
chắc của quần chúng nhân dân đối với pháp luật của quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn
xã hội. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế Xã hội
chủ nghĩa, ngoài chức năng của cơ quan Công an, VKS, Tòa án thì cơ quan THADS
giữ một vai trò đặc biệt và là một mắt xích không thể thiếu của quá trình tố tụng. Mọi
phán quyết của Tòa án chỉ là những quyết định trên giấy và không thể phát huy trên
thực tế nếu không được thi hành đầy đủ và hiệu quả nhất là trong lĩnh vực THADS.
THA củng cố công tác xét xử, đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định, bảo
về lợi ích của nhà nước, bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội và của công dân, góp phần tăng cương pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, qua việc THADS còn kiểm tra được công tác xét xử của Toà án đối
với từng vụ án cụ thể. Trên cơ sở đó tổng kết rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng
xét xử.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của THADS Việt Nam
Dưới thời Pháp thuộc, THADS hình thành với tên gọi Thừa phát lại. Nhưng đến khi
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công tác THA nói chung, THADS nói riêng
đã có sự thay đổi căn bản về chất.
Nhìn lại chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của THADS Việt Nam từ
năm 1945 đến nay, chúng ta có thể chia thành các giai đoạn sau:

1.2.1. Tháng 8/1945 đến 1989
Từ sau cách mạng Tháng 8/1945 đến trước khi có pháp lệnh THADS năm 1989,
tổ chức và hoạt động THADS chưa dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có
hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có bản quyền ban hành (như luật, pháp
lệnh), có thời kì chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm thời về công tác Chấp hành án ban kèm
theo công văn số 817/CV ngày 23/10/1979 của TAND tối cao. Ở giai đoạn đầu của
thời kì náy, hoạt động THADS được thực hiện dựa trên cơ sở tham khảo chế định
thừa phát lại của chính quyền Đông Dương. Tuy nhiên, tổ chức Thừa phát lại – hình
thức tổ chức và hoạt động THADS của chế độ mới không còn mang ý nghĩa là công
11


cụ của chính quyền thực dân phong kiến như trước đó, mà nó đã trở thành công cụ
đắc lực trong việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án chế độ mới.
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà về tổ chức các Toà án và ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý
đâu tiên cho tổ chức THADS Việt Nam. Tại điều 3 khoản 3 của Sắc lệnh quy định
Ban tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên, bao
gồm các bản án, quyết định của Toà án. Tại điều 3 của Lệnh số 130 ngày 19/7/1946
của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quy định: “ Trong các xã, thị
xã hoặc theo khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi
hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của Toà án… ở những nơi nào đã có Thừa phát
lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh”.
Như vây, tổ chức THADS đã được hình thành ngay từ những năm đầu sau Cách
mạng tháng thành công dựa theo nhiệm vụ cảu Thừa phát lại và Ban tư pháp cấp xã
đã tồn tại trước đó.
1.2.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 - 30/6/1993
Pháp lệnh THADS năm 1989 là hình thức văn bản pháp luật cao nhất đầu tiên
được ban hành tại Việt Nam do hội đồng nhà nước (Uỷ ban Thường vụ Quốc hội)
ban hành ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990, đã đặt cơ sở pháp

lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS (Pháp lệnh có 7
chương và 43 điều).
Với Pháp lệnh THADS năm 1989, những quy định về THADS của Việt Nam
lần đầu tiên được pháp điển hoá ở một văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc áp dụng và thực thi pháp luật trong hoạt động THADS, góp
phần bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù cơ chế THADS đã từng bước hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác
này dần dần được cũng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng, tuy nhiên trong
quá trình thực hiện pháp lệnh đã bộc lộ những hạn chế nhất định, sự chỉ đạo điều
hành công tác THADS vẫn còn thấp.

12


1.3.3. Giai đoạn từ 1993 đến nay
Để khắc phục hạn chế nói trên, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX ngày
06/10/1992 đã thông qua nghị quyết về việc bàn giao công tác THA từ TAND các
cấp sang cơ quan của Chính phủ. Pháp lệnh THADS 1993 thay thế Pháp lệnh
THADS năm 1989 đã tạo bước ngoặt lớn về tổ chức và hoạt động THA, đưa công tác
này sang một giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thì kỳ đổi mới. Theo
đó, công tác THADS được chuyển từ TAND các cấp sang các cơ quan của Chính
phủ. Mô hình tổ chức cơ quan THADS được thiết lập với hai loại cơ quan: Cơ quan
quản lý THA và Cơ quan THADS. Địa vị pháp lý của CHV, quyền tự định đoạt của
đương sự tiếp tục được khẳng định. Ngoài ra, Pháp lệnh THADS 1993 cũng có những
qui định nhằm xác lập cơ chế phối hợp của các ngành, cấp trong công tác THADS.
Tuy nhiên, do được ban hành trong điều kiện khẩn trương nhằm kịp thời triển khai thi
hành nghị quyết về bàn giao công tác THADS từ TAND các cấp sang cơ quan của
Chính phủ, nên những sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh THADS năm 1993 là rất khiêm
tốn, chủ yếu tập trung vào sự chuyển đổi cơ chế THA, mà không có sự sửa đổi, bổ

