Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Thời gian, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết chân trời mùa hạ của hữu phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.09 KB, 91 trang )


Để hoàn thành khóa luận này ngoài sự cố
gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ rất nhiều từ phía nhà trường, thầy cô, gia
đình và bạn bè. Qua đây cho phép tôi gửi đến
mọi người lời cảm ơn chân thành nhất.
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn cô
giáo TS. Nguyễn Thò Nga, người trực tiếp
hướng dẫn, tận tình giúp đỡ tôi về kiến thức
và phương pháp để tôi hoàn thành được khóa
luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô
trong Khoa Khoa học xã hội trường Đại học Quảng
Bình đã hướng dẫn, giảng dạy, cung cấp kiến
thức và phương pháp cho tôi trong những năm
học qua. Các thầy cô là những tấm gương mà
tôi sẽ mãi noi theo.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới thư viện
trường Đại học Quảng Bình đã giúp tôi trong
quá trình tìm kiếm và mượn tư liệu để phục vụ
cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài
này.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến tất cả bạn bè, gia đình và những người


luôn kòp thời động

viên và giúp đỡ tôi vượt

qua những khó khăn trong cuộc sống.


Mặc dù hết sức nỗ lực và cố gắng, nhưng
do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn hẹp nên
bài khóa luận không tránh khỏi sai sót, rất
mong được sự chỉ đạo đóng góp ý kiến từ các
thầy cô giáo để bài khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn !
Sinh viên thực
hiện
Hoàng Thò Hà

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực. Trong q trình thực hiện đề
tài tơi có kế thừa và tham khảo các tài liệu, thơng tin được đăng tải trên các trang
web theo danh mục tài liệu tham khảo của khóa luận. Nếu sai tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm.

Sinh viên thực hiện

Hồng Thị Hà



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................................. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỜI GIAN – KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT CHÂN TRỜI MÙA HẠ CỦA HỮU PHƯƠNG

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
6. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN

1
2
2
5
6
7
7
7
7
7

NỘI DUNG.......................................................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG......................................................................................9
1.1. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
9
1.1.1. Tác giả Hữu Phương.................................................................................................................9
1.1.2. Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ.................................................................................................11
1.1.3. Ý nghĩa của tiểu thuyết Chân trời mùa hạ..............................................................................14
1.2. VỀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
16
1.2.1. Khái niệm................................................................................................................................16
1.2.2. Các chiều của thời gian nghệ thuật........................................................................................18
1.3. VỀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

20
1.3.1. Khái niệm................................................................................................................................20
1.3.2. Các loại không gian nghệ thuật..............................................................................................21
CHƯƠNG 2. THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHÂN TRỜI MÙA HẠ...............................23
2.1. THỜI GIAN HỒI TƯỞNG
23
2.1.1. Hồi tưởng về tuổi học trò.......................................................................................................23
2.1.2. Hồi tưởng về gia đình.............................................................................................................25
2.1.3. Hồi tưởng về chiến tranh........................................................................................................28
2.1.4. Hồi tưởng về tình yêu.............................................................................................................30
2.2. THỜI GIAN HIỆN TẠI
32
2.2.1. Thiện về làng..........................................................................................................................32
2.2.2. Thiện đi tìm cha......................................................................................................................35
2.2.3. Thiện lên đường vào đại học..................................................................................................36
2.3. THỜI GIAN TƯƠNG LAI
37
2.3.1. Tương lai thể hiện qua dự cảm..............................................................................................39
2.3.2. Tương lai thể hiện qua ước mơ..............................................................................................41
2.4. SỰ ĐAN XEN DỊCH CHUYỂN CÁC CHIỀU THỜI GIAN
43
CHƯƠNG 3........................................................................................................................................ 46
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT...............................................................................46
CHÂN TRỜI MÙA HẠ.......................................................................................................................... 46
3.1. KHÔNG GIAN CHIẾN TRANH
46
3.1.1. Không gian hủy diệt và nỗi đau chiến tranh...........................................................................46


3.1.2. Không gian ý chí và khát vọng giải phóng..............................................................................50

3.1.3. Không gian trú ẩn và dục vọng, bản năng.............................................................................54
3.2. KHÔNG GIAN THIÊN NHIÊN VÀ PHONG CẢNH TRỮ TÌNH
59
3.3. KHÔNG GIAN SINH HOẠT VÀ VĂN HÓA VÙNG MIỀN
61
3.3.1. Sinh hoạt xã hội......................................................................................................................61
3.3.2. Sinh hoạt gia đình...................................................................................................................65
3.3.3. Sinh hoạt cá nhân...................................................................................................................68
3.4.1. Trên cánh đồng làng Đại Hòa.................................................................................................74
3.4.2. Trên nông trường Lệ Giang....................................................................................................79
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................ 84


