Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp ở huyện vĩnh linh, tỉnh quảng trị trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.82 KB, 83 trang )

BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH : Công nghiệp hóa
ĐNA : Đông Nam Á
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội ( Gross Deverlopment product )
HĐH : Hiện đại hóa
KH – CN : Khoa học – công nghệ
KT – XH : kinh tế - xã hội
NLĐ : Nguồn lao động
NN : Nông nghiệp
NNL : Nguồn nhân lực
NNL : Nguồn nhân lực
NT : Nông thôn
THPT : Trung học phổ thông
VAC : Mô hình nông nghiệp Vườn – Ao – Chuồng
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết đề tài
3
Thực hiện đường lối “ Đổi mới “ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Đảng và
Nhà nước ta luôn nhấn mạnh tầm vai trò quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực về cả
số lượng và chất lượng. Ngày nay, trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế quốc tế, thì
vấn đề chất lượng nguồn lao động ngày càng được quan tâm nhiều hơn trở thành vấn đề
trọng yếu trong cạnh tranh phát triển đất nước với các quốc gia trên thế giới. Việt Nam sau
hơn 25 năm đổi mới, với những thành tựu đã đạt được như tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở
mức cao và ổn định so với các nước trong khu vực và trên thế giới, vị thế trên đấu trường
quốc tế được nâng cao, mức sống nhân dân ngày càng được nâng cao và một trong những
nguyên nhân chính tạo nên những thành tựu to lớn như vậy đó chính là nhờ vào sự quan tâm
đầu tư đúng mức vào phát triển nguồn lực con người – lực lượng sản xuất cơ bản, quan trọng


nhất của của đất nước phát triển nguồn nhân lực luôn là ưu tiên số một của Đảng và nhà
nước ta trong chiến lược phát triển lâu dài của đất nước.
Vĩnh Linh là một huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Phía Đông giáp biển Đông;
phía Tây giáp huyện Hướng Hóa; phía Nam giáp huyện Gio Linh và phía Bắc giáp huyện Lệ
Thủy (Quảng Bình). Dân số 89.027 người trong đó có 2.175 người dân tộc Vân Kiều, toàn
huyện có 20.323 hộ; 22 xã, thị trấn; 191 làng, bản, khóm, phố. Với lao động sản xuất nông
nghiệp là nguồn thu chủ yếu của người dân nơi đây. Trong những năm qua nền kinh tế trên
địa bàn đã có nhiều bước phát triển nổi bật bộ mặt nông thôn đã có sự thay đổi rõ rệt. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2007 – 2012 luôn đạt ở mức hai con số trở lên, năm 2012 tốc
độ tăng trưởng kinh tế của huyện là 14,2% so với năm trước. Những thành tựu trên có được
là nhờ sự nỗ lực không ngừng về mọi mặt của chính quyền nhân dân và quan trọng hơn cả là
Đảng bộ và chính quyền huyện đã sớm nhận thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của
huyện. Hòa chung với nhịp đập của chiến lược phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của tỉnh và của cả nước, trong thời gian qua huyện luôn coi trọng việc đầu tư vào con
người bằng cách đầu tư vào giáo dục đào tạo, với mức đầu tư này luôn chiếm một tỷ lệ cao
trong ngân sách huyện. Mức sống nhân dân ngày càng được cải thiện với tỷ lệ hộ nghèo
giảm còn 10,09% năm 2012 so với 15,9% năm 2010. Tuy nhiên trên mặt lý thuyết là như vậy
nhưng trên thực tế thì huyện Vĩnh Linh vẫn chưa thực sự khai thác hết tiềm năng, phát huy
4
hết hiệu quả sử dụng NNL trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ học vấn, chuyên
môn kỹ thuật … đặc biệt là trình độ chuyên môn kỹ thuật của NNL vẫn còn thấp, do đó chưa
tạo ra được động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Nhất là khi
Vĩnh Linh là một huyện thuần nông với hơn 70% lao động làm việc trong ngành nông
nghiệp với những đặc điểm chất lượng lao động thấp, tính năng động sáng tạo cũng như về
các mặt trí lực thể lực của nguồn lao động còn chưa cao mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ
trợ, phát triển chất lượng nguồn lao động trong ngành nông nghiệp song tình trạng chất
lượng NNL thấp đã tạo nên một rào cản lớn cho sự phát triển của huyện nhà trong ngành
nông nghiệp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung.
Chính những hạn chế đưa ra đó đã đưa vấn đề nâng cao chất lượng NNL trong ngành

nông nghiệp trở thành một vấn đề cấp bách, mang tính chiến lược trong sự nghiệp CNH
HĐH, phát triển kinh tế xã hội của huyện nhà trong những năm tới. Đứng trước những yêu
cầu đó nhóm chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong ngành nông nghiệp ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện
nay “ làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của mình.
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chất lượng NNL là một đề tài khá hay và khá rộng nó có nhiều khía cạnh khác nhau
cần được đề cập nghiên cứu. Trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa
học, khóa luận, luận văn nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực. Có thể kể đến Luận văn
thạc sĩ khoa họa kinh tế “ Nâng cao chất lượng nguồn lao động, nông nghiệp nông thôn trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế “ của
Nguyễn Thị Thu Thủy, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Giáp Nguyên Nhật về “ Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp nông thôn ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế “. Song chưa có đề tài nào đề cập nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực trong
ngành nông nghiệp ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Chính vì vậy đây cũng là một lý do
để chúng tôi lựa chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành nông
nghiệp ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường của mình.
3 Mục tiêu đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
 Mục tiêu đề tài:
5
- Khảo sát nghiên cứu thực trạng đặc điễm chất lượng NNL ở huyện Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị.
- Trên cơ sở thực trạng, đặc điễm của chất lượng NNL ở huyện đưa ra những
quan điểm, phương hướng giải pháp khắc phục và nâng cao chất lượng NNL
trong ngành nông nghiệp cho huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của chất lượng NNL trong
ngành nông nghiệp.
- Phân tích thực trạng chất lượng NNL trong ngành nông nghiệp trên địa bàn

huyện Vĩnh Linh giai đoạn 2007 -2011 chỉ ra những ưu điểm và hạn chế cần
khắc phục.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
ngành nông nghiệp ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: chất lượng nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp và
các yếu tố ảnh hưởng cũng như chịu tác động của chất lượng NNL ở huyện Vĩnh
Linh, tỉnh Quảng Trị.
 Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng trị.
- Thời gian: đề tài nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL giai đoạn từ 2007 –
2011 và đưa ra định hướng giải pháp cho giai đoạn 2013 – 2020.
- Về nội dung: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp ở
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị,
5 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Phương pháp điều tả chọn mẫu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
6 Những đóng góp về mặt khoa học của đề tài
- Làm tài liệu cho những ai quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề này, đặc biệt là
sinh viên ngành kinh tế chính trị.
- Giúp chính quyền địa phương nắm rõ về thực trạng và rà soát lại hiệu quả của
việc nâng cao chất lượng NNL trong phát triển ngành nông nghiệp hiện nay và
có thể tham khảo các giải pháp mà đề tài đã đưa ra nhằm đầy nhanh và có hiệu
quả công tác này.
6
7 Kết cấu của đề tài
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong ngành nông nghiệp.