sung về mặt trình tự, thủ tục THA. Do đó việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh THADS
năm 1993 là nhu cầu cấp bách nhằm đáp ứng thực tiễn đòi hỏi.
Ngày 14/01/2004, ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh THADS
năm 2004, với 8 chương, 70 điều. So với Pháp lệnh năm 1993, đã tăng thêm 1
chương, 20 điều. Về mặt nội dung, Pháp lệnh năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung
một cách cơ bản, có nhiều nội dung đã được phát triển thêm, có nhiều nội dung hoàn
toàn mới được bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, với tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính hiện nay.
1.4. THADS một số nước trên thế giới
1.4.1. Về tổ chức THADS.
Tùy theo đặc điểm về truyền thống pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở từng
quốc gia mà tổ chức THADS được pháp luật qui định là một tổ chức công, bán công
hoặc là do tư nhân đảm nhiệm.
* THA công ở mô hình này tổ chức THA bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc
bộ máy nhà nước, các CHV và công chức, viên chức hưởng lương từ Ngân sách Nhà
nước. Mô hình tổ chức THA công có thể phân làm hai loại: Cơ quan THA nằm trong
cơ cấu tổ chức của Tòa án và các cơ quan hành chính tư pháp hoặc cơ quan thuế.
- Cơ quan THA nằm trong Tòa án
Tổ chức THA ở các nước này là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa
án, CHV là công chức đặt tại Tòa án do Chánh án hoặc Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ
13


nhiệm. Toàn bộ hoạt động THA đặt dưới sự giám sát chỉ đạo của Chánh án Tòa án
địa phương hoặc thẩm phán THA. Mặc dù vậy, hoạt động THA được tiến hành theo
một thứ tự chặt chẽ cho CHV tiến hành theo quy định của pháp luật.
Điển hình là Trung Quốc. Tòa án đảm nhiệm việc THADS, bản án, quyết định
dân sự và phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật do
TAND sơ thẩm thi hành. Những bản án, quyết định mà pháp luật qui định do TAND
thi hành sẽ do TAND nơi người phải THA cư trú hoặc nơi có tài sản của người phải

THA tiến hành. Công tác THA do Thi hành viên đảm nhiệm. Căn cứ vào yêu cầu
thực tế, TAND cơ sở, TAND trung cấp có thể lập cơ quan thi hành án. Chức trách
của cơ quan THA do TAND Tối cao quy định.
- Cơ quan THA thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan thuế
Các cơ quan THA loại này được chia làm hai dạng sau:
Một là, mô hình tổ chức THADS công, độc lập tạo thành một hệ thống từ Trung
ương đến địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan quản lý hành chính
tư pháp.
Ví dụ như Thái Lan: Tổ chức cơ quan THA bao gồm: Ban thư ký, Ban tài chính,
Ban THADS, Ban thực hiện dịch vụ theo chỉ định các vụ phá sản; Trung tâm nhận
giữ tài sản, Ban kết toán THA và nhận giữ tài sản của các khu vực và tỉnh thành.
Hai là, mô hình tổ chức THADS công, độc lập tạo thành một hệ thống từ Trung
ương đến khu vực đặt dưới sự quản lý của Hội đồng thuế quốc gia.
Ví dụ như ở Thụy Điển, các cơ quan THA thuộc hệ thống các cơ quan nhà nước.
ở cấp Trung ương có cơ quan THA trực thuộc Bộ tài chính, ở địa phương tương
đương với 10 khu vực hành chính có 10 cơ quan THA khu vực. Trong mỗi cơ quan
THA có Giám đốc, CHV, nhân viên thanh tra với nhân viên hành chính.
* Tổ chức THA bán công.
Tổ chức THA bán công là tổ chức THA mà do công chức thực hiện đối với một
số việc THA nhất định như thu thuế, THA đối với bất động sản và quyền tài sản, tịch
thu tài sản sung công quỹ, phạt tiền... vừa cho viên chức thừa hành đảm nhiệm phần
lớn công việc THADS trên nguyên tắc lấy thu bù đắp chi phí THA. Tương tự như tổ
chức THA công, tổ chức THA bán công cũng có thể nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa
án, hoặc các cơ quan hành chính.
Ví dụ ở Đức: Việc THADS do Tòa án khu vực đảm nhiệm. ở Tòa án này có
thẩm phán, nhân viên Tòa án, CHV và nhân viên THA. CHV chịu sự giám sát trực
tiếp của Chánh án Tòa án cấp khu vực. Tuy là công chức nhưng CHV thực hiện công
việc của mình một cách độc lập, có con dấu riêng, được hưởng một khoản lương cố
14