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian và không gian đều là những thuộc tính phổ biến, những điều kiện
tất yếu, những hình thức tồn tại của thế giới. Cùng tương tự như vậy, trong nghệ
thuật, thời gian và không gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ
thuật. Thời gian và không gian nghệ thuật chịu tác động có ý nghĩa quyết định của
quan niệm về thế giới và con người của nhà văn và phong cách sáng tạo của nhà
văn. Đồng thời, chúng phản ánh, bộc lộ, thể hiện các đặc trưng của chính cái
phong cách đó. Tìm hiểu thời gian và không gian nghệ thuật giúp ta hiểu sâu sắc
hơn, từ những góc độ đặc biệt, cá tính của nhà văn và những đặc sắc của thế giới
nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo nên. Không gian và thời gian nghệ thuật là
những phương diện rất quan trọng trong thi pháp học, chúng tồn tại song song
thống nhất trong tác phẩm văn chương, đồng thời là phương thức tồn tại và triển
khai của thế giới nghệ thuật. Mặt khác, chúng là những hình tượng rất quan trọng
góp phần thể hiện nội dung, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Trong cấu trúc văn bản
của văn xuôi nghệ thuật, không gian và thời gian đóng một vai trò quan trọng.

Với nhà văn có thể sáng tác rất nhiều, nhưng để có được tác phẩm neo bám
vào lòng người là điều không dễ, thậm chí rất hiếm hoi. Văn chương như một trò
bập bênh nghệ thuật với những luật chơi ngoắt ngoéo vô hình, đã thách thức tất
cả những ai lao vào con đường cầm bút. Nó chẳng loại trừ ai, sẵn sàng hê tung
nếu như anh ta không đủ bản lĩnh và lượng sức mình trong cuộc đua chen đầy ảo
tưởng. Trên bước đường nghệ thuật, Hữu Phương là một trong số những cây bút
văn xuôi kỳ cựu của miền Trung. Chân trời mùa hạ, là cuốn tiểu thuyết viết về
con người của mảnh đất Quảng Bình với đề tài người lính và chiến tranh cách
mạng. Tiểu thuyết có giá trị về mặt tư liệu, mang chất tự sự của một giai đoạn
lịch sử về văn học hiện thực đơn thuần, đơn tuyến. Mặc dù bị thi pháp hiện thực
xã hội chủ nghĩa ràng buộc, chi phối nhưng nó vẫn phản ánh chân thực thân phận
con người cũng như sự dẻo dai của người dân miền Trung trong những năm
tháng bom đạn.

1


Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của Hữu Phương dựa trên nguyên tắc kết
hợp, song trùng những cái đối lập tương phản. Điều này thể hiện ở hầu hết các
phương diện nghệ thuật của tác phẩm. Theo trục thời gian là sự đồng hiện giữa
quá khứ và hiện tại, ký ức và bây giờ. Xét ở tọa độ không gian là sự song hành
đồng hiện giữa hậu phương và tiền tuyến, gia đình và xã hội…..Cái mới của tác
phẩm ở cái nhìn nhân bản, tác giả đã sử dụng những kỹ thuật ấy để mang lại cho
độc giả một sự cảm nhận khá đầy đủ, chân thực về cuộc sống của người dân trên
mảnh đất Quảng Bình, những năm khói lửa ác liệt của cuộc chiến tranh chống
Mỹ. Một cuộc chiến mà bây giờ và hàng trăm năm sau nhìn lại, chúng ta vẫn
chưa hết bàng hoàng về những chiến công kỳ vĩ liền kề với bao tổn thất di chứng.
Trong quá trình sáng tạo tác phẩm, ngòi bút của Hữu Phương đã sử dụng
linh hoạt yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật làm cho Chân trời mùa hạ trở
nên đặc sắc và hấp dẫn. Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ là một phần của văn học

địa phương. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Thời gian, không gian nghệ thuật trong
tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của Hữu Phương” để có dịp tìm hiểu kĩ hơn về
nghệ thuật tác phẩm của một nhà văn mà tôi hằng yêu thích và mến mộ. Cũng là
cơ hội để tôi trau dồi, củng cố kiến thức thuận lợi cho việc chọn giảng trong
chương trình văn học địa phương ở phổ thông, để hiểu rõ về không khí cứu nước
của dân Quảng Bình.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu thời gian – không gian nghệ thuật một cách có ý thức chỉ
xuất hiện từ sau lí thuyết thi pháp học hiện đại được các nhà nghiên cứu vận
dụng phổ biến ở Việt Nam. Trong khuôn khổ của một luận văn đại học, dưới đây
chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu những ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề
không gian, thời gian nghệ thuật nói chung. Sau đó chúng tôi xin điểm qua tình
hình nghiên cứu về tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của Hữu Phương.
2.1. Tình hình nghiên cứu về thời gian – không gian nghệ thuật
Sau đây là những bài viết hoặc công trình của các nhà nghiên cứu có đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề thời gian và không gian ở các tác giả khác có
liên quan đến đề tài mà luận văn đang thực hiện. Dẫn theo thời gian xuất bản