Chương 2: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp ở huyện
Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành
nông nghiệp ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰCTRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP
1.1. Nguồn nhân lực và các nhân tố tác động đến việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực, nguồn nhân lực nông nghiệp, chất
lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
ngành nông nghiệp
 Nguồn nhân lực
7
Nhân lực chính là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con
người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con
người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điền kiện tham gia vào quá trình lao động
– con người có sức lao động.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía
cạnh: Trước hết với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn nhân lực
nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con
người và các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực
của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn
nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định.
Khái niệm về nguồn nhân lực được sử dụng rộng rải ở các nước có nền kinh tế
phát triển từ những năm giữa thế kỷ XX, với ý nghĩa là nguồn lực con người thể hiện một
sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong quá trình phát triển. Nội hàm nguồn nhân
lực không chỉ bao hàm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, cũng
không chỉ bao hàm về mặt chất lượng mà còn chứa đựng những hàm ý rộng hơn.

Tùy vào các góc độ tiếp cận khác nhau mà NNL cũng có nhiều cách hiểu khác
nhau:
Theo lý thuyết phát triển, NNL theo nghĩa rộng là nguồn lực con người của một
quốc gia, một vùng lãnh thổ (vùng, tỉnh), nó là một bộ phận cấu thành các nguồn lực có
khả năng lao động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội như
nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính. [27,8]
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, NNL được đề cập với tư cách là một lưc
lượng sản xuất chủ yếu, sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ở đây, con người được xem xét
từ góc độ là những lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội. việc cung cấp đầy đủ và
kịp thời lực lượng lao động theo nhu cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất đảm
bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. [28,8]
Trong lý luận về vốn người NNL trươc hết như một yếu tố của quá trình sản xuất
một phương tiện để phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, lý luận về “ vốn người” còn xem
xét con người từ quan điểm nhu cầu về các nguồn lực của phát triển. Đầu tư cho con
người được phân tích tương tự như đàu tư vào các nguồn vật chất, có tính đến tổng hiệu
8
quả của đầu tư này, hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ đầu tư đó. Cách
tiếp cận này được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay. [138,16]
Theo quan điểm của WB cho rằng: NNL là toàn bộ vốn người, bao gồm thể lực, trí
lực kỷ năng nghề nghiệp, ý thức … do một các nhân sở hữu. Do đó đầu tư cho con người
là đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát
triển bền vững. [7]
Theo Liên Hợp quốc quan niệm NNL là tất cả những kiến thức, các kỷ năng, kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây là yếu tố
quan trọng nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của một quốc gia.
Theo từ điển của Pháp (1917 – 1985), nguồn nhân lực xã hội bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có việc làm. Như vậy
theo quan điểm này thì những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng
không muốn co việc làm thì không được xếp vào nguồn nhân lực xã hội.
Đối với Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm

NNL.
Theo giáo trình “ Quản lý nguồn nhân lực “ của Học viện Hành chính Quốc gia và
theo “ Tập bài giảng NNL “ của trường Cao đẳng Lao động – xã hội, NNL là tiềm năng
về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác
định trên phạm vi một địa phương, một ngành hay một vùng”.
Theo GS Phạm Minh Hạc thì NNL được hiểu là số dân và chất lượng con người,
bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và
phong cách làm việc. [19,11]
Lại có quan điểm cho rằng: “ Nguồn nhân lực con người là sự kết hợp thể lực và
trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới
phát triển của con người “. [20,3]
Như vậy dựa vào các quan niệm trên chúng ta có thể hiểu “ NNL của một quốc gia
một vùng lãnh thổ là tổng thể khả năng và năng lực của dân cư nơi đó có thể tham gia
vào quá trình lao động ở hiện tại và tương lai để sản xuất ra hàng hóa và sản phẩm cho xã
hội “. Khả năng và năng lực tham gia ở đây chính là việc sẳn sàng hoặc không sẳn sàng
tham gia lao động và là tổng thể năng lực về tổng thể các yếu tố thể lực, trí tuệ và tâm lực
của vốn dân cư có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước.
 Chất lượng nguồn nhân lực
9
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện
mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong nguồn nhân lực. Chất
lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà
còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng NNL
cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là nguồn lực của sự phát triển,
mà cò thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Chất lượng NNL là một khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về
trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định của
nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi
hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Trong đó:
Trí lực ( năng lực tinh thần) của NNL: đây là một tiêu chí được xem là quan trọng

nhất trong các tiêu chí đánh giá về chất lượng NNL. Trí lực được xác định bởi những tri
thức chung về khoa học, trình độ kiến thức chuyên môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc
và khả năng tư duy xét đoán của mỗi con người. Nó được hình thành và phát triển thông
qua giáo dục đào tạo cũng như quá trình lao động sản xuất.
Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự chăm sác sức
khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe mạnh, thích nghi với môi
trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng yêu cầu của một hoạt động cụ thể
nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết định năng lực hoạt động của con người. Phải
có thể lực con người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã hội của nguồn
nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán phong cách, thói quen, quan niệm,
truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật …, gắn liền với truyền thống
văn hóa. Trong điều kiện của sản xuất công nghiệp đòi hỏi người lao động phải có: Ý
thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao động, biết tiết kiệm, có tinh thần trách nhiệm trong
làm việc, tinh thần hợp tác, tác phong làm việc khẩn trương, chính xác, có lương tâm
nghề nghiệp…
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại là tiền đề phát triển của nhau.
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao được các mặt: thể lực, trí lực,
10
phẩm chất đạo đức nhân phẩm, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại liên quan đến
một lĩnh vực rất rộng lớn.
 Nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
ngành nông nghiệp
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với xu hướng hội nhập và phát triển nền kinh tế
quốc tế, với sự bùng nỗ công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức. Muốn xây dựng và
phát triển đất nước giàu mạnh thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xem
như là một trong những chiến lược phát triển hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Với
đan số 90 triệu dân, Việt Nam được xem là một thị trường với nguồn lao động dồi dào
song chất lượng nguồn lao động còn nhiều hạn chế, chiến lược nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đang trở thành một trong những chiến lược phát triển trọng yếu của đất