định. CHV không làm việc tại cơ quan Tòa án mà mở văn phòng riêng và được quyền
tuyển nhân viên giúp việc. CHV được hưởng lương, được hưởng 15% lệ phí THA
các khoản tiền thanh toán chi phí khác như: đi lại, sao chụp tài liệu.
* Tổ chức THA tư nhân.
Là mô hình tổ chức chủ yếu theo quy chế Thừa phát lại. Thừa phát lại do Nhà
nước bổ nhiệm, là người hành nghề theo quy chế tự do, Nhà nước không trả lương
mà hưởng thù lao theo luật định. Thừa phát lại vừa thực hiện chức năng công quyền
(lập văn bản, thu hồi nợ, làm đại diện) và chức năng trợ giúp khác cho người được
THA.Thừa phát lại - tổ chức nghề nghiệp, không phải là cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, việc THA có sự giám sát của Tòa án, trực tiếp là thẩm phán THA. Trong quá
trình THA, nếu có các vấn đề tranh chấp phát sinh, thì thẩm phán THA giải quyết.
Thừa phát lại không phải là công chức nhà nước mà là người được Nhà nước bổ
nhiệm để thực hiện sứ mệnh công, nhưng theo qui chế của người hành nghề tự do,
không ăn lương Nhà nước mà tự hạch toán. Điển hình cho mô hình này là Cộng hòa
Pháp.
1.4.2. Thủ tục THADS một số nước trên thế giới
Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thủy, thì thủ tục THADS của một
số nước trên thế giới được thể hiện qua những vấn đề sau:
* Về quyền yêu cầu THA:
Hầu hết ở các nước đều ghi nhận nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, điều đó
được thể hiện bằng việc pháp luật qui định về quyền yêu cầu THA. Nếu bên phải
THA không tự nguyện thi hành, thì người được THA có quyền yêu cầu cơ quan THA
cưỡng chế thi hành. Cơ quan thi hành không được từ chối yêu cầu của người được
THA nếu không có lý do đã được pháp luật qui định, cho dù cơ quan THA là một cơ
quan nhà nước hay hoạt động với tính chất là tổ chức Thừa phát lại.
* Về lệ phí THA:
Pháp luật nhiều nước (Pháp, Nhật, Thụy Điển...) đều cho phép cơ quan THA thu
lệ phí THA. Tùy điều kiện của mỗi nước mà mức lệ phí có khác nhau, nhưng về
nguyên tắc mức lệ phí đó thu đủ để chi phí cho hoạt động THA. Lệ phí THA được

tính trên cơ sở mức lệ phí tối thiểu (người yêu cầu phải nộp khi nộp đơn yêu cầu
THA) và lệ phí trên giá trị tài sản THA (được tính theo phần trăm giá trị tài sản thi
hành được). Ngoài ra, ngân sách nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho hoạt động
THA, chủ yếu là việc chi trả lương cho CHV, thẩm phán THA nếu đó là thiết chế
thuộc bộ máy nhà nước (Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Nhật Bản,
Singapore…).
15


Các chi phí cưỡng chế THA do người phải THA chịu, trường hợp tài sản của
người phải THA không đủ thì có thể do người được THA chịu.
* Việc cung cấp thông tin về điều kiện THA của người phải THA.
Ở nhiều nước, pháp luật qui định người được THA có nghĩa vụ cung cấp các
thông tin về điều kiện THA của người phải THA cũng như đề nghị biện pháp cưỡng
chế THA cần thiết để cơ quan THA thực hiện (Thụy Điển, Nhật Bản…). ở các nước
này, việc quản lý thu nhập, tài sản của cá nhân, tổ chức nói chung và người THA nói
riêng rất chặt chẽ, thể hiện ở hệ thống các cơ quan đăng ký tài sản. Mọi người đều có
quyền yêu cầu cơ quan này cung cấp các thông tin về tài sản, nhất là các thông tin về
bất động sản của một cá nhân hay một tổ chức nào đó phải nộp một khoản lệ phí cho
họ (Mỹ, Pháp, Nhật). Ngoài ra, giữa cơ quan THA và cơ quan đăng ký tài sản có thể
trao đổi thông tin qua mạng máy tính khi cần xác định điều kiện tài sản của người
phải THA.
* Về thời hiệu THA
Ở các nước khác nhau, thời hiệu THA được quy định cũng khác nhau. Nhưng so
sánh với Việt Nam, thì các nước qui định thời hiệu THA dài hơn.
Ví dụ ở Cộng hòa Liên bang Đức, thời hiệu THA là 30 năm kể từ ngày bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật; ở Thụy Điển thời hiệu THA là 10 năm. Hết 10 năm
người phải THA có đơn yêu cầu chấm dứt việc THA, nhưng sau 11 năm có đơn yêu
cầu của người được THA thì Tòa án vẫn phải THA.
* Các biện pháp chế tài đối với người cố tình không THA