2


1. Trần Đình Sử (1982), Thời gian nghệ thuật trong “Truyện Kiều” và cảm
quan hiện thực của Nguyễn Du, Tạp chí nghiên cứu văn học số 05. Trong bài viết
này, nhà nghiên cứu đã nhìn nhận thời gian và không gian từ phía khát vọng,
hành động của nhân vật, tính chất phũ phàng của các thế lực.
2. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”,
NXB Khoa học xã hội. Toàn bộ công trình không bàn nhiều và trực tiếp đến vấn
đề không gian và thời gian, nhưng đáng chú ý ở chương IV có tiêu đề. Cách bố
cục “Truyện Kiều” theo yêu cầu của kịch. Tác giả công trình đã phân tích “những
lời đoán trước”, “những giấc mộng”, tức những yếu tố liên quan đến thời gian.

3. Đặng Thị Hạnh (1987), Tiểu thuyết Huy-gô, Nxb ĐH & THCN. Ngoài
công trình này, bà còn rất nhiều bài nghiên cứu trên tạp chí nghiên cứu văn học
viết về Thâm Tâm, Xuân Diệu…trong đó đề cập nhiều đến vấn đề thời gian ẩn.
4. Trần Đình Sử (1987) Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm Mới. Trong
cuốn tiểu luận này có 2 chương về: Không gian nghệ thuật; Thời gian nghệ
thuật, tác giả trình bày từ lí luận đến thực tiễn sáng tác của các nhà văn lớn trên
thế giới và trong nước, chủ yếu là thơ Tố Hữu.
5. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, Những tìm tòi đổi
mới, NXB Khoa học xã hội và Mũi Cà Mau. Cuốn sách được chia làm 4 chương.
Trong chương 4 với tiêu đề: Người kể chuyện và các điểm nhìn, trong đó có phần
Di chuyển điểm nhìn trên trục thời gian nói về sự xáo trộn không gian và thời
gian trên cùng một sự kiện mà có nhiều điểm nhìn, cách kể lại vào những thời
điểm khác nhau.
6. Trần Đăng Suyền (1991), Thời gian và không gian trong thế giới nghệ
thuật của Nam Cao, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 05. Trong bài viết này, tác
giả nhận định “Cảm quan về thời gian và không gian gắn liền với cảm quan về
con người và cuộc đời, với mơ ước và lí tưởng của nhà văn .[30; tr.243]
7. Nguyễn Xuân Kính, (1992), Thi pháp ca dao, NXB KHXH. Trong công
trình này, tác giả nghiên cứu về thời gian trong ca dao và cho rằng thời gian
trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng….
8. A. JA Guervich, (1996), Các phạm trù văn hóa Trung cổ (Người dịch
Hoàng Ngọc Hiển), Nxb GD . Trong mục Những biểu tượng không gian – thời
gian Trung cổ, tác giả cho rằng. “Thời gian và không gian là những thông số
quyết định sự tồn tại của thế giới” [10; tr.30].
9. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau năm 1975 (khảo sát trên những nét lớn) , LA.PTSKH Ngữ văn, Đại học

3



sư phạm Hà Nội. Nhà nghiên cứu cho rằng “Văn xuôi sau 1975, không gian nghệ
thuật phổ biến là không gian sinh động đời thường, không gian mang tính chất
các nhân riêng tư” [3; tr.136]
10. Bùi Văn Tiếng (1997), Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng, NXB Văn hóa. Ở công trình này, tác giả nghiên cứu thời gian và không
gian trong những tiểu thuyết tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng.
11. Trần Đình Sử, (1998), Dẫn luận thi pháp học , NXB GD. Trong cuốn sách
này tác giả đã dành 2 chương IV và V để nói về thời gian không gian nghệ thuật.
12. Nguyễn Thái Hòa, (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB
GD. Mục đích của công trình nhằm “miêu tả những khái niệm cơ sở của thi pháp
học thể loại truyện ở góc nhìn ngôn ngữ học” [23; tr.03].
13. Đặng Anh Đào, (2001), Đổi mới nghệ thuật phương Tây hiện đại, Nxb
Đại học quốc gia, H. Trong mục VIII của cuốn sách, tác giả cho rằng : “Thời
gian là một vấn đề lưu ý đặc biệt trong nghệ thuật kể chuyện….Riêng đối với lý
luận phương Tây, sự quan tâm đặc biệt lại nghiên hẳn về trục thời gian hơn
không gian.” [8; tr.85]
14. Đào Duy Hiệp, (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb GD.
Trong công trình này, tác giả đã vận dụng một số lí thuyết phê bình hiện đại để
tiếp cận sáng tác văn học từ các cấp độ thời gian. Tác giả đã ứng dụng lí thuyết
vào phân tích một số sáng tác của Cervantes, Maupassant, Proust….
15. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008), Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ lí
thuyết thời gian tự sự của G. Genette, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học
sư phạm Hà Nội. Trong công trình này tác giả đã xác định được mô hình thời
gian tự sự trong từng loại tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng theo lí thuyết của Genette.
16. Phạm Hồng Lan, (2009), không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết hiện thực 1930 – 1945, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội. Trong
công trình nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu không gian và thời gian trong tiểu
thuyết hiện thực.
17. Trần Văn Toàn, (2010), Tả thực với hoạt động hiện đại hóa văn xuôi hư
cấu (fiction) giao thời, (khỏa sát trên chất iệu văn học công khai), Luận án tiến sĩ