nước. Định hướng phát triển trong giai đoạn cách mạng mới – giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất – kỷ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh “. Về thực chất, đó là sự phát triển vì con người, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc
cho quần chúng nhân dân lao động. Mọi sự phát triển của xã hội trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều do con người quyết định và đều vì sự phát triển con
người. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu phát triển con người, như Đảng ta đã
khẳng định, chỉ có thể thắng lợi với việc phát huy cao độ nâng cao chất lượng NNL.
Nguồn nhân lực nông nghiệp là một bộ phận của nguồn nhân lực xã hội bao gồm
toàn bộ những người lao động đang làm việc (gọi là những người lao động dưới dạng tích
cực) và lao động tiềm tàng (là những người có khả năng lao động song lại chưa tham gia
lao động) thuộc khu vực nông nghiệp nông thôn. Chất lượng NNL trong ngành nông
nghiệp là trình độ khả năng của năng lực thể chất và năng lực tinh thần cấu tạo thành lực
lượng lao động nông nghiệp. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp là tổng
thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
chất lượng từng con người lao động trong ngành nông nghiệp (trí tuệ, trí lực và đạo đức
phẩm chất) đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển sản xuất trong ngành
11
nông nghiệp nói riêng và cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển
nói chung. Nâng cao chất lượng NNL nông nghiệp chính là sự tăng cường sức mạnh và
kỷ năng hoạt động sáng tạo của năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực lượng lao
động nông nghiệp lên đến một trình độ nhất định để có thể hoàn thành đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của một quốc gia. Từ đó
có thể hiểu chất lượng NNL trong ngành nông nghiệp là trạng thái nhất định, trình độ
khả năng của năng lực thể chất và năng lực tinh thần cấu tạo thành lực lượng lao động
trong ngành nông nghiệp.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp là quá trình phát triển thể
lực, trí lực khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức tay nghề, tính năng động xã hội và

sức sáng tạo của con người, nền văn hóa truyền thống lịch sử … Do đó nâng cao chất
lượng NNL nông nghiệp đồng nghĩa với quá trình nâng cao năng lực xã hội và tính năng
xã hội của nguồn nhân lực về mọi mặt: thể lực, trí lực, nhân cách, đồng thời phân bố, sử
dụng và phát huy có hiệu quả nhất năng lực đó để phát triển sản xuất trong ngành nông
nghiệp. Trong NNL, chất lượng đóng vai trò quyết định, nhất là trong giai đoạn hiện nay,
khoa học công nghệ và kỷ thuật phát triển mạnh mẽ thì nguồn nhân lực có chất lượng cao
có vai trò quyết định trong sự phát triển nhanh và bền vững. Do vậy nâng cao chất lượng
NNL nông nghiệp đóng vai trò quan trọng và là động lực thúc đẩy cả một nền kinh tế xã
hội chung cùng phát triển.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong ngành nông nghiệp
1.1.1.1. Sự phát triển kinh tế xã hội
Tăng trưởng, phát triển kinh tế là nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng
nguồn nhân lực trên nhiều phương diện bởi vì đây là cơ sở để xác định tiền lương, thu
nhập, cải thiện mức sống và nâng cao dân trí của tầng lớp dân cư cũng như xã hội. Ngoài
ra nhờ thành tựu tăng trưởng, thu ngân sách tăng lên nên đảm bảo nhu cầu chi thường
xuyên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, chi cho phát triển giáo dục đào tạo, y tế,
văn hóa … tác động tích cực hơn đến chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ phát triển kinh
tế xã hội cao càng có điều kiện đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khi giáo dục và đào tạo
phát triển lại góp phần quyết định trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng NNL, ngược lại
12
đến lúc NNL sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội hơn nữa. Do đó, trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và chất lượng NNL có mối quan hệ biến chứng qua lại với
nhau, chính kinh tế là nền tảng phát triển xã hội, của con người. Một nền kinh tế trình độ
cao thì có cơ cấu kinh tế hợp lý và sử dụng phần lớn công nghệ hiện đại, các thành tựu
khoa học và công nghệ được cập nhật đưa vào đời sống từ đó chất lượng cuộc sống của
dân lao động tăng lên rõ rệt.
Khi nền kinh tế phát triển cao lượng đầu tư cho sản xuất xã hội từ đây làm gia tăng
việc làm cho người lao động. Việc đầu tư sẽ trang bị thêm nhiều khoa học công nghệ hiện
đại về cả mặt phương tiện kỹ thuật cũng như môi trường làm việc được nâng cấp hơn.