Pháp luật nhiều nước qui định các biện pháp chế tài có tính cưỡng bức đối với
người phải THA, nếu họ cố tình không chấp hành các yêu cầu của CHV, cố tình
không THA.
Ví dụ như ở Cộng hòa Liên bang Đức: CHV có quyền yêu cầu cảnh sát áp giải
đương sự theo giấy triệu tập đến cơ quan THA nếu đương sự cố tình trốn tránh, tuy
được báo gọi nhiều lần mà không đến. CHV có quyền khám nhà và những nơi cất giữ
tài sản của con nợ, có quyền cho mở khóa nhà, khóa phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc
bị khóa, nếu thấy việc đó cần thiết cho việc THA. Nếu con nợ chống đối hoặc phản
kháng lại, CHV có quyền dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ. Trường hợp đương
sự không có tài sản gì để THA thì chủ nợ được quyền yêu cầu Tòa THA triệu tập con
nợ đến Tòa án để buộc con nợ phải tuyên thệ về việc không có tài sản đó. Nếu con nợ
không chịu tuyên thệ thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án bắt giam cho đến khi con
nợ đồng ý tuyên thệ. ở Thụy Điển, CHV có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền, nếu đã
phạt tiền mà con nợ vẫn không đến thì cơ quan THA có quyền yêu cầu cảnh sát bắt
16


họ. Cơ quan THA cũng có quyền yêu cầu cảnh sát tạm bắt giữ con nợ, khi con nợ cố
tình trì hoãn không lập danh sách kê khai tài sản của mình theo yêu cầu của cơ quan
THA.
Cộng hòa Pháp: Theo Bộ luật TTDS của Pháp thì: một bản án, quyết định chỉ
được đưa ra thi hành nếu đương sự xuất trình một bản sao có ghi "để thi hành", trừ
khi pháp luật có quy định khác; bản án chỉ được thi hành khi người phải THA đã
được tống đạt, trừ trường hợp họ tự nguyện thi hành. Theo quy định của pháp luật thì
các giấy tờ có hiệu lực thi hành ngoài bản án của Tòa án còn có các văn bản công
chứng có ghi "để thi hành", trích lục biên bản hòa giải thành, séc thanh toán…
Thái Lan: Khi nhận được đơn đề nghị ra lệnh THA của người được thanh toán
THA, Tòa án ra một mệnh lệnh gọi là: "Lệnh THA " và gửi thẳng lệnh này cho CHV
do Tòa án chỉ định để tổ chức thi hành. Trong lệnh này, Tòa án phải ghi rõ những
việc phải làm để CHV làm căn cứ thi hành.

Nhật Bản: ở Nhật Bản, tài liệu cơ bản nhất cho các thủ tục thi hành cưỡng chế
và tiêu chuẩn duy nhất để cơ quan THA thực hiện việc thi hành bằng biện pháp
cưỡng chế là chứng thư nghĩa vụ dân sự, bao gồm: Bản án, quyết định của Tòa án;
yêu cầu về thanh toán kèm theo tuyên bố về thi hành tạm thời, quyết định về lệ phí
kiện tụng và các chứng thư đã được cơ quan công chứng xác nhận.
* Các biện pháp cưỡng chế
Đây là biện pháp được áp dụng khi đương sự không tự nguyện thi hành.
Ở Thụy Điển: Các biện pháp cưỡng chế có thể áp dụng là: kê biên tài sản; trừ
lương hoặc tiền công của con nợ; đuổi người thuê nhà ra khỏi nhà cho thuê; phá dỡ
các công trình xây dựng, can thiệp vào việc thực hiện các hợp đồng, khôi phục lại
tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm chiếm, một số biện pháp mang tính chất cảnh
báo đối với những hành vi chống đối (như yêu cầu bắt giam) của con nợ và người có
liên quan. ở Thái Lan: Các biện pháp cưỡng chế được thể hiện bằng các "Lệnh THA"
của Tòa án gồm: Lệnh tịch thu tài sản, lệnh thu theo thu nhập của người THA, lệnh
trục xuất người phải THA ra khỏi nhà, lệnh tháo dỡ nhà.
* Những tài sản không được kê biên
Xuất phát từ chính sách nhân đạo, pháp luật các nước đều có quy định những tài
sản cơ quan THA không được kê biên ở mức độ nhất định nhằm đảm bảo cho người
phải THA và gia đình họ có cuộc sống sinh hoạt bình thường ở mức tối thiểu.
ở cộng hòa Pháp: Pháp luật THA qui định những tài sản sau đây không được kê
biên: Thực phẩm, tiền trợ cấp nuôi dưỡng (trừ khoản tiền mà bên kê biên trả để cấp
dưỡng cho bên bị kê biên); các tài sản có thể định đoạt được nhưng người viết di chúc
17


hoặc người tặng cho tuyên bố không thể kê biên, hoặc là theo sự cho phép của thẩm
phán và trong một tỉ lệ do thẩm phán quyết định, được các chủ nợ sau khi đã quyết
định tặng cho hoặc mở thừa kế mà không thể kê biên; động sản cần thiết cho cuộc
sống, công ăn việc làm cho người bị kê biên và gia đình họ; những động sản, vật
dụng cần thiết của người tàn tật hay dùng để chăm sóc người ốm…

Nhật Bản: Những tài sản sau đây không được kê biên theo quy định của pháp
luật: Quần, áo, giường, chiếu, đồ dùng nấu ăn cần thiết phục vụ sinh hoạt của người
phải THA; dụng cụ, phân bón, vật nuôi; các tượng phật, bài vị và những vật dụng
khác cần thiết sử dụng trong lễ hội; gia phả, nhật ký, huân, huy chương, chân tay giả
và những vật dụng khác dùng để hỗ trợ cho cơ thể mà người phải THA cần dùng…

18


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THADS

*

-

*

-

2.1. Thực trạng pháp luật về THADS
2.1.1. Các cơ quan có nhiệm vụ quản lý công tác THADS và cơ quan THADS
Theo quy định tại điều 13 của luật THADS 2008 thì hệ thống tổ chức THADS
gồm:
Cơ quan quản lý THADS:
+ Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp.
+ Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Quốc phòng.
*Cơ quan THADS:
Cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cơ quan
THADS cấp tỉnh)

Cơ quan THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh( gọi chung là cơ quan
THADS cấp huyện)
Cơ quan THADS quân sự và tương đương ( gọi chung là cơ quan THADS cấp quân
khu)
Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý THADS; tên gị cơ cấu tổ chức cụ thể
do Chính phủ quy định.
Các điều luật quy định về cơ quan THADS và CHV được xây dựng dựa trên nền
tảng của Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản hướng dẫn có liên quan được
pháp điển hóa thành các quy định của Luật THADS năm 2008.
Nhiệm vụ, quyền han chung của THADS các cấp:
Theo quy định tại các điều 14,15,16 của Luật THADS năm 2018 thì cơ quan
THADS có sự khác nhau và tuỳ thuộc vào sự khác nhau đó để xác định là cơ quan
THA cấp nào, trong quân đọi hay ngoài quân đội, tuy nhiên nhìn chung đều có các
nhiệm vụ quyền hạn:
Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động THADS theo hướng
dẫn của cơ quan quản lý THADS cấp cao hơn;
Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại điều 35 của luật
THADS;
Lập hồ sơ đề nghị xét miễn giảm nghĩa vụ THADS;
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật
THADS;
Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của cơ
quan THADS theo hướng dẫn, chỉ đạ của cơ quan quản lý THADS cấp trên;
19


-

+
+

+
+
-

-

*
-

-

-

Giúp UBND cùng cấp, giúp Tư lệnh quân khu và tương đương thực hiện trách nhiệm,
quyền hạn của mình trong THADS.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS cấp tỉnh:
Quản lý, chỉ đạo về THADS trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thộc Trung ương :
Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động
THADS;
Chỉ đạo hoạt động THADS đối với các cơ quan THADS cấp huyện; hướng dẫn
nghiệp vụ THADS cho CHV, công chức khác của cơ quan THADS trên địa bàn;
Kiểm tra công tác THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện;
Tổng kết thực tiễn THADS; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo các tổ chức, hoạt
động THADS theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp.
Trực tiếp tổ chức THA, quyết định theo quy định tại điều 35 của luật THADS năm
2008.
Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS; phối hợp với cơ quan công an trong
việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho người có
nghĩa vụ THADS đang chấp hành hình phạt tù.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật

THADS năm 2008.
Thực hiện quảng lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của cơ
quan THADS tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan THADS thuộc Bộ
Tư pháp.
Giúp UBND cũng cấp thưc hiện trách nhiệm, quyền hạn theo quy định tại khoản 1;2
điều 173 của luật THADS năm 2008.
Báo cáo công tác THADS trước HĐND cùng cấp khi có yêu cầu.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THA cấp quân khu
Theo điều 15 luật THADS năm 2008 quy định:
Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định tại điều 37 Luật THADS năm 2008.
Tổng kết thực tiễn công tác thi hành bản án theo thẩm quyền; thực hiện chế độ thống
kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động THADS theo hướng dẫn của cơ quan quản lý
công tác THA thuộc Bộ Quốc Phòng.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THA thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật
THADS.
Phối hợp với các cơ quan chưc năng của của quân khu trong việc quản lý cán bộ, cơ
sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động của cơ quan THA cấp quân khu theo
hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý THA cấp quân khu theo hướng dẫn, chỉ đạo
của cơ quan quản lý THA Bộ Quốc phòng.
Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS; phối hợp với cơ quan THA phạt
tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ THADS đang chấp hành hình phạt tù.
20


*
-

Giúp Tư lệnh quân khu và tương đương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
tại khoản 1 điều 172 của luật THADS 2008.
Nhiệm vụ, quyền hạn của THADS cấp huyện.

Điều 16 luật THADS 2008 quy định:
Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại điều 35 Luật THADS.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật
THADS.
Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được
giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan THADS cấp Tỉnh.
Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động THA theo quy định
của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan THADS cấp tỉnh.
Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS.
Giúp UBND cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1;2
điều 174 của luật THADS.
Báo cáo công tác THADS trước HĐND khi có yêu cầu.
2.1.2. Chấp hành viên
Điều 17 Luật THADS năm 2008 quy định về CHV:
“1.CHV là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định
theo quy định tại điều 2 của luật này. CHV có 3 ngạch là CHV sơ cấ, CHV trung cấp
và CHV cao câp.
2. CHV do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
3. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thi tuyển, bổ nhiệm CHV”
Căn cứ điều luật này thì CHV vẫn là chức danh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ
nhiệm nhưng có sự thay đổi lớn đó là bãi bỏ quy định bổ nhiệm theo nhiêm kì như
điều 12 pháp lệnh THADS 2004.
Luật THADS 2008 đã quy định việc thi tuyển CHV là thủ tục, điều kiện bắt
buộc trước khi bổ nhiệm nhằm hướng tới việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng của
CHV có đủ năng lực, trình độ hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời kì hội nhập; quá
trình chuẩn bị thi tuyển sẽ giúp cho bản than người dự tuyển vào chức danh CHV hội
đủ các điều kiện cần và đủ trước khi bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét bổ nhiệm làm
THADS của cơ quan THA các cấp. Mặt khác việc thi tuyển sẽ là môi trường cạnh
tranh bình đẳng nhất và công khai nhất trước khi bổ nhiệm vào chức danh này.
Thủ tục bổ nhiệm CHV thông qua thi tuyển còn tạo được cơ chế hợp lý thu cán

bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác nhau phù hợp với yêu cầu của cuộc cải cách
hành chính, cải cách tư pháp. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng quy định về thi
tuyển, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu đến các trường hợp ngoại lệ được
21


quy định trong trong Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật THADS năm
2008, phải nghiên cứu áp dụng các trường hợp ngoại lệ để phù hợp với các điều kiện
cụ thể ở Việt Nam, về nguồn cán bộ , công chức làm công tác THADS tại các địa bàn
miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn chưa có đủ số cán bộ đào tạo cho các
vùng đó.
Để nâng cao tính độc lập trong quá THA thì đòi hỏi trước hết phải là phải tạo
cho CHV có một tâm lí ổn định khi quyết định các vấn đề về THA theo quy định của
pháp luật.
CHV được bổ nhiệm suốt đời sẽ xây dựng cho họ một tâm lý ổn định không để
chi phối bởi quyền lực hay bất cứ cán nhân hoặc tổ chức nào trong việc đánh giá,
xem xet để bổ nhiệm lại như quy định trước đây.
Việc bổ nhiệm suốt đời có đồng nghĩa với môi trường bị phát sinh tiêu cực hay
không thì đây là hai môi quan hệ khác nhau lien quan đến tư cách nhiêm vụ CHV.
Mặt khác trong quá trình thực thi nhiệm vụ CHV không tuỳ tiện làm trái pháp luật.
Thực hiện cơ chế bổ nhiệm CHV suốt đời còn là bước đầu thực hiện định hướng
của Bộ Chính trị theo nghị quyết 49NQ/TW “ Tăng cường thời hạn bổ nhiệm chức
danh tư pháp hoặc thực hiện theo bổ nhiệm không có kỳ hạn”
2.1.3. Những bất cập, hạn chế, giải pháp của pháp luật về tổ THADS
* Những bất cập về tổ chức THA
- Bản án số 21/2014/HSST ngày 16/6/2014 của TAND tỉnh S tuyên:
Án phí HSST: mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đ;
Án phí DSST, bị cáo Dương Văn Thương phải chịu: 271.235 đồng, bị cáo Danh
Sam phải chịu: 265.000 đ, bị cáo Danh Thương phải chịu: 265.000 đồng.
Phạt sung quỹ nhà nước số tiền: 850.000 đồng tiền thu lợi bất chính của bị cáo

Danh Thương.
Tịch thu tiêu hủy tang vật…
Trong trường hợp này, Cơ quan THADS tỉnh S gặp khó khăn khi ra mỗi người
một Quyết định THA theo quy định tại Khoản 1, Khoản 3, Điều 5 Nghị định
125/2013/NĐ-CP của Chính phủ thì đối với phần tịch thu tiêu hủy nên ra trong Quyết
định THA nào vì theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Nghị định 125/NĐ-CP không có
hướng dẫn cụ thể.
-Bản án số 121/2014/HSST ngày 04/7/2014 của TAND tỉnh S, tại phần quyết
định của bản án tuyên:
Án phí HSST: mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng;
22


Án phí DSST bị cáo Thái Văn Tú phải chịu: 580.000 đồng; bị cáo Phan Thanh
Toàn phải chịu: 450.000 đồng; bị cáo Huỳnh Văn Thiện phải chịu 580.000 đồng.
Tuyên tịch thu tiêu hủy tang vật…
Đối với trường hợp này, tại Cục THADS tỉnh S có 02 quan điểm trái ngược
nhau:
- Một là, ra một quyết định THA chung cho các khoản thuộc diện chủ động căn
cứ Khoản 1 Điều 5 Nghị định 125/2013/NĐ - CP quy định về việc Thủ trưởng cơ
quan THADS ra một quyết định THA chung cho các khoản thuộc diện chủ động thi
hành trong một bản án, quyết định.
- Hai là, áp dụng Khoản 3 Điều 5 Nghị định 125/NĐ-CP đối với trường hợp
trong một bản án, quyết định có nhiều người phải thi hành nhiều khoản chủ động
khác nhau thì đối với mỗi người phải THA, Thủ trưởng cơ quan THADS ra một
quyết định THA chung cho các khoản thuộc diện chủ động THA mà người đó phải
thi hành trong một bản án, quyết định có nhiều người phải THA một khoản chủ động.
* Khó khăn trong việc xác định khoản ra quyết định THA chủ động hay ra
quyết định THA theo đơn
Bản án số 97/2013/HSST của TAND tỉnh Đ và Bản án số 201/2014/HSPT của

Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại ĐN tuyên các bị cáo Ngô Thị Bông, Nguyễn Thị
Thu Hồng, Đặng Thị Ngân, Nguyễn Thị Minh, Lê Văn Đức phạm tội “Trốn thuế”.
Ngoài việc phải chấp hành hình phạt tù, các bị cáo còn phải thi hành phần trách
nhiệm dân sự, cụ thể như sau:
Chấp nhận bị cáo Ngô Thị Bông đã tự nguyện khắc phục nộp 8.245.856.000
đồng tại Cục THADS tỉnh Đ. Chuyển trả lại cho Chi cục thuế huyện C, tỉnh B số tiền
4.268.086.000 đồng; cho Chi cục thuế huyện M, tỉnh N số tiền 1.974.496.060 đồng;
cho Chi cục thuế thị xã L, tỉnh N số tiền 2.003.274.000 đồng.
Chấp nhận bị cáo Nguyễn Thị Minh đã tự nguyện khắc phục nộp 800.000.000
đồng tại Cục THADS tỉnh Đ. Chuyển trả cho Chi cục thuế huyện Đ, tỉnh Đ số tiền
800.000.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Thị Minh còn phải trả lại 1.196.564 cho Chi cục
thuế huyện Đ, tỉnh Đ.
Chấp nhận bị cáo Lê Văn Đức đã tự nguyện khắc phục 1.276.898.500 đồng.
Chuyển trả lại cho Chi cục thuế thành phố T, tỉnh Đ số tiền 1.276.898.500 đồng.
Buộc bị cáo Đặng Thị Ngân phải trả 1.701.515.000 đồng cho Chi cục thuế
huyện S, tỉnh Đ.
Khó khăn, vướng mắc mà Cục THADS tỉnh Đ là chưa xác định được khoản nào
phải ra Quyết định THA chủ động; khoản nào phải ra quyết định THA theo đơn yêu
23


cầu. Trong quá trình tổ chức THA, tại Cục THADS tỉnh Đ có nhiều ý kiến trái chiều
như sau:
- Ý kiến thứ nhất: nên ra Quyết định THA chủ động, vì tất cả các khoản tiền trên
là tiền thuế nộp ngân sách nhà nước.
- Ý kiến thứ hai: nên ra Quyết định THA theo đơn yêu cầu của đương sự, vì tại
Khoản 1 Điều 36 Luật THADS quy định trường hợp trên không phải là khoản chủ
động THA; đồng thời, các khoản trên do có tác động của cơ quan tố tụng nên các bị
cáo mới nộp tiền khắc phục hậu quả, để hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
- Ý kiến thứ ba: Nên ra Quyết định THA chủ động đối với khoản: “Chuyển trả

lại cho Chi cục Thuế huyện C, tỉnh B số tiền 4.286.080.000 đồng; cho Chi cục Thuế
huyện M, tỉnh N số tiền 1.974.496.000 đồng; cho Chi cục Thuế huyện L, tỉnh N số
tiền 2.003.274.000 đồng đối với bà Ngô Thị Bông. Chuyển trả cho Chi cục Thuế
huyện Đ, tỉnh Đ số tiền 800.000.000 đồng đối với bà Nguyễn Thị Minh. Chuyển trả
lại cho Chi cục Thuế thành phố B, tỉnh Đ số tiền 1.276.898.500 đồng đối với ông Lê
Văn Đức” vì thuộc Khoản 1 Điều 36 Luật THADS; ra Quyết định THA theo đơn yêu
cầu đối với khoản: phải trả lại 1.196.564 đồng cho Chi cục Thuế huyện Đ, tỉnh Đ đối
với bà Nguyễn Thị Minh. Phải trả 1.701.515.000 đồng cho Chi cục Thuế huyện Đ,
tỉnh Đ đối với bà Đặng Thị Ngân”.
* Khó khăn trong việc xác định có ra quyết định THA hay không?
Theo như bài viết của tác giả Phạm Quang Dũng (Chi cục THADS quận Bắc Từ
Liêm - Hà Nội) đăng trên trang tin THADS của Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
ngày 14/7/2014 thì việc Bản án, quyết định của Tòa án tuyên đương sự không phải
nộp án phí thì có nên ra quyết định thi hành án hay không? Quan điểm của tác giả là
Cơ quan THADS phải ra quyết định THA vì tại Điều 2 Luật THADS quy định: Bản
án, quyết định được thi hành là những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (theo
khoản 1 Điều 2) và những bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành
ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (theo khoản 2, Điều 2). Tác giả khẳng
định: những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được thi hành là phù hợp
với nguyên tắc hiến định “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành” (Điều 106 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam 2014). Việc ra quyết định THA có thể có 02 trường hợp: Buộc thực hiện công
việc nhất định (có thể là phải nộp án phí, tiền phạt, tiền truy nộp hoặc xung công…)
hoặc không phải thực hiện công việc nhất định (không phải nộp án phí…). Mặt khác,
để pháp luật có tính nghiêm minh, khách quan, công bằng và thống nhất, cơ quan
24


THA phải ra quyết định THADS chủ động để đảm bảo thực hiện đúng Luật. Tại Điều

36 Luật THADS quy định ra quyết định THA, tại khoản 1 quy định: Thủ trưởng cơ
quan THADS chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định
sau đây: a. Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí. Tác giả
cho rằng: khoản án phí có thể phải thu và cũng có thể không phải thu nên cơ quan
THA vẫn phải ra quyết định thi hành án chủ động.
Vậy trong thực tế các cơ quan THADS có ra quyết định THA trong trường hợp
này hay không vì rõ ràng tình huống phát sinh này chưa được văn bản pháp luật về
THADS quy định dẫn đến việc xử lý của các cơ quan THA chưa thống nhất?
* Quan điểm giải quyết một số vướng mắc khó khăn
- Đối với việc ra một hay nhiều quyết định THA và việc ra quyết định THA đối
với phần tiêu hủy cần căn cứ Khoản 1, Khoản 3 Điều 5 Nghị định 125/NĐ-CP để
thực hiện. Khoản 1 Điều 5 áp dụng trong trường hợp ra một quyết định THA chung
cho các khoản thuộc diện chủ động thi hành trong một bản án, quyết định, nhưng
phải loại trừ khi bản án, quyết định đó có các khoản chủ động về trả lại tiền, tài sản
thì đối với mỗi người được THA, Thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết định
THA đối với các khoản đó ( Khoản 2 Điều này) hoặc trường hợp trong một bản án,
quyết định có nhiều người phải thi hành nhiều khoản chủ động khác nhau thì đối với
mỗi người phải THA, Thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết định THA chung
cho các khoản thuộc diện chủ động THA mà người đó phải thi hành (Khoản 3 Điều
này). Như vậy, trường hợp được đưa ra tại phần 1.1 có 03 người phải THA (nhiều
người) đối với khoản án phí, phạt sung quỹ…( nhiều khoản) thì cần áp dụng khoản 3
Điều 5 Nghị định 125/NĐ-CP để ra 03 Quyết định THA. Đối với phần tiêu hủy cũng
như phần tịch thu sung công tài sản là vật chứng thu được trong bản án, có thể không
xác định là tài sản của bị cáo nào, trường hợp này Luật THADS và các văn bản có
liên quan đều chưa đề cập đến, trong thực tế hầu hết phần tiêu hủy vật chứng trong
trường hợp tách án thì nên đưa vào Quyết định THA đối với người phải THA là
người đầu vụ trong một bản án, quyết định của Tòa án để thực hiện các thủ tục giải
quyết tiếp theo.
- Đối với việc ra quyết định THA chủ động hay quyết định thi hành án theo đơn
được đề cập đến tại phần “ Khó khăn trong việc xác định khoản ra quyết định THA

chủ động hay ra quyết định THA theo đơn” nêu trên thì nên ra quyết định THA chủ
động đối với các khoản THA. Căn cứ nội dung án tuyên như trên có thể thấy: về bản
chất vụ việc cũng như về tội danh của các bị cáo đã được Tòa án xác định trong bản
án, các khoản chuyển trả cho Cơ quan thuế là các khoản truy thu số tiền thuế giá trị
25


×