Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp ở huyện triệu phong, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.24 KB, 110 trang )



Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để
hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm giúp đỡ của các tập thể, các cá nhân
trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh Tế Chính Trò –
Trường Đại học Kinh tế Huếđã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc
tới thầy giáo T.S Hà Xuân Vấn, đã tận tình hướng
dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các
đồng chí Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội,
Chi cục thống kê và các Phòng ban khác của huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trò đã giúp đỡ tôi nhiệt tình
trong thời gian tôi thực tập tại đòa phương.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình
và bạn bè đã khích lệ, cổ vũ tôi hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp này.
11


Sinh vieân

Ñöôøng Gia Coâng
MỤC LỤC
Lời cảm ơn...................................................................................................................i


22


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tên viết tắt

Tên đầy đủ

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DS – KHHGĐ

Dân số - Kế hoạch hóa gia đình

HTX

Hợp tác xã

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

LĐNN


Lao động nông nghiệp

LLLĐ

Lực lượng lao động

33


DANH MỤC BẢNG

44


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới nền KT - XH của đất nước. Đảng và Nhà
nước ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đó lĩnh vực
nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đóng vai trò quan trọng đối với quá trình
phát triển. Theo thống kê năm 2013, trong tổng số 89,7 triệu người dân Việt Nam
có 60,7 triệu người sống ở khu vực nông thôn (chiếm hơn 2/3 tổng dân số). Thời
gian qua, mặc dù đã có sự di chuyển mạnh mẽ về dân cư và lao động từ nông thôn
ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp song trong tổng số 51,7

triệu lao động (năm 2013) vẫn còn tới gần 24,5 triệu lao động làm việc trong khu
vực nông – lâm - thuỷ sản (chiếm 47,4%). Theo dự báo, LĐNN nước ta sẽ còn
khoảng 40% lao động xã hội vào năm 2015 và 30% vào năm 2020.
Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp của Việt Nam nói
riêng đang phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt, trong đó có nhiều cơ
hội để phát triển nhưng những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt cũng không
nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng cao
tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội thì vẫn còn nhiều hạn chế hay
nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong
thời kỳ hội nhập.
Trên thực tế, lao động nói chung và LĐNN vẫn hạn chế về kiến thức, trình độ
chuyên môn, kĩ năng, phương pháp làm việc hiện đại. Bên cạnh đó, lao động chất
lượng cao đang thiếu hụt nhưng lại có xu hướng rời khu vực nông nghiệp nông
thôn, tìm đến thành thị để mang lại thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, nâng cao chất
lượng LĐNN là nhằm bổ sung lượng nhân lực mất đi do di chuyển qua các ngành
kinh tế khác, đồng thời đưa mặt bằng chất lượng lao động của khu vực này lên.
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng LĐNN còn ở mức thấp là vấn đề chung
của nhiều tỉnh thành nước ta hiện nay.
66


Huyện Triệu Phong là một trong 10 huyện, thị, thành phố của tỉnh Quảng Trị.
Với lợi thế về điều kiện tự nhiên mà huyện Triệu Phong là huyện sản xuất nông
nghiệp lớn nhất của tỉnh, phần lớn người dân đều sinh sống bằng nghề nông. Tuy
vậy, thực tế đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là tỷ lệ LĐNN qua
đào tạo thấp, lao động chất lượng cao chưa nhiều và lao động này thường không
muốn ở lại địa phương để làm việc. Bên cạnh đó, chính sách về nâng cao chất lượng
LĐNN chưa cụ thể, chưa có những cuộc điều tra thống kê thực trạng lao động trên
địa bàn huyện Triệu Phong một cách sâu sắc. Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề

tài: "Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị" để nghiên cứu làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách phát triển nhân lực nông thôn, nâng cao chất lượng LĐNN là một
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, chính vì vậy đã có rất nhiều nghiên cứu ở các
cấp độ từ trung ương đến địa phương về vấn đề trên. Cụ thể như:
- Đề tài: " Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trẻ cho CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn ở thành phố Huế hiện nay", của tác giả Lê Quang Diên,
đề tài nghiên cứu khoa học Trường Đại học Kinh tế Huế năm 2006.
- Tăng Minh Lộc, “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn”, Tạp chí
Cộng sản, 10/2008.
-

Lê Hoàng Thuyên, “Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn tỉnh Hà Nam”, luận văn Thạc sỹ - Trường Đại học Nông nghiệp Hà