Người lao động ngày càng tiếp cận gần hơn với những công việc có chất lượng cao, thu
nhập ổn định. Điều này là cốt lỗi tạo nên một đời sống vật chất, tinh thần tốt hơn cho
NLĐ, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao rõ rệt. Hơn nữa việc đưa khoa học kỹ
thuật công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất ở trong các nhà máy xí nghiệp, doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước hay ngay trên cánh đồng, vùng đất nhưng khi NLĐ chưa kịp
phát triển để thích nghi với những thay đổi tích cực đó buộc họ những người đứng đầu
cóa tổ chức, doanh nghiệp, hay ban lãnh đạo xã, huyện, tỉnh phải có những chính sách
cũng như đầu tư cho việc đào tạo nâng cao sự hiểu biết, chất lượng NNL. Việ này là một
quá trình góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Bên cạnh những mặt tích cực mà sự phát triển kinh tế mang lại thì nó còn có sự
tác động cả về tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi trong cuộc sống đó
có thể kể đến là: Ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ lệ tai nạn gia tăng đáng kể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân. Do thu nhập tăng lên và sự thay đổi trong lối
sống nên ở các đô thị xuất hiện nhiều hơn những lối sống sai lệch, ảnh hưởng của những
văn hóa không tốt từ các nước Phương Tâytồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật
của nước nghèo và của “ mức sống cao “. Ở Việt Nam do đang ở trong thời kỳ chuyển
đổi kinh tế thì tác động của những biến đổi kinh tế xã hội đến chất lượng nguồn nhân lực
còn phức tạp hơn.
13
Sự phát triển cơ chế thị trường gắn liền với bất bình đẳng về thu nhập trong các
tầng lớp dân cư, giữa các ngành cũng như vùng kinh tế. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới
khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế.
Đối với Việt Nam, do trình độ phát triển kinh tế xã hội còn ở mức thấp nên chất
lượng NNL chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và đưa nước ta tiến
nhanh, tiến mạnh trên con đường phát triển theo và đuổi kịp các nước trong khu vực và
trên thế giới. Do đó, trong giai đoạn hiện nay việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước.
1.1.1.2. Giáo dục - đào tạo
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, giáo dục và đào tạo

luôn chiếm một vị trí quan trọng. Ngày nay có lẽ không một quốc gia nào trên thế giới lại
không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của giáo dục đào tạo đối với công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, một trong những
yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến bộ vượt bậc cho mỗi quốc gia là giáo dục
và đào tạo. Giáo dục và đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo chuyên môn kỷ thuật, mức độ phát triển của giáo dục đào tạo càng cao thì quy mô
nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật càng được mở rộng. Trong điều kiện hệ thống giáo
dục, đào tạo phát triển phổ biến tại các địa phương, nông thôn, thành thị, miền núi, đồng
bằng, hải đảo thì việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục, đào tạo của dân cư rất thuận tiện,
giảm được tổn thất về thời gian, sức lực và tiền bạc. Do đó khả năng nâng cao quy mô
nguồn nhân lực qua đào tạo là rất hiện thực và đó cũng là một trong những giải pháp để
cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của các địa phương, vùng và quốc gia.
Theo các lý thuyết tăng trưởng gần đây đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản đó là: áp dụng công
nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những
con người được đào tạo, đặc biệt là nhân lực có kỹ năng nghề cao. Trong bối cảnh các
nguồn lực tự nhiên và nguồn lực khác là hữu hạn và ngày càng có nguy cơ cạn kiệt, thì
nguồn nhân lực có chất lượng chính là vũ khí mạnh mẽ nhất để giành thắng lợi trong
cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Năng lực thực hiện này chỉ có thể có được thông qua
14
giáo dục – đào tạo và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, ngay cả
việc tích lũy kinh nghiệm này cũng phải dựa trên một nền tảng là giáo dục- đào tạo nghề
nghiệp cơ bản. Như vậy có thể thấy, vai trò quyết định của giáo dục - đào tạo nghề
nghiệp đối với việc hình thành và phát triển năng lực thực hiện của con người.Vai trò của
giáo dục- đào tạo nghề nghiệp đối với chất lượng nguồn nhân lực xuất phát từ khía cạnh
lợi ích cá nhân của con người. Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại cho rằng “ tất cả các
hành vi của con người đều xuất phát từ những nhu cầu lợi ích kinh tế cho chính các cá
nhân hoạt động tự do trong thị trường mang tính cạnh tranh. Nội dung chính của lý thuyết
trên cho rằng, các cá nhân đầu tư vào giáo dục và đào tạo nghề nhằm tích luỹ những kiến

thức và kỹ năng nghề nghiệp, những cái có thể mang lại lợi ích lâu dài sau đó và đó là
nhân tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Chính sự đầu tư này, dưới giác độ xã hội, tạo
ra chất lượng nguồn nhân lực và do đó, cũng mang lại lợi ích kinh tế quốc dân, thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế. Đây chính là động lực để con người đầu tư vào giáo dục - đào tạo
và đào tạo nghề đồng thời có đã tác động tích cực làm cho chất lượng nguồn nhân lực
được nâng lên. Giáo dục - đào tạo nghề tạo ra sự “ tranh đua ” xã hội và trong bối cảnh
cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những người học vấn thấp, kỹ năng, tay nghề
thấp hoặc không có nghề khó có thể cạnh tranh được so với những người có trình độ, có
kỹ năng nghề cao. Khi đó, họ sẽ trở thành nhóm người “ yếu thế ”, phải làm những việc
thu nhập thấp, thậm chí không kiếm được việc làm, trở thành người thất nghiệp dài hạn
và nhận trợ cấp xã hội. Nếu những người này không tự tạo cho họ năng lực, nâng cao “
vốn nhân lực” của mình thì sớm hay muộn, họ cũng lại bị “bật” ra khỏi thị trường lao
động. Muốn thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, buộc những người đó, bằng cách này hay
cách khác phải nâng cao “vốn nhân lực” của mình và cách hiệu quả nhất là đầu tư vào
giáo dục, đào tạo nghề. Vai trò của đào tạo nghề đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực được thể hiện thông qua chính nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhu cầu của nền
kinh tế công nghiệp đòi hỏi phải phát triển đội ngũ lao động có kiến thức, có kỹ năng
nghề nghiệp cao, có khả năng làm chủ được các phương tiện, máy móc, làm chủ được
công nghệ. Quá trình công nghiệp hóa dài hay ngắn, ngoài các yếu tố về cơ chế, chính
sách và thể chế còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật này.
15
Đây có thể nói là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ các nước phải
đầu tư cho đào tạo nghề. Trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi quy mô
và cơ cấu giáo dục - đào tạo nghề và qua đó, quy mô và cơ cấu nhân lực kỹ thuật khác
nhau. Nếu như ở thời kỳ phát triển thấp, cơ cấu giáo dục – đào tạo theo trật tự ưu tiên sẽ
là giáo dục phổ thông- giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; thì ở thời kỳ nền kinh
tế phát triển cao (nhất là trong nền kinh tế tri thức), cơ cấu trên sẽ là giáo dục đại học -
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông. Ngược lại, giáo dục - đào tạo nghề lại là
động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức rõ được
vai trò của giáo dục, đào tạo nghề nghiệp đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực và qua đó tạo ra sự phát triển tương lai, Chính phủ của nhiều nước đã có chiến lược
dài hạn phát triển giáo dục – đào tạo và đầu tư thỏa đáng ngân sách cho lĩnh vực này. Ở
nước ta, ngay từ Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “ Phát triển giáo dục- đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Phát triển giáo dục- đại học gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế- xã hội; xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa”; thực hiện công bằng trong giáo dục. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Đảng đã đề ra chủ trương phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010
là: “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng
nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho xuất
khẩu lao động” và “Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ
tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình
thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt: dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng
nghề”. Đặc biệt Dự thảo Chiến lược Phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 sẽ được trình tại
Đại hội lần thứ XI cũng đã nêu rõ: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân
là một trong ba khâu đột phá chiến lược…Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm, nhất là ở
NT và vùng đô thị hoá; hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo học nghề.
1.1.1.3. Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe
16
Vấn đề sức khỏe của NLĐ là một trong các vấn đề quan trọng thiết yếu được quan
tâm hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng NNL. Sức khỏe tác động tới chất lượng lao
động ở cả hiện tại và tương lai. Để tạo dựng và duy trì được một thể trạng sức khỏe tốt
hay một thể lực mạnh thì yếu tố quan trọng đầu tiên là chúng ta phải có một chế độ dinh
dưỡng và điều kiện chăm sóc sức khỏe đầy đủ hợp lý.
Dinh dưỡng thấp và tình trạng sức khỏe yếu không chỉ gây ra ốm yếu thể trạng,
mất ổn định về mặt tinh thần mà còn làm giảm năng suất lao động. Một bà mẹ suy dinh
dưỡng trong thời kỳ mang thai, sự thiếu thốn lương thực thực phẩm trong giai đoạn sơ
sinh và lúc trẻ còn nhỏ có thể dẫn đến bệnh tật cũng như sự khiếm khuyết trong quá trình