Ngữ văn ĐHSP Hà Nội. Trong công trình này, ở chương II tác giả đưa ra mô
hình không – thời gian trong văn xuôi hư cấu giao thời và vấn đề tả thực.
Các nhà nghiên cứu trên đã đề cập tới những luận điểm quan trọng như:
Khái niệm không gian, thời gian; thời gian trần thuật, nhịp điệu thời gian….Tất

4


cả những nhận định của họ đều rất xác đáng, đặc biệt khá thống nhất khi đưa ra
mô hình không thời gian đối với từng giai đoạn văn học. Từ những kết quả
nghiên cứu thật đáng qúy ở các công trình trên, chúng tôi kế thừa và phát huy từ
những công trình trên để đi sâu nghiên cứu một cách tương đối toàn diện hơn vấn
đề “Thời gian, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của
Hữu Phương”.
2.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của Hữu Phương
Tiểu thuyết “Chân trời mùa hạ” là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Hữu
Phương viết về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng, do NXB Hội Nhà văn
ấn hành năm 2007 và đã được tái bản. Bối cảnh tiểu thuyết là một làng quê đất
lửa Quảng Bình trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tác phẩm
đã được Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết năm 2007 - 2009 của Hội Nhà văn Việt
Nam. Tuy nhiên cho đến nay các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của ông
vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với đóng góp của nhà văn ở thể loại này. Xem
xét tình hình nghiên cứu về cuốn tiểu thuyết Chân trời mùa hạ tôi đã thu thập
được những ý kiến, nhận xét đánh giá của một số nhà phê bình, nhà văn cũng
như giáo viên nghiên cứu đã đề cập đến một số khía cạnh đơn lẽ.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Nga với bài viết “Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết
Chân trời mùa hạ” Tạp chí khoa học công nghệ, Trường Đại học Quảng Bình đã
nhận định rằng “Một trong những điểm mấu chốt hàng đầu và cũng chính là thách
thức lớn của nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật là phải lựa chọn một chỗ đứng, một
điểm nhìn thích hợp để kể câu chuyện. Vận dụng lý thuyết tự sự điểm nhìn nghệ

thuật soi chiếu vào tiểu thuyết Chân trời mùa hạ để chứng minh cho một phương
thức trần thuật đa điểm nhìn của nhà văn Hữu Phương” [23; tr.1]
Nhà thơ Đặng Hiển Trong bài “Con người trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ
của nhà văn Hữu Phương” ông nhận định ở đây là “những con người Quảng Bình
rất anh hùng vừa sản xuất vừa chiến đấu vừa chi viện cho tiền tuyến lớn miền
Nam” [15; tr.1].
Nhà văn Tô Đức Chiêu trong bài “Gái quê qua tiểu thuyết Chân trời mùa
hạ” đã nhận định rằng “Đó là những cô gái có tâm hồn đôn hậu chất phát, đậm
nghĩa, đậm tình. Khác hẳn với những cô gái quê trong “Bến không chồng” của