-

Nội, 2010.
Nguyễn Văn Thuynh, “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn
huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam”, khóa luận tốt nghiệp - Trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội, 2011.
- Nguyễn Thị Thu Thủy, "Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa
Thiên Huế ", luận văn Thạc sỹ - Trường Đại học kinh tế-Đại học Huế, 2011.
- Hoàng Anh Cường, "Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp nông thôn
77


trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên

Huế", luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế, 2011.
- ThS. Hoàng Văn Phai, “ Đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta hiện
nay: vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí kinh tế và Dự báo, 3/ 2011.
- Bài báo: “ Cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động nông thôn”, Báo
điện tử Nông nghiệp Việt Nam, 26/9/2014.
- Bài báo: “ Cần đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn”,
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 17/3/2014.
- Nguyễn Thị Linh Hương, “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực nông thôn
ở Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và Dự báo, 5/2015.
Và một số đề tài cấp bộ, luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp khác ở trường
Đại học Kinh tế - Đại học Huế cũng có đề cập đến vấn đề này.
Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu trên địa bàn huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị hiện nay, tôi nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về
nâng cao chất lượng LĐNN với tư cách là một khóa luận tốt nghiệp. Trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu trước, ứng dụng vào địa bàn nghiên cứu
cụ thể, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: " Nâng cao chất lượng lao động nông
nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị".
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của đề tài
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, khóa luận đánh giá về thực trạng chất lượng
LĐNN ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng LĐNN để đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của huyện.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng
LĐNN.
- Phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng LĐNN ở huyện Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị
- Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
LĐNN ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
88



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề liên quan đến chất lượng LĐNN ở
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Thời gian: giai đoạn 2010 - 2014 và đề xuất giải pháp đến năm 2020.
- Nội dung nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng LĐNN ở huyện Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:


Phương pháp luận xuyên suốt là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để xem xét, phân tích vấn đề một cách khoa học, khách quan.



Phương pháp thu thập thông tin gồm:

 Số liệu thứ cấp: Bao gồm các sách tham khảo, tạp chí, báo, đề án và báo cáo liên

quan đến đề tài.
 Số liệu sơ cấp: đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, phân
theo 3 vùng kinh tế: vùng gò đồi, vùng đồng bằng và vùng đầm phá ven biển. Trên cơ
sở đó chia ra theo địa bàn các xã để chọn số lượng hộ gia đình điều tra. Với quy mô
mẫu là 120 hộ gia đình, đề tài phân ra như sau: huyện Triệu Phong gồm 19 xã và 1 thị
trấn. Đề tài chọn điều tra 6 xã gồm: xã Triệu Thượng: 20 hộ, xã Triệu Ái: 20 hộ, xã

Triệu Đông: 20 hộ, xã Triệu Trạch: 20 hộ, xã Triệu An: 20 hộ, xã Triệu Vân: 20 hộ.


Phương pháp phân tích, tổng hợp.



Phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu.

99


- Giúp chính quyền địa phương có cái nhìn rõ nét hơn về quá trình nâng cao
chất lượng LĐNN, từ đó có những chính sách khả thi nhằm đẩy nhanh sự phát triển
về chất lượng của lao động.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng lao động trong nông
nghiệp
Chương 2: Thực trạng chất lượng lao động nông nghiệp ở huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động nông
nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

1010



1111


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận về chất lượng lao động trong nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm lao động
Lao động là một khái niệm rộng. Ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và tùy mỗi góc độ
tiếp cận khác nhau thì có những quan điểm khác nhau. Có nhiều từ ngữ được sử
dụng để hàm ý nói đến nguồn lao động đó là nhân lực, nguồn nhân lực. Những từ
này có khác nhau về cách gọi nhưng được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu
từ trước đến nay với cùng một ngữ nghĩa như nhau. Trong các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tùy theo lĩnh vực, tính chất hoạt động mà lao
động được phân thành lao động sản xuất kinh doanh, lao động khoa học, lao động
văn hóa, nghệ thuật.
- Theo C.Mác: “ Lao động là hoạt động cơ bản của con người. Lao động là hoạt
động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các
nhu cầu của đời sống con người.”[10]
- Theo khái niệm của Liên hợp quốc thì : “Lao động là tổng thể sức dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người
vào của cải tự nhiên và của cải xã hội” [Tr7, 25]
- Theo tổ chức Lao động thế giới (ILO) thì “LLLĐ là bộ phận dân số trong độ
tuổi quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang
tích cực tìm kiếm việc làm”[ Tr7, 25]
- Ngoài những khái niệm từ các cá nhân và tổ chức khác nhau, tác giả xin đưa
ra khái niệm về lao động như sau: “ Lao động là hoạt động có mục đích của con
người nhằm biến đổi các vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết phục vụ
đời sống của mình”.