phát triển về thể trạng và thần kinh của trẻ và năng suất lao động trong tương lai sẽ bị hạn
chế. Ở người lớn sự suy dinh dưỡng sẽ làm suy giảm năng lượng, tính năng động, sáng
tạo, sáng kiến, khả năng học tập và làm việc của họ. Thiếu dinh dưỡng thường gặp ở các
gia đình nghèo khi nguồn tài chính không đủ để họ sinh hoạt ăn uống chứ nói gì đến việc
ăn cho đầy đủ chất dinh dưỡng. Sự nghèo đói bắt nguồn từ những hạn chế về nguồn lực
( đất đai, các yếu tố đầu vào, thông tin … ), trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm hay việc
làm không ổn định , sinh nhiều con … Vì vậy mà chúng ta có thể thấy tình trạng nghèo
đói và chất lượng NNL thấp luôn có mối quan hệ cùng chiều và có sự tác động qua lại lẫn
nhau, do đó để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải xóa đói giảm nghèo đồng thời
với việc nâng cao chất lượng NNL. Thông qua chăm sóc sức khỏe sinh sản, bà mẹ trẻ em,
tư vấn về dinh dưỡng, tiêm phòng bệnh tật … là một cách thức đảm bảo sức khỏe cho
NLĐ trong tương lai cho cả thể lực và tinh thần khỏe mạnh. Mạng lưới chăm sóc y tế
được mở rộng sẽ đến được với những NLĐ không chỉ ở thành thị mà cả ở vùng NT, miền
núi, vùng sâu vùng xa với những thầy thuốc giỏi, thuốc tốt, phương pháp điều trị, khoa
học kỷ thuật tiên tiến đến với mọi người. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh từ đó
nâng cao được sức khỏe cho người dân cũng như nguồn nhân lực. Các cơ chế chính sách
trong công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho người dân phù hợp sẽ tạo điều kiện cho người
lao động ở mọi tầng lớp đều có khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế, khám, chăm sóc sức
khỏe. Như chế độ bảo hiểm y tế đối với từng chế độ là hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối
17
tượng thương binh, người khuyết tật, học sinh sinh viên … Tất cả điều này sẽ có sự tác
động đến chất lượng nguồn nhân lực trên một phạm vi rộng.
1.1.1.4. Các chính sách của nhà nước
Không ai có thể phủ nhận được tầm vai trò quan trọng to lớn của chính phủ đối
với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia nói chung và nguồn nhân lực trong
ngành NN nói riêng. Vai trò đó được thể hiện qua các chính sách, thể chế pháp luật tạo
điều kiện cũng như hỗ trợ phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua phát
triển các hệ thống giáo dục cả chiều sâu và chiều rộng, phát triển kinh tế - xã hội về cơ sở
hạ tầng vật chất. Các chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng giáo dục
thông qua các chính sách đổi mới cơ chế phương pháp giáo dục, đào tạo gắn liền với nhu

cầu thị trường, các chính sách khuyến khích hổ trợ đối với từng đối tượng là người
nghèo, thương bệnh binh trong việc giúp đỡ họ về nguồn tài chính ổn định cuộc sống, các
dịch vụ khám chữa bệnh, các cơ hội học tập, học bổng khuyến khích học tập cho các đối
tượng. Các chính sách đảm bảo phát triển bình đẳng, công bằng về kinh tế - xã hội giữa
các vùng miền, khu vực và giữa các đối tượng khác nhau. Đó có thể thấy được tầm qua
trọng không thể thiếu của các chính sách của nhà nước trong việc nâng cao chất lượng
NNL.
1.1.1.5. Yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc
Yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc có sự tác động ảnh hưởng từ bên trong của
chất lượng nguồn nhân lực. Một trong những bí quyết thành công của nhân loại trong
phát triển nâng cao chất lượng NNL gắn liền với yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc đó
là phải biết kế thừa và chọn lọc những tinh hoa của nền văn minh nhân loại với giữ gìn
bản sắc dân tộc. Điều này được thể hiện qua nền giáo dục của từng quốc gia phải mang
đầy đủ các yếu tố văn hóa, truyền thống của các dân tộc sinh sống trên đó. Nền văn hóa,
truyền thống, phong tục tập quán, lối sống sống của một cộng đồng một xã hội được hình
thành cả hàng ngàn năm lích sử. Nó là đặc trưng, niềm tự hào của từng vùng miền, từng
quốc gia khác nhau trên thế giới trở thành bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc. Những
truyền thống văn hóa đó ăn sâu trong mỗi người ngay từ lúc nhỏ lớn lên những bản sắc
truyền thống dân tộc, truyền thống lối sống gia đình đó sẽ theo mỗi người trong lối sống,
cách ứng xử, phong cách làm việc. Và như vậy nó có sự ảnh hưởng sâu sắc đến chất
18
lượng NNL, cũng nhự có sự tác động tích cực hay tiêu cực trong việc nâng cao chất
lượng NNL.
Dân tộc Việt Nam từ xa xưa đã có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm
bảo vệ đất nước, đó là truyền thống quý báu của dân ta. Ngày nay khi đất nước hoà bình
sạch bóng quân thù thì lòng yêu nước đó trở thành động lực cho người lao động đứng
trước mọi khó khăn thử thách, ý chí hiên ngang khám phá khoa học kỹ thuật công nghệ
tiên tiến hiện đại đưa chúng ứng dụng vào trong sản xuất nhằm phát triển sản xuất nâng
cao chất lượng lao động. Truyền thống lao động miệt mài chăm chỉ, cần cù, chịu thương
chịu khó của người dân Việt Nam luôn là một đức tính quan trọng góp phần tạo nên

những hiệu quả sản xuất cao trong lao động sản xuất trên những cánh đồng, trong các xí
nghiệp nhà máy. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức cùng với sự bùng nỗ của khoa học
công nghệ thông tin đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thoa và giao lưu các nền văn
minh tiên tiến trên thế giới giữa các quôc gia dân tộc trên thết giới. Việc giao lưu này sẽ
giúp con người lao động trong mỗi dân tộc mỗi quốc gia sẽ tiếp thu làm phong phú và bồi
đắp thêm tinh hoa văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc khác vào truyền thống
của mình để hình thành một bản sắc văn hóa truyền thống ưu trội óp phần tạo nên NLĐ
với chất lượng cao trong NNL.
1.2. Đặc điểm của nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp và yêu cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực
1.2.1. Đặc điểm nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp
Do đặc điểm của sản xuất NN có đặc điểm khác với đặc điểm của các ngành khác.
Vì vậy, lao động trong ngành NN cũng có những đặc điểm khác với lao động ở các ngành
kinh tế khác, cụ thể nó biểu hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp chưa cao
Chất lượng của người lao động được đánh gía qua thể lực sức khoẻ sức dai bền bỉ ,
trí lực trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, đạo đức phẩm chất. Hầu hết lao động trong
ngành NN đều sống ở nông thôn thu nhập còn thấp chưa ổn định đời sống còn nhiều khó
khăn nên chất lượng cuộc sống trong từng hộ gia đình chưa được đảm bảo. Khi cuộc
sống còn khó khăn cơm ăn còn thiếu nói gì đến việc ăn đủ chất hay không nên thể lực sức
19
khỏe của họ còn nhiều hạn chế. Quá chăm lo công việc kiếm sống nên dường như việc
chăm lo sức khỏe bản thân chưa thực sự được họ xem trọng. Nhất là ở những vùng còn
quá khó khăn bất chấp những công việc nguy hiểm cho sức khỏe họ vẫn tham gia để mưa
sinh. Tình trạng sức khỏe, sức dẻo dai thấp nó không thể mang lại một kết quả lao động
tốt nhất.
Phần lớn lao động trong ngành NN chỉ có trình độ học vấn từ trung học phổ thông
trở xuống họ ít được đào tạo bài bản qua trường lớp về khoa học kỹ thuật, công nghệ quy
trình sản xuất cũng như có cơ hội tìm hiểu về bản chất đặc điễm cụ thể từng loại vật nuôi
cây trồng. Họ chỉ dựa trên kinh nghiệm thế hệ trước để lại và cộng với vốn hiểu biết ít ỏi

của bản thân để lao động sản xuất. Họ có ít các cơ hội tiếp cận với thông tin thị trường
với khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại để áp dụng vào trong sản xuất nâng cao năng
suất lao động hay tìm kiếm một thị trường tiêu thụ sản phẩm NN tiềm năng ở những vùng
miền khác nhất là đối với từng vùng miền núi, vùng sâu vùng xa. Các khâu thu mua sản
phẩm NN của họ đều được thực hiện một cách thụ động qua khâu trung gian khiến nguồn
lợi họ thu được bị hạn chế. Riêng lao động nông thôn chiếm hơn 3/4 lao động của cả
nước tuy vậy nguồn nhân lực NN, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ
chuyên môn của lao động thấp kỹ thuật lạc hậu. Do đó, để có một NLĐ với trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao thì nhà nước cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng để có
nguồn nhân lực đủ trình độ để phát triển đất nước.
Thứ hai: Lao động nông nghiệp mang tính thời vụ
Đây là đặc điểm đặc thù không thể xoá bỏ được của lao động NN. Trong lao động
tiến hành sản xuất trồng trọt theo từng vụ từng loại cây trồng khác nhau. Nguyên nhân
của nét đặc thù trên là do: Đối tượng của sản xuất NN là cây trồng vật nuôi chúng là
những cơ thể sống trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan xen
nhau. Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều kiện tự nhiên
khác nhau chúng cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau. Và ngoài ra do
đặc điễm khí hậu thời tiết từng mùa từng tháng trong năm nên việc sản xuất trồng trọt
còn phải dựa vào “ trời “ mà có sự xê dịch. Hiệu quả đạt được trong sản xuất chăn nuôi
20
còn phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên có thuận lợi hay không. Mưa nắng có thể mang
lại một mùa thu hoạch bội thu nhưng cũng có thể để lại một “ mùa trắng “. Tính thời vụ
trong NN là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được, trong quá trình sản xuất chúng ta chỉ có thể
tìm cách làm giảm tính thời vụ của sản xuất NN bằng sự can thiệp như tạo môi trường
nuôi trồng cho cây trồng vật nuôi trong phòng kín với nhiệt độ ánh sáng phù hợp hay tiến
hành cấy ghép những loài cây mới, những gen tốt có khả năng thích nghi với mọi điều
kiện hay với những vùng đất khác nhau. Từ đó đặt ra vấn đề cho việc sử dụng các yếu tố
đầu vào của qúa trình sản xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động trong NN nông thôn
một cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ ba: Các kỹ năng của nguồn nhân lực trong nông nghiệp còn thấp.

Lao động nông nghiệp còn kém về khả năng sáng tạo trong lao động. Do trình độ
học vấn, chuyên môn kỹ thuật còn thấp cộng với những suy nghĩ ỉ lại, trông chờ, kém
năng động mà người lao động ít có những sáng kiến, sáng tạo trong lao động. Người lao
động làm việc với những cây trồng vật nuôi quen thuộc, gắn bó với những phương pháp
lao động truyền thống kém hiệu quả không còn phù hợp với sự phát triển của các công
nghệ kỹ thuật hiện đại. Họ chưa biết cách vận dụng đầu óc, suy nghĩ của mình để tạo ra
những sáng kiến trong lao động như việc tiến hành lai ghép vật nuôi cây trồng mới cho
năng suất cao khả năng thích nghi trong điều kiện thời tiết khí hậu một cách tốt hơn, áp
dụng các phương pháp lao động mới giúp nâng cao năng suất lao động trong sản xuất.
Khả năng nhận thức còn kém. Người lao động nông nghiệp sống ở nông thôn và
tồn tại trong xã hội này với những hũ tục, tập quán còn lạc hậu, khiến nhận thức còn
nhiều yếu kém. Tư tưởng trọng nam khinh nữ cho rằng nữ thì không nên học nhiều, làm
nông thì cần gì phải đi học cho cao làm cho trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật lao
động bị hạn chế. Sinh nhiều con với quan điểm trời sinh voi trời sinh cỏ, nhà đã nghèo
nay lại nghèo hơn khiến chất lượng cuộc sống của phần lớn lao động nông nghiệp còn
thấp không được cải thiện.
Lao động nông nghiệp là lực lượng lao động dễ bị tổn thương tuy nhiên khả năng
thích ứng với những thay đổi của xã hội còn thấp. Làm việc trong điều kiện ngoài trời là
21
chủ yếu, chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt mưa nắng
thất thường, bão lũ thiên tai luôn rình rập. Khả năng chóng chọi của người lao động còn
thấp khi những thiên tai đi qua người dân thường bị mất đi hàng chục hecta hoa màu, cây
trồng nhà cửa. Khi đất nước tiến hành CNH – HĐH chuyển đổi cơ cấu kinh tế giảm bớt
tỷ trọng nông nghiệp số ruộng đất ngày càng thu hẹp, lao động mất việc làm ngày càng
tăng lên người lao động ít có khả năng tìm kiếm một công việc mới ổn định tạo thu nhập.
Thứ tư: Thu nhập của nguồn lao động trong ngành nông nghiệp còn thấp.
Phần lớn lao động tham gia lao động sản xuất trong ngành nông nghiệp có thu
nhập thấp so với lao động các ngành nghề khác. Nguyên nhân là việc hoạt động sản xuất
NN còn mang tính bất ổn định, công việc kết quả sản xuất còn phụ thuộc quá nhiều vào
các yếu tố thiên nhiên hoặc thị trường mua bán chưa được người dân làm chủ. Họ chưa

thật sự chủ động tích cực trong việc tìm kiếm thị trường mua bán sản phẩm đầu ra của
mình, họ chưa nắm bắt được thị hiếu của thị trường nông sản cũng như các thông tin mùa
vụ phục vụ sản xuất. Một lý do khiến thu nhập họ còn thấp đó là do năng lực, trình độ
chuyên môn còn thấp chưa thật sự linh hoạt nắm bắt áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất. Người lao động phần lớn còn mang có suy nghĩ an phận, chưa có tính bức phá,
chưa dám thay đổi trong hoạt động sản xuất do vậy mà thu nhập còn thấp chất lượng
cuộc sống chưa thực sự được cải thiện.
Thứ năm: Lao động NN nước ta có truyền thống lao động cần cù, chăm chỉ, chịu
thương chịu khó học hỏi. Với truyền thống văn hóa gieo trồng lúa nước từ ngàn đời nay
với hình ảnh “ một nắng hai sương “, “ bán mặt cho đất bán lưng cho trời “ lao động cần
mẫn chăm chỉ gắn bó với đồng ruộng, với đất đai với những vật nuôi quen thuộc. Người
dân hiền lành chất phác trong lao động và cả trong cuộc sống thường ngày. Chỉ biết đến
đồng ruộng, vùng đất với những loại hoa màu, vật nuôi gắn bó chăm lo từ lúc gieo trồng
đến khi thu hoạch. Đây có thể xem là một đặc điểm tích cực trong NNL ngành NN.
1.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp ở nước ta hiện
nay
22
Sáng 3/7/2013 tại Hà Nội, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại
Việt Nam phối hợp với Bộ Ngoại giao tổ chức lễ công bố Báo cáo Phát triển con người
năm 2013, với chủ đề “Sự trỗi dậy của phương Nam: Sự tiến bộ của loài người trong một
thế giới đa dạng”. Báo cáo năm nay đã xếp Việt Nam nằm trong số hơn 40 quốc gia đang
phát triển đạt được những tiến bộ hơn cả mong đợi về phát triển con người trong những
thập kỷ gần đây. Theo báo cáo, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng
41% trong hai thập kỷ qua. Năm 2012, Việt Nam đứng thứ 127 trên tổng số 187 quốc
gia - nằm trong nhóm xếp loại trung bình về HDI. Theo Điều phối viên Liên Hợp Quốc
tại Việt Nam Pratibha Mehta, việc đầu tư vào tiềm năng con người có ý nghĩa sống còn
giúp Việt Nam nâng cao lợi thế cạnh tranh. Báo cáo một lần nữa đã khẳng định, Việt
Nam đã đạt tiến độ đáng kể trong việc phát triển con người và giảm tỷ lệ nghèo đói trong
những năm qua. Chỉ số HDI tăng lên còn là một dấu hiệu tốt cho thấy sự tiến bộ về phát
triển con người ở Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực nói chung và chất lượng nguồn

nhân lực trong ngành NN nói riêng. Thực trạng nguồn nhân lực trong ngành NN ở nước
ta hiện nay có nhiều thay đổi cả về số lượng và chất lượng.
Tỉ trọng nguồn nhân lực trong ngành NN ở nước ta đang có xu hướng giảm. Khu vực
nông thôn chính là nơi chiếm ¾ lao động cả nước nhưng tập trung chủ yếu trong ngành
NN hầu như toàn bộ lao động NN đều tập trung ở khu vực nông thôn. Năm 2006 cả nước
có 24,37 triệu lao động làm việc trong ngành NN nhưng riêng khu vực nông thôn đã có
23,17 triệu người chiếm 95,1%. Nhìn từ góc độ chuyển dịch cơ cấu lao động ta thấy, giai
đoạn 1996 – 2006 tỷ lệ lao động NN đã có chuyển biến, giảm từ 82,3% trong tổng lao
động nông thôn năm 1996 xuống còn 69% năm 2006. Đặc biệt, tốc độ giảm lao động
trong lĩnh vực NN đang có xu hướng nhanh hơn trong những năm gần đây khi cơ hội
việc làm trong lĩnh vực phi NN phát triển mạnh. Năm 2000 cơ cấu lao động trong cả 3
khu vực nông – lâm – thủy sản là 60,2% lao động cả nước đến năm 2005 con số đó là
55,1% và đến 2011 thì số lao động trong khu vực này chỉ còn lại là 48,1% đã có sự suy
giảm tỷ trọng lao động NN. Tính đến thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1 triệu người từ
15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, bao gồm 52,1 triệu người có việc làm. Gần 70%
23
lực lượng lao động thuộc khu vực nông thôn.Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn khu
vực nông thôn (3,3% so với 1,4% trong 3 quý đầu năm 2012. Lực lượng lao động trong
độ tuổi lao động tại thời điểm 01/10/2013 là 47,7 triệu người, tăng 366 nghìn người so
với thời điểm 01/7/2013, trong đó nam chiếm 53,7%; nữ chiếm 46,3%. Lao động từ 15
tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế chín tháng năm 2013 ước tính 52,4
triệu người, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2012. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc chín tháng năm nay của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 47,4% tổng số,
không biến động nhiều so với năm trước.
Chất lượng NNL trong ngành NN còn thấp. Chất lượng thấp của NNL ở khu vực
NN, nông thôn thể hiện qua tỷ lệ không biết chữ là 4,79%, tốt nghiệp trung học phổ
thông cơ sở là 34,59% và tốt nghiệp trung học phổ thông cơ sở là 11,18%. Nếu đánh giá
trình độ văn hóa bình quân theo giới tính có thể thấy số năm đi học văn hóa trung bình
của lao động trong ngành NN thấp hơn so với các ngành nghề kinh tế khác. Ngoài ra
trình độ học vấn còn cho người lao động khá năng lĩnh hội những kiến thức, kinh nghiệm

sản xuất và kinh doanh. Với chất lượng NNL nông nghiệp nông thôn Việt Nam hiện nay
sẽ hạn chế họ trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là tự tạo việc làm. Một đặc điểm dễ
nhận thấy ở người lao động của nền sản xuất có trình độ thấp ở Việt Nam như hiện nay là
vẫn mang nặng tính chất của nguời sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng lực ứng dụng khoa
học – công nghệ và các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn rất hạn chế, nên đa số họ là những
người thụ động, tư duy cạnh tranh kém, tính tự do và manh mún cao. Từ đó thu nhập của
người lao động thấp, khả năng chuyển đổi nghề đòi hỏi các kỹ năng và tính kỷ thuật lao
động cao là không dễ dàng.
Hiện nay nước ta có 10 triệu hộ dân với hơn 30 triệu lao động trong độ tuổi lao động
nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo chủ yếu thông qua các lớp tập huấn khuyến
nông sơ sài. Trong đó 16,5 triệu thanh niên nông thôn đang cần việc làm ổn định thì chỉ
có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học, 3,11% có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung
cấp trở lên. Với trình độ như vậy họ khó có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất
NN có ứng dụng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa nông sản trong
24
khu vực. Về mặt thể lực, tình trạng sức khỏe của NNL nông nghiệp ở nước ta thấp hơn so
với mặt bằng chung. Điều này dể lý giải bởi khi hiệu quả sản xuất chưa cao, đời sống
còn khó khăn mà thu nhập từ lao động chưa đáp ứng đủ nhu cầu sống cho lao động thì
việc chăm lo sức khỏe tình trạng thể lực còn chưa được chú trọng. Đứng trước những đặc
điễm và thực trạng của nguồn nhân lực ngành nông nghiệp đặt ra yêu cầu bức thiết trong
việc nâng cao chất lượng NNL trong ngành nông nghiệp.`
1.2.3. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp
Từ những đặc điểm của nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp và thực trạng nguồn
nhân lực nông nghiệp hiện nay đã đặt ra những yêu cầu cần phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên toàn diện và đảm bảo tính nhân văn.
Tính toàn diện thể hiện ở chỗ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao về chất
lượng cuôc sống, môi trường sống, môi trường làm việc, tạo việc làm ổn định và nâng
cao năng suất lao động, đảm bảo tính công bằng trong việc tiếp cận khoa học kỹ thuật
cho lao động cũng như về điều kiện lao động các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Đảm

bảo tính nhân văn đặt ra yêu cầu phải thúc đẩy gia tăng các chỉ số về chuyên môn, nghiệp
vụ, thể lực và các phẩm chất khác của người lao động đồng thời mở ra cơ hội lựa chọn,
chủ động, sáng tạo của nguồn nhân lực.
Đảm bảo nhân lực NN phải đáp ứng được khả năng chuyển đổi nhanh, tính năng
động cao ứng phó kịp thời với những biến đổi khó lường của thiên nhiên, thay đổi khí
hậu có phương án thay đổi kế hoạch sản xuất, trồng trọt để mang lại hiệu quả nhất. Đất
nước đang trong quá trình xây dựng công cuộc CNH – HĐH đòi hỏi nguồn nhân lực phải
đảm bảo yêu cầu chuyển đổi chỗ làm việc, chuyển đổi nghè nghiệp, thay đổi kịp thời xu
hướng phát triển và cấc trúc của nền kinh tế.
Nguồn nhân lực trong ngành NN với công việc canh tác sản xuất trên tư liệu sản
xuất của chính bản thân, gia đình là chủ yếu nên phải có khả năng làm việc hiệu quả và
có năng lực làm chủ quá trình lao động của mình. Khả năng làm việc của nguồn nhân lực
NN thể hiện ở việc lao động sản xuất của họ có mang lại hiệu quả cao hay không về mặt
chất lượng, hiệu quả sản xuất, với yêu cầu chuyên môn kỹ thuật cao hơn, phạm vị đào tạo
25

×