5


Dương Hướng hay những cô gái quê miền Tây Nam Bộ trong “Lục bình trôi”
của Khúc Thụy Du, gái quê của Hữu Phương dẫn ta tới một chân trời khác, một
hoàn cảnh khác, một mãnh đất dữ dội khác, anh hùng cao thượng như mọi vùng
quê Việt Nam nhưng mang bản sắc riêng không đâu có” [4; tr. 1].
Thạc sĩ Hoàng Thụy Anh với bài tham luận “Cuộc sống và con người miền
trung trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ” đã nhận định rằng “Hữu Phương
không chỉ tái hiện chân thực bước đi của lịch sử, tái hiện những năm tháng gian
khổ, đau thương của người miền Trung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà
ông còn phản ánh đời sống riêng tư của người dân, người lính Đại Hòa” [1; tr.2].
Tiến sĩ Dương Thị Ánh Tuyết với bài viết “Nghệ thuật kết hợp trong tiểu
thuyết Chân trời mùa hạ” đã nhận định “Ở góc độ trần thuật, tác giả thường sử
dụng điểm nhìn nhân vật để bổ sung cho điểm nhìn người kể chuyện ở ngôi thứ
ba. Trên phương diện nhân vật là song hành giữa con người ý thức và vô thức, lí
trí và bản năng, cá nhân và tập thể, nghĩa vụ, bổn phận và những dục vọng, khao
khát trần thế…[34; tr.1].
Thạc sĩ Võ Thị Thanh Tâm với bài viết “Chân trời mùa hạ dưới cái nhìn
phân tâm học” đã cho rằng “Chân trời mùa hạ đã cho ta sống lại một mảng hiện

thực thuở đất nước còn ngợp bóng quân thù, lửa đạn, đưa ta đến những miền xa
thẳm, bí ẩn tâm hồn con người - nơi hội tụ những bản năng gốc sẽ mãi tồn tại
trong tiến trình phát triển đi lên của loài người” [31; tr.5].
Điểm lại những bài nghiên cứu phê bình trên chúng tôi nhận thấy. Đa phần các
bài viết trên có khuynh hướng cảm nhận về một khía cạnh nào đó của cuốn tiểu
thuyết. Tất cả chỉ mới dừng lại ở những khía cạnh về nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ
trần thuật, cuộc sống và con người … chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn
diện về thi pháp nghệ thuật thời gian và không gian. Đặc biệt cho đến nay chưa có
một công trình nào nghiên cứu về thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết Chân trời mùa hạ. Kế thừa và phát triển thành quả các nhà nghiên cứu,
những người đi trước, tôi tập hợp nghiên cứu đề tài “Thời gian, không gian nghệ
thuật trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của Hữu Phương” với mong muốn tìm
hiểu kỹ hơn về tiểu thuyết Chân trời mùa hạ ở góc độ thi pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của nhà
văn Hữu Phương. Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Chân trời
mùa hạ của nhà văn Hữu Phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào: “Thời gian, không gian nghệ
thuật trong tiểu thuyết chân trời mùa hạ của Hữu Phương”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề mà đề tài đã nêu, chúng tôi vận dụng phối hợp các
phương pháp sau:
Phương pháp phân loại, thống kê: Chúng tôi tiến hành khảo sát và thống kê,
sau đó tiến hành phân loại không gian, thời gian theo đặc trưng.

Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích không gian và thời gian và lấy
dẫn chứng để minh họa, từ đó tổng hợp khái quát theo các bình diện nghiên cứu.
Phương pháp so sánh: So sánh đồng đại để làm nổi bật nét tương đồng,
khác biệt giữa không gian, thời gian trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ.
Các phương pháp chuyên ngành: Chúng tôi sử dụng lí thuyết: Thi pháp học,
tự sự học,... Để thấy được khái niệm thời gian, không gian nghệ thuật và các
chiều thời gian và không gian. Từ lý thuyết tiếp cận cùng những thao tác hỗ trợ
khác trong quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý thuyết
Từ kết quả nghiên cứu về một số phương diện của nghệ thuật trong tiểu
thuyết Chân trời mùa hạ, khóa luận đưa ra một cách tiếp cận mới về thời gian và
không gian nghệ thuật, góp phần làm nổi bật vị trí và những đóng góp của nhà
văn trong nền văn xuôi Việt Nam.

- Về mặt thực tiễn
Đề tài góp phần vào việc tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết Chân
trời mùa hạ và phong cách tiểu thuyết Hữu Phương.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của

7


luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung
Chương 2: Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ
Chương 3: Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ

8



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Vài nét về tác giả tác phẩm
1.1.1. Tác giả Hữu Phương
Hữu Phương tên thật là Nguyễn Hữu Thê, sinh ngày 26 -12-1949, quê Đại
Trạch - Bố Trạch – Quảng Bình. Miền quê ấy là một trong cái rốn bom đạn ác
liệt trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ ở Quảng Bình. Nó đã chảy
vào trong nhiều tác phẩm viết về chiến tranh của nhà văn Hữu Phương. Hiện nay
Hữu Phương sống ở phường Nam Lý – Thành phố Đồng Hới – Quảng Bình
Giáo viên dạy toán cấp 3 phổ thông (tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh năm
1972), hồn thơ từ những ngày làm giáo viên dạy toán ấy đã nâng cánh, mấy năm
sau, Hữu Phương chuyển sang viết văn và trở thành nhà văn Hữu Phương đĩnh
đạc. Sau một năm giảng dạy ở Trường phổ thông cấp 3 Bắc Quảng Trạch, Hữu
Phương được tổ chức chuyển vào giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Quảng
Bình. Khi 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sát nhập thành tỉnh Bình Trị
Thiên, trung tâm Trường Cao đẳng sư phạm Bình Trị Thiên đóng ở Cố đô nên anh
phải vào Huế. Tại đây, là hội viên Hội văn học tỉnh Bình Trị Thiên thuộc ban thơ,
nhưng Hữu Phương lại bắt đầu viết văn. Truyện ngắn đầu tiên là truyện “Trăng
sáng vườn dưa” được đăng ở Tạp chí văn nghệ Sông Hương trong năm 1988.
Hữu Phương viết truyện ngắn “Ông Điện Biên”, được đăng ở Tạp chí Văn
nghệ Quân đội. Được mọi người khích lệ, anh viết một loạt truyện ngắn nữa,
như: “Bến cũ”, “Cổ tích mùa thu”, “Con người thánh thiện”... được đăng trên báo
Văn nghệ. Một bước ngoặt mới, một chân trời sáng tạo mới đã mở ra cho anh khi
truyện ngắn “Đêm hoa quỳnh nở” của anh được giải khuyến khích cuộc thi
truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1989-1990).
Những sáng tác của Hữu Phương chiếm được cảm tình của người đọc từ ấy
cho đến bây giờ khi ở Hữu Phương có một nét độc đáo quý phái của văn xuôi là
lối kể chuyện hồn nhiên, lớp lang mạch lạc, tính cách nhân vật được xây dựng

bằng những chi tiết độc đáo và nhất là chất phồn thực nhuần nhuyễn đã thành mô
típ trong tất cả các tác phẩm của mình. Chính điều đó khiến những sáng tác văn
xuôi của Hữu Phương thành công.

9


Năm 1991, Hữu Phương dẫn sinh viên đi thực tập ở Tuyên Hóa. Hữu
Phương được nghe cán bộ địa phương kể lại cuộc chiến đấu oanh liệt, của một
phân đội thuộc Tiểu đoàn hải quân sông Gianh chống trả cả một lực lượng không
quân Mỹ, hùng hậu từ hạm đội 7 ập vào, quyết tâm tiêu diệt 5 hạm tàu hải quân
đang ẩn nấp. Những hình ảnh các đồng chí hải quân trên tàu chiến đấu ngoan
cường rồi hy sinh, bị thương đã được các nam nữ dân quân hai bên bờ sông
Gianh, đêm đó chèo đò ra các con tàu bị đắm đưa vào bờ, mai táng và cấp cứu đã
làm Hữu Phương thổn thức.
Nhân một ngày đi uống bia “khổ” ở một cơ sở sản xuất ở Huế, gặp người
chủ cơ sở ấy vốn là một cựu chiến binh từng lập nhiều chiến công ở chiến trường
Quảng Bình, Hữu Phương ồ lên sung sướng: “Truyện đây rồi !”. Khi trở về
trường, câu chuyện đời thực từ hai vế được nghe và được gặp ở trên, được liên
kết lại và anh đã hư cấu viết nên truyện ngắn:“Ba người trên sân ga” sau một
đêm tròn.
Hai tuần sau ngày Hữu Phương gửi bản thảo đi, báo Văn nghệ đã đăng
truyện ngắn này ở trang nhất. Chín năm sau, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã
chuyển tác phẩm của Hữu Phương thành kịch bản “Đời cát”. Đạo diễn Nguyễn
Thanh Vân đã dựng thành phim. Phim đã được giải “Cánh diều vàng” (2000),
“Bông sen vàng” (2001), được giải vàng tại Liên hoan phim châu Á - Thái Bình
Dương lần thứ 15, giải thưởng lớn của Hội đồng nhà thơ thế giới.
Những thành công về văn chương, năm 1993, Hữu Phương từ ngành Giáo
dục chuyển về công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, với chức phó
chủ tịch hội. Năm năm sau, anh được Đại hội bầu làm chủ tịch hội và được kết

nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam (1996). Hai nhiệm kỳ làm Chủ tịch Hội, vừa làm
công tác lãnh đạo, vừa viết văn, tiểu thuyết “Chân trời mùa hạ” của Hữu
Phương được viết 5 năm liền trong hoàn cảnh ấy.
Đầu năm 2010 nhà văn Hữu Phương chính thức nghỉ hưu. Và, một cuộc
chạy tiếp sức lại bắt đầu. Ngoài 5 tập truyện ngắn và tiểu thuyết đã xuất bản
trước đó, năm 2010 Hữu Phương đã cho ra đời cuốn “Văn hóa dân gian vùng
sông Dinh”, gồm những bài viết về văn hóa trên quê hương của ông. Cũng trong
năm đó, tập truyện “Anh bộ đội và cô gái mặc quân phục xanh” do NXB QĐND