Thực tế trong từng thời kỳ, và ở mỗi một nước trên thế giới quy định độ tuổi lao
1212


động khác nhau. Ở nước ta, theo Bộ luật lao động, độ tuổi lao động được quy định đối
với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi, đối với nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi. Xét về khía cạnh việc
làm, LLLĐ gồm hai bộ phận là có việc làm và thất nghiệp.
1.1.1.2. Khái niệm lao động nông nghiệp
Theo quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng chính phủ:
LĐNN là lao động trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp
với nghề cần học. LĐNN, gồm:
- Người LĐ có hộ khẩu thường trú tại các xã.
-Người LĐ có hộ khẩu thường trú tại các phường, thị trấn nhưng đang trực tiếp
làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp hoặc hộ gia đình có đất bị thu
hồi.[27]
LĐNN là những người lao động và hoạt động trong các lĩnh vực ở nông thôn.
LĐNN là những người dân không phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống
ở vùng nông thôn, từ 15 tuổi trở lên có đủ các yếu tố về tâm sinh lý và thể chất được
quy định trong Luật Lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn tham
gia sản xuất ở nông thôn.
Theo tác giả: “LĐNN là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông thôn
trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật có khả năng lao động, đang có
việc làm và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm”.
Do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực lượng tham
gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao động mà còn
có những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với những công
việc phù hợp. Từ khái niệm LĐNN mà ta thấy lao động ở nông thôn rất dồi dào,
nhưng đây cũng chính là thách thức trong việc giải quyết việc làm.
1.1.1.3. Khái niệm nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp
Hiện nay có nhiều khái niệm được đưa ra từ các tổ chức quốc tế về nâng cao

chất lượng LĐNN như sau:
Theo Tổ chức văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO): “ Nâng cao chất lượng
LĐNN là nâng cao toàn bộ sự lành nghề của dân cư nông thôn trong mối quan hệ
với sự phát triển của đất nước”[Tr 8, 13].
1313


Tổ chức lao động quốc tế (ILO): “ Nâng cao chất lượng LĐNN là phát triển và
sử dụng con người nông thôn có khả năng lao động, sẵn sàng tham gia vào các quá
trình lao động xã hội” [Tr 13, 12].
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO): “ Nâng cao chất
lượng LĐNN là việc phát triển lao động vùng nông thôn một cách hệ thống có mục
tiêu, là đối tượng của sự phát triển một quốc gia” [Tr 13, 12]
Qua khái niệm của các tổ chức quốc tế thì tác giả cũng rút ra kết luận về nâng
cao chất lượng LĐNN như sau: “ Nâng cao chất lượng LĐNN là quá trình nâng cao
chất lượng người lao động nông thôn về thể lực, trí lực, tâm lực… làm cho con
người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất mới cao hơn.”
1.1.2. Nội dung và đặc điểm chất lượng lao động nông nghiệp
1.1.2.1. Nội dung chất lượng lao động nông nghiệp
 Tình trạng sức khỏe

- Sức khỏe là điều kiện quan trọng để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương
tiện chủ yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn. Một điều kiện bắt buộc
đối với LĐNN là phải có sức khỏe tốt, phù hợp với điều kiện làm việc. Sức khỏe là
một trạng thái thoải mái về thể chất, về tinh thần chứ không phải đơn thuần là
không có bệnh.
- Đã là LĐNN thì rất cần có sức khỏe thật tốt. Sức khỏe cơ thể là điều kiện đầu
tiên đối với người lao động dùng để duy trì và phát triển trí tuệ, là điều kiện quan
trọng để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Đồng thời phải có tâm hồn lành
mạnh, đây chính là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của niềm tin, ý

chí, sức sáng tạo của trí lực.
- Khi đề cập đến phát triển nguồn lực con người trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, Đảng ta khẳng định “sự cường tráng về thể chất là nhu cầu
của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất
cho xã hội”.[9]
- Quá trình CNH, HĐH trong điều kiện cách mạng - khoa học - công nghệ bùng
nổ như hiện nay, hàm lượng trí tuệ chất xám trong sản phẩm lao động chiếm tỉ
trọng lớn nhất thì yêu cầu về sức khỏe tâm hồn càng cao. Để có sức khỏe tinh thần

1414


tốt thì LĐNN phải có sức khỏe cơ thể tốt. Mặt khác, LĐNN còn phải được giáo dục
và đào tạo kỹ lưỡng, nhất là được sống và làm việc trong môi trường xã hội thuận
lợi, có văn hóa đạo đức.
Như vậy, chỉ có những người khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần mới có
thể nâng cao sức mạnh của bản thân, hòa nhịp với cuộc sống hiện tại. Họ làm việc
dẻo dai, có khả năng tập trung về trí tuệ khi làm việc, tạo ra năng suất lao động cao.
 Trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật

Bên cạnh yếu tố thể lực thì yếu tố trí lực cũng là nội dung quan trọng phản
ánh chất lượng LĐNN. Yếu tố này tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến quá trình
lao động. Khi đánh giá yếu tố trí lực của LLLĐ nông nghiệp điều cần quan tâm đầu
tiên là trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật.
- Trình độ văn hóa là tiêu chí về mức độ hoàn thành các cấp học cơ bản của
một nền giáo dục, ở Việt Nam có 3 cấp và 12 lớp học. Trong nội dung này, để đánh
giá được sâu hơn về trình độ văn hóa, cần đánh giá thêm về mức độ đào tạo. Mức
độ đào tạo phản ánh mức độ học tập của LĐNN, ngoài việc đánh giá trình độ văn
hóa thì đánh giá thêm về quá trình theo học các chương trình cao hơn như trung
cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học. Điều này phản ánh chất lượng ở mức cao của

lao động.
- Trình độ chuyên môn kĩ thuật, nội dung này cho thấy kiến thức và kĩ năng
của lao động trong những ngành nghề cụ thể, đây là nội dung quan trọng phản ánh
năng lực hoạt động thực tiễn của LĐNN.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào
đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học và sau đại học. Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những
chuyên môn nhỏ lại như Đại học bao gồm: Kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, thậm chí
trong từng chuyên môn lại chia ra những chuyên môn nhỏ nữa.
 Ý thức tổ chức, tinh thần trách nhiệm

Đối với mỗi lĩnh vực, mỗi ngành nghề thì ý thức tổ chức, tinh thần trách nhiệm
là vô cùng quan trọng. Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận
lấy về mình.
1515


- Tinh thần trách nhiệm là kết quả nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của con
người, từ đó chi phối hành động tích cực, tự giác của họ. Những người có nhận thức
và hành động như thế gọi là có tinh thần trách nhiệm cao. Mức độ ý thức trách
nhiệm của một người quyết định mức độ, thái độ của người đó làm việc, đồng thời
cũng quyết định thành tích công việc của họ.
- Ai cũng có trách nhiệm bởi mỗi người đều có một vị trí nhất định trong các
mối quan hệ xã hội, như gia đình, dòng họ, địa phương, tập thể, tổ chức chính trị xã hội, công dân của một nước, thành viên của cộng đồng dân tộc và rộng nhất là
của nhân loại... Trong các mối quan hệ đó, trách nhiệm được hình thành trên cơ sở
những quy định của luật pháp, quy chế, thỏa thuận của tập thể, tổ chức, địa
phương... Trách nhiệm còn được hình thành do dư luận xã hội và bị chi phối bởi dư
luận xã hội.
- Khi có được ý thức trách nhiệm cao trong công việc, con người ta có thể học
được từ công việc nhiều kiến thức mới, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và cũng từ

đó tìm thấy niềm vui.
- Đối với việc nâng cao chất lượng LĐNN thì ý thức tổ chức và tinh thần trách
nhiệm là yếu tố vô cùng quan trọng. Để quá trình nâng cao chất lượng đạt hiệu quả
tốt thì người lao động phải học tập và rèn luyện tay nghề rất nhiều, điều này cần
phải có ý thức, trách nhiệm, lòng say mê thì mới thực hiện được.
- Có ý thức tổ chức, tinh thần trách nhiệm trong công việc sẽ giúp LĐNN tạo ra
được năng suất cao, từ đó tạo ra thu nhập để cải thiện cuộc sống. Bên cạnh đó, các
danh hiệu như gia đình văn hóa, nông dân sản xuất giỏi… đều có tiêu chí này góp
phần quyết định.
 Năng suất lao động

- Năng suất lao động là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng bởi
quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào
(lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên tính quyết định của
chất lượng LĐNN trong quá trình sản xuất.
- Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức
cạnh tranh, đặc biệt, năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người lao
1616


động – yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, sự phát triển
của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.
- Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của LĐNN
cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử dụng. LĐNN có
chất lượng càng cao thì tạo ra thu nhập càng cao thể hiện ở việc người lao động có
tay nghề cao thì sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn với chất lượng tốt hơn người không
có tay nghề.
- Năng suất lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành
thạo của người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết
hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất,

các điều kiện tự nhiên. Chính vì vậy mà nâng cao chất lượng LĐNN là một việc làm
hết sức cần thiết hiện nay nhằm thực hiện tốt quá trình CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn trong tương lai.
Như vậy, cả bốn nội dung trên phản ánh một cách trực tiếp và gián tiếp về mặt
chất lượng của LĐNN. Nghiên cứu chất lượng LĐNN của một địa phương cần nghiên
cứu đi sâu vào bốn nội dung này để làm sáng tỏ chất lượng thực sự của lao động tại
đó. Ngoài bốn nội dung này còn có nhiều nội dung khác dùng để đánh giá chất lượng
lao động, tuy nhiên đây là bốn nội dung quan trọng nhất cần được làm rõ trong quá
trình nghiên cứu.
1.1.2.2. Đặc điểm chất lượng lao động nông nghiệp
LĐNN là bộ phận quan trọng trong cơ cấu lao động của nền kinh tế quốc dân.
Vì đây là bộ phận lao động đáp ứng các nhu cầu về lương thực, thực phẩm và các
nhu cầu cơ bản khác của xã hội. Do tính chất đặc biệt của nền sản xuất nông nghiệp
nên LĐNN có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, LĐNN mang tính chất thời vụ cao, là đặc trưng điển hình tuyệt đối
không thể xóa bỏ, điều này làm gia tăng tính phức tạp trong sử dụng lao động. Đặc
điểm này do tính chất tự nhiên, khí hậu và đặc tính của cây trồng vật nuôi quy định.
Thứ hai, LĐNN mang tính tất yếu, xu hướng có tính quy luật là không ngừng
thu hẹp về số lượng và được chuyển một bộ phận sang các ngành khác. Vì thế số lao

1717


động ở lại trong khu vực nông nghiệp là những người có độ tuổi trung bình cao và
tỉ lệ này có xu hường tăng lên.
Thứ ba,nơi cư trú của LĐNN phải ở khu vực nông thôn. Có nhiều lao động cư
trú ở khu vực thành thị nhưng lại làm việc ở khu việc nông thôn, những lao động
này nằm trong LLLĐ xã hội nhưng không nằm trong lực lượng LĐNN.
Thứ tư, LĐNN sử dụng phương thức lao động thủ công là chính. Điều này cũng
xuất phát từ việc sử dụng các thiết bị thì cần vốn lớn và trình độ nắm bắt kĩ thuật;

bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên như địa hình, thời tiết không cho phép áp dụng
rộng rãi các thiết bị hiện có, cũng như hiệu quả áp dụng chưa cao.
1.1.3. Vai trò của việc nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp
Với khoảng 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những vấn đề
liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Nền kinh tế Việt Nam trong gần
30 năm đổi mới vừa qua (1986-2014) đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả
quan.
- Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn
lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan), bộ mặt nông thôn thay đổi theo hướng
văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân được nâng lên
cao hơn trước.
- Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình phát
triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, kim ngạch
xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm 2014 ước đạt tới
30,8 tỷ USD, tăng gấp 77 lần.
- Nhờ có những thành tựu đó, nông nghiệp không chỉ đã góp phần quan trọng
vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên
phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề
vật chất cần thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước trong những năm qua.

1818


Để làm được những điều này, ngoài sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước
thì chúng ta còn cần rất nhiều yếu tố cấu thành mà quan trọng nhất là chất lượng
LĐNN. Phát triển nông nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không là đều dựa vào chất
lượng LĐNN có cao hay không, từ đó ta có thể thấy được vai trò rất to lớn của chất
lượng LĐNN.

Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, các địa phương đều đặt quan tâm đến
vấn đề nâng cao chất lượng LĐNN. Để có thể áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nông nghiệp thì cần có một lực lượng LĐNN chất lượng cao. Trên thực
tế, LLLĐ nông nghiệp nông thôn thường có trình độ chuyên môn kĩ thuật thấp,
không bắt kịp với những tiến bộ tiên tiến của trang thiết bị, máy móc.
Chính vì thế, việc đào tạo đội ngũ LĐNN chất lượng cao thực sự là rất cần
thiết, tạo đòn bẩy cho quá trình phát triển nông nghiệp thêm mạnh mẽ hơn, đồng
bộ hơn và hiện đại hơn.

1919


1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động nông nghiệp
1.1.4.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn nước, nguồn tài
nguyên. Sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến chất lượng LĐNN trên hai
phương diện trực tiếp và gián tiếp:
- Điều kiện tự nhiên tác động trực tiếp đến chất lượng LĐNN.Các yếu tố thuận
lợi về thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn nước có sự ảnh hưởng tốt tới sức khỏe của
người lao động, làm cho chất lượng lao động được đảm bảo và có điều kiện được
nâng lên. Ngược lại, các điều kiện về tự nhiên bất lợi sẽ ảnh hưởng tới thể lực, tới
sức khỏe của người dân nông thôn và của LĐNN.
- Điều kiện tự nhiên với tư cách là nguồn lực của mỗi quốc gia, mỗi địa
phương, mỗi đơn vị sản xuất, là cơ sở cho sự phát triển kinh tế, tạo ra những điều
kiện vật chất để nâng cao chất lượng LĐNN về trình độ văn hóa, trình độ chuyên
môn nghề nghiệp và ngược lại. Ở đây, các điều kiện tự nhiên tác động đến chất
lượng LĐNN được biểu hiện ở dạng tiềm năng, sự tác động được thể hiện còn tùy
thuộc vào trình độ khai thác các tiềm năng đó.
1.1.4.2. Điều kiện kinh tế
Các tiềm lực kinh tế bao gồm: Quỹ đất đai, tài chính, tiền tệ, dự trữ, cơ sở hạ

tầng sản xuất và hạ tầng xã hội. Tiềm lực kinh tế cũng là nhân tố tác động trực tiếp
và gián tiếp đến chất lượng LĐNN
- Các yếu tố kinh tế tác động đến sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra các điều kiện
về vật chất tác động tích cực vào quá trình nâng cao chất lượng LĐNN. Một tiềm lực
kinh tế yếu kém chẳng hạn nguồn lực ngân sách Nhà nước hay địa phương ít ỏi, ít có
cơ hội đầu tư thích đáng cho giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lượng LĐNN thì chắc
chắn LĐNN ở địa phương đó sẽ rất yếu kém.
- Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng LĐNN. Bởi vì, các yếu tố
kinh tế vừa là các điều kiện cho sự phát triển kinh tế của đất nước, địa phương, vùng,
vừa ảnh hưởng tới khả năng đầu tư học tập của LĐNN và chất lượng LĐNN. Sự tác
động của các nhân tố đến chất lượng LĐNN theo hướng thuận chiều của sự phát

2020


triển kinh tế. Trong đó, các cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội có sự chi phối mạnh
mẽ nhất.
Có thể nói, trình độ phát triển KT - XH vừa là nguyên nhân vừa là chất lượng
của nguồn nhân lực. Vì vậy, xem xét sự phát triển kinh tế của một đất nước, một địa
phương, có thể đánh giá sự tác động của nó đến chất lượng nguồn lao động, đồng
thời cũng thấy rõ sự tác động của chất lượng lao động đến sự phát triển của nền kinh
tế.
1.1.4.3. Tình hình xã hội
Thể chế chính trị, phong tục tập quán, cũng là những nhân tố tác động đến
chất lượng LĐNN.
- Về thể chế chính trị: Sự tác động của nó tới chất lượng LĐNN chủ yếu thể
hiện sự ưu tiên đầu tư của Chính phủ tới việc nâng cao trình độ văn hóa và trình độ
chuyên môn kỹ thuật của LĐNN trên các phương diện khác nhau như: Đầu tư các
yếu tố vật chất, sử dụng hợp lý bộ phận LĐNN và có chính sách khuyến khích nâng
cao chất lượng LĐNN.

- Về phong tục tập quán: phong tục tập quán ảnh hưởng đến chất lượng LĐNN
ở mức độ đầu tư cho hoạt động văn hóa, học tập chuyên môn trong từng gia đình
và hình thành nên ý thức trong lao động sản xuất, trong chấp hành pháp luật. Thực
tế, do tác động của phong tục tập quán và truyền thống đã hình thành những vùng
“đất học” thi đua trong học tập đã làm cho chất lượng LĐNN ở đó hơn hẳn các vùng
khác.
1.1.4.4. Công tác giáo dục - đào tạo
- Giáo dục - đào tạo ảnh hưởng đến chất lượng LĐNN thông qua việc nâng cao
trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng tay nghề của người lao
động. Sự ảnh hưởng của giáo dục - đào tạo đến chất lượng LĐNN là rất lớn.
- Thông thường, ở các nước đang phát triển, có nền giáo dục thuộc mức trung
bình so với thế giới, họ định hướng theo xu thế “nâng cao dân trí” làm chủ đạo rồi
mới dần dần chú trọng đến những chương trình đào tạo cao hơn. Nước ta cũng
đang làm theo mô hình này trong quá trình nâng cao chất lượng LĐNN với việc đầu

2121


tư vào đào tạo trình độ văn hóa trước rồi mới phát triển trình độ chuyên môn kỹ
thuật.
- Nền tảng tri thức chuyên môn, kỹ năng lao động cao hay thấp tùy thuộc vào
kết quả giáo dục-đào tạo. LĐNN đông về số lượng, song ít được đào tạo sẽ ảnh
hưởng mạnh mẽ đến chất lượng. Chính vì thế, nguồn lao động này không những
không trở thành nguồn lực của tăng trưởng, phát triển KT-XH, mà ngược lại trở
thành gánh nặng trong giải quyết việc làm, thất nghiệp cản trở phát triển nói
chung.
- Nhân tố giáo dục - đào tạo tác động đến chất lượng LĐNN không chỉ trực
tiếp trước mắt mà còn tác động lâu dài. Vì vậy, để nâng cao chất lượng LĐNN hầu
hết các địa phương đều phải có chiến lược giáo dục đào tạo cơ bản, dài hạn, tổng
thế. Chiến lược đó bao gồm cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu kiến thức, cơ cấu lao động

cần đào tạo, hệ thống cơ sở cần thiết cho đào tạo LĐNN, từ đó xác định nguồn vốn
tài chính cần thiết cho đầu tư thực hiện.
1.1.4.5. Cơ sở vật chất và các trang thiết bị
Tư liệu lao động là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng trong
quá trình lao động để tác động vào đối tượng lao động. Chính vì thế, nó có ảnh
hưởng lớn đến năng suất lao động một cách trực tiếp.
- Trong điều kiện tư liệu lao động ngày càng được cải thiện theo hướng giảm
lao động chân tay tăng cường lao động trí óc thì lực lượng LĐNN muốn tham gia
vào quá trình lao động phải không ngừng tự bồi dưỡng và nâng cao năng lực của
bản thân. Vì vậy, quá trình nâng cao chất lượng LĐNN gắn liền với công tác làm
quen, học tập cách sử dụng hiệu quả các trang thiết bị nhằm phục vụ cho sản xuất.
- Sự phát triển của tư liệu lao động làm cho một lượng lớn LĐNN sẽ không còn
được sử dụng, do nhiều công đoạn sản xuất được thay thế bằng các trang thiết bị tự
động. Những lao động này sẽ tự chuyển qua các ngành lao động khác trong nền
kinh tế hoặc trở thành lao động thất nghiệp. Sự thay đổi cơ cấu lao động đi kèm với
sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế tạo ra những nguồn lực lao động mới bổ sung cho
những ngành càng phát triển như dịch vụ.

2222


Như vậy, nhân tố trang thiết bị lao động có tác động trực tiếp đến chất lượng
LĐNN thông qua cải thiện năng suất lao động và gián tiếp thông qua đào thải, sàng
lọc cơ cấu lao động trong nền kinh tế. Với sự phát triển của khoa học công nghệ
nhanh chóng như hiện nay, thì nâng cao chất lượng LĐNN đã trở thành yêu cầu bức
thiết.
1.1.5. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng lao động nông nghiệp
1.1.5.1. Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe
Sức khỏe lao động có tác động rất lớn đến sức khỏe của LĐNN khi tham gia
hoạt động sản xuất cũng như chưa tham gia hoạt động sản xuất, trong học tập cũng

như trong các công việc nội trợ của bộ phận không tham gia hoạt động sản xuất,
sức khỏe ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu, khả năng sáng tạo trong công
việc và trong học tập.
Theo Bộ y tế nước ta quy định sức khỏe có 3 loại:
-

Sức khỏe loại A: Thể lực tốt, không mang bệnh tật gì
Sức khỏe loại B: Trung bình
Sức khỏe loại C: Là loại có thể lực yếu, không có khả năng lao động
Tuy nhiên, theo quan điểm về LĐNN của chúng ta thì người có sức khỏe yếu
hoặc không có khả năng lao động không thuộc bộ phận của LĐNN.
Để đánh giá sức khỏe, hiện nay nước ta sử dụng các chỉ tiêu sau:

-

Chỉ tiêu thể lực chung: Đánh giá đơn thuần về thể lực con người như chiều cao, cân

-

nặng, sức bền của con người.
Chỉ tiêu thị lực: Chia theo thang điểm 10, qua đó đánh giá về khả năng nhìn của con

-

người qua mức điểm quy định.
Chỉ tiêu tai, mũi, họng: Đánh giá khả năng nghe rõ, cá loại bệnh tật về tai, mũi,

-

họng.

Chỉ tiêu đánh giá sức khỏe răng, hàm,mặt.
Chỉ tiêu nội khoa.
Ngoại khoa.
Thần kinh tâm thần.
Da liễu.
1.1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hóa
Nói đến trình độ văn hóa của LĐNN, tức là nói đến trình độ hiểu biết của người

2323


trong độ tuổi lao động về kiến thức phổ thông. Xét về khía cạnh nào đấy, trình độ
văn hóa thể hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia.
Các chỉ tiêu đánh giá trình độ LĐNN gồm các chỉ tiêu định lượng về trình độ
văn hóa trung bình của bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Bao gồm các chỉ tiêu
sau:
- Số người trong độ tuổi lao động biết chữ và chưa biết chữ.
- Số năm đi học trung bình dân số từ 15 tuổi trở lên.
- Số người trong độ tuổi lao động có trình độ tiểu học.
- Số người trong độ tuổi lao động có trình độ trung học cơ sở.
- Số người trong độ tuổi lao động có trình độ trung học phổ thông.
- Số người trong độ tuổi lao động có trình độ đại học và trên đại học.
Như vậy, trình độ văn hóa của LĐNN là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
chất lượng LĐNN. Đấy là cơ sở kiến thức đầu tiên để LĐNN có khả năng nắm bắt
được những kiến thức chuyên môn kỹ thuật phục vụ trong quá trình lao động sau
này. Nâng cao trình độ văn hóa có ý nghĩa to lớn trong chiến lược phát triển nguồn
lực con người của cả quốc gia.
1.1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật
 Trình độ chuyên môn:


Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết và khả năng thực hành về chuyên môn
nào đó. Người có trình độ chuyên môn là người có khả năng chỉ đạo quản lý trong
một lĩnh vực chuyên môn nhất định nào đó.
Một số chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực:


Tỷ lệ lao động không qua đào tạo.
Tỷ lệ lao động Trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
Tỷ lệ lao động trên đại học.
Trình độ kỹ thuật:
Trình độ kỹ thuật thể hiện hiệu quả làm việc của người lao động. Được dùng
để chỉ trình độ của bộ phận lao động được đào tạo từ các trường kỹ thuật, các kiến
thức trang bị riêng về lĩnh vực kỹ thuật nhất định, vì thế đặc trưng chỉ tiêu phản
ánh trình độ kỹ thuật người lao động được sử dụng nhiều nhất chính là chỉ tiêu
“bậc thợ”.
2424


Ngoài ra, còn một số chỉ tiêu thể hiện về số lượng trung bình những người
công tác riêng về lĩnh vực kỹ thuật như sau:
- Số người lao động có qua đào tạo kỹ thuật và số lượng người lao động phổ
thông.
- Số lao động có bằng kỹ thuật và không có bằng kỹ thuật.
- Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trong thực tế người ta thường gộp chung các chỉ tiêu đánh giá trình độ
chuyên môn và trình độ kỹ thuật của người lao động lại thành trình độ chuyên môn
kỹ thuật. Qua đó, các chỉ tiêu đánh giá tổng thể về trình độ chuyên môn kỹ thuật
thông dụng là:
- Tỷ lệ % lao động đã qua đào tạo so với LLLĐ đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để
đánh giá khái quát về trình độ chuyên môn kỹ thuật của quốc gia, của các vùng lãnh

thổ.
- Tỷ lệ % lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo bậc đào tạo so với
tổng số lao động đang làm việc.
Thực ra, không phải tất cả các chỉ tiêu này đều có đủ cơ sở số liệu thống kê để
tính toán, có những chỉ tiêu chỉ qua tổng điều tra mới có. Đây là một hạn chế của công
tác thống kê nguồn lao động. Để công tác thống kê, quản lý nguồn lao động có chất
lượng cần sớm ban hành chính thức hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn lao
động.
1.1.3.4. Sử dụng chỉ tiêu HDI
Hiện nay thế giới dùng chỉ tiêu HDI để đánh giá trình độ phát triển nguồn
nhân lực của mỗi quốc gia trên ba phương diện là mức độ phát triển kinh tế, giáo
dục và y tế. HDI được xác định bởi ba chỉ tiêu sau:
-

GDP thực tế bình quân đầu người.
Kiến thức ( tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục).
Tuổi thọ bình quân.
Tuy chỉ tiêu HDI không phải là chỉ tiêu phản ánh riêng chất lượng của nguồn
nhân lực một quốc gia. Song đây là chỉ tiêu quan trọng được sử dụng rộng rãi trên
thế giới để đo chất lượng con người nói chung, ưu điểm của chỉ tiêu HDI là thuận

2525


×