10


ấn hành đã gây một tiếng vang lớn. Ngoài các giải thưởng lớn, trong cuộc thi
sáng tác do Bộ Công an và Hội Nhà văn tổ chức lần thứ 2 (1989-2001), truyện
ngắn “Hoa sim tím” của ông đoạt giải “Cây bút vàng”.
Năm 2010, với bút ký “Cha Lo mùa mưa đến sớm”, ông lại được trao giải
cuộc thi viết về đề tài bộ đội biên phòng do Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và
Hội nhà văn kết hợp tổ chức. Hữu Phương còn là tác giả đoạt 3 giải A,1 giải B,
giải thưởng “Lưu Trọng Lư” (Giải thưởng 5 năm 1 lần của Hội văn học nghệ
thuật Quảng Bình) trao cho những tác phẩm sáng tác xứng đáng của anh. Là
người từng gắn bó nhiều năm ở Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình, vừa qua,
ông đã chấp bút và hoàn thành cuốn “Lịch sử Hội Văn học Nghệ thuật Quảng
Bình” dày trên 400 trang.
* Tác phẩm chính
- Con người thánh thiện (Hội VHNT Quảng Bình xuất bản 1991)
- Đêm hoa quỳnh nở (Nhà xuất bản Thanh niên 1995)
- Hoa cúc dại (Nhà xuất bản văn học 1997)
- Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ (Nhà xuất bản hội nhà văn 2006)
1.1.2. Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ
Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ có bố cục dài trong 8 chương sách. Nội dung

của tiểu thuyết trọng tâm đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở
trong thời kỳ vô cùng cam go ác liệt của toàn dân tộc Việt Nam. Chân trời mùa
hạ như một cuốn phim đưa chúng ta quay về với quá khứ với những địa danh,
những trận đánh hào hùng trên mảnh đất Quảng Bình yêu thương. Những vấn đề
về con người cách suy nghĩ của ông cha ta ngày trước, với những tình cảm nhiều
lớp đan xen, nhiều tuyến nhân vật chính diện, phản diện. Những mưu mô đố kị,
nhưng vượt lên trên hết là số của những con người, họ đã sống hết mình với thời
đại, vượt lên những khó khăn trong phận cuộc sống với hoàn cảnh khắc nghiệt
của chiến tranh.
Truyện lấy bối cảnh tại một địa phương thuộc huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình
làng Đại Hòa nơi có bốn thanh niên cùng lớn lên và trưởng thành là Thiện, Sơn, Cẩm
và Loan. Họ đã sống với thời tuổi trẻ hừng hực khí thế tiến công của toàn dân tộc,
trong giai đoạn từ năm 1968 đến sau hòa bình lập lại năm 1975. Nơi họ sống là hậu
phương lớn cho một tiền tuyến đầy khói lửa, cũng là một mặt trận nguy hiểm.

11


Tác phẩm cho thấy một số trang có chất thơ tả cảnh vật làng Đại Hòa và
tấm lòng gắn bó với mảnh đất quê hương của mình. Người dân ở đây trong hoàn
cảnh chiến tranh ác liệt vẫn sống anh dũng, bất khuất. Họ vẫn có cuộc đời riêng,
những nhu cầu riêng, tình cảm riêng bình thường của con người như: Tình yêu,
tình bạn, tình gia đình, hàng xóm, họ vẫn có đủ cả tính tốt lẫn tính xấu, những cái
cao quý và cả những cái bình thường của con người. Trong một con người bình
thường thì cái tốt nhiều hơn cái xấu nhưng không phải không có ngược lại, ví dụ
ông Vạc, một ông nông dân có thói tư lợi, gian dối, ông cày dối rồi lấy rơm rạ, cỏ
lấp đi, ông có tính ăn cắp vặt, thậm chí giết trộm bò của hợp tác xã rồi giấu thịt
xuống giếng. Hòa (vợ Thiện) xa chồng mấy năm đã dễ dàng rơi vào vòng tay của
Sơn. Khi có thai lại tìm cách đổ vấy cho bố chồng, khi đi đẻ, đã khai tên bố đứa
bé là Sơn, nhưng sau, bị cật vấn đã phản cung, vẫn đổ tội cho bố chồng vì hi

vọng bảo vệ Sơn thì sau này y sẽ cưới mình làm vợ. Đặc biệt Sơn là một kẻ cá
nhân cực đoan, cơ hội, xảo quyệt. Anh ta phạm nhiều thứ tội chỉ trừ phản quốc.
Nhưng với nhân cách ấy thì trước sau anh ta cũng là một kẻ phản bội. Đầu tiên
anh ta đố kỵ với bạn (Thiện) đến mức phá tình yêu của bạn (theo kiểu không ăn
thì đạp đổ). Cho nên biết Cẩm ra thăm mộ Phong vừa hi sinh, hắn đã mách cho
Thiện đến “chứng kiến” để chia rẽ tình yêu và hôn nhân của hai người bạn học.
Sơn là một người đồi bại, một gã Sở Khanh, một con yêu râu xanh. Hắn trùm mặt
nạ ra chỗ vắng định cưỡng bức người yêu của bạn, người mà anh ta thầm yêu,
nhưng không được đáp lại. Ở nhà dân chỉ mấy tháng, hắn đã tán tỉnh cô con gái
lớn của bà chủ và ngủ với cô ta mà không hề nghĩ đến hậu quả sau này. Nhưng
khi ra tiền phương biết binh trạm trưởng chính là bố cô ta thì hắn đưa thư, tự giới
thiệu mình và được binh trạm trưởng coi như con rể tương lai. Khi trạm trưởng bị
thương, hắn đã lấy cắp giấy chứng thương rồi bắt tình với cô y sĩ để cô ghi chấn
thương giả và lấy cho cái dấu để y được xuất ngũ với tiêu chuẩn thương binh.
Khi xuất ngũ về làng, thấy vợ bạn trẻ đẹp, anh ta tán tỉnh và ngủ với cô ta. Khi cô
có thai hắn sợ ảnh hưởng đến đường tiến thân nên khuyên cô ta phá thai. Khi
không phá thai được, cô đã đổ vấy cho bố chồng vì trước đó Sơn lừa cô, hứa sau
này hết chiến tranh sẽ cưới cô và nhận đứa bé là con. Cũng vì lí do đó, sinh con
về, cô đã phản cung. Còn Sơn thì cứ lờ đi. Khi bị chị Loan, Phó bí thư chi bộ cật

12


vấn, hắn chối bay và được vô can vì không có chứng cứ. Ngay cả chiếc mặt nạ
làm bằng ống quần hắn để quên ở nhà, có người bắt được, hắn củng chối bay,
bảo rằng đó có thể là chiếc mũ chống muỗi của ai đó. Thế là hắn lên chức Bí thư
Đảng ủy và đã trả thù chị Loan, người tố cáo bằng cách cách chức Phó Bí thư chi
bộ của chị và điều về coi kho. Những con người tốt trong tác phẩm cũng có
những chỗ yếu, những phút yếu vì họ là con người. Như ông Duẩn, một thầy giáo
tiểu học mô phạm, vì tình thương con mà đã rơi vào bẫy của cô con dâu hư. Hay

như chị Loan, lấy người chồng mà mình không yêu, được 7 ngày thì chồng đi bộ
đội, chị khao khát tình yêu, khao khát đàn ông, nhưng chị vẫn nén lòng, cự tuyệt
tay xã đội trưởng đẹp trai…Nhưng đến sau chiến tranh, khi gặp lại Thiện một
chàng trai làng quen thân kém chị mấy tuổi thường vẫn coi nhau như chị em, chị
đã cùng Thiện uống rượu, rồi trong cơn say của cả hai người, đã chủ động ân ái
với anh. Những người tốt trong tác phẩm không căng cứng mà rất chân thật. Ông
Niệm, Bí thư Đảng ủy, rất nghiêm túc trong công việc nhưng cũng đa cảm trong
tình riêng. Ngày xưa ông yêu bà Thảo, nhưng khi bà đã có con với ông Thảo, còn
ông thì góa bụa, ông vẫn thầm yêu bà, đến khi ông Thảo hi sinh, mặc dù đang là
Bí thư Đảng ủy, chỉ hơn một năm sau, ông đã tỏ tình với bà. Có kẻ dọa sẽ làm
ông mất chức Bí thư vì quan hệ yêu đương ấy, ông nói chức Bí thư Đảng ủy chỉ
là “chuyện vặt”. Không phải ông không coi trọng chức vụ Đảng giao mà ông
nghĩ dù làm chức vụ gì cũng chỉ là trách nhiệm phục vụ dân thôi. Nhân vật tích
cực trong truyện như Phong, Cẩm, Thiện… Phong là một thanh niên có học, đã
đi học công binh 4 năm ở Liên Xô, khi về tuyến lửa đã dũng cảm phá bom nổ
chậm và hi sinh. Anh yêu Cẩm và đã để lại một lá thư tỏ tình với Cẩm. Cẩm là
một cô nữ sinh đã tốt nghiệp phổ thông, được tuyển chọn đi học Đại học nhưng
đã ở nhà lao động và phục vụ chiến đấu. Mặc dù yêu Thiện nhưng cô vẫn có cảm
tình với Phong, chiến sĩ phá bom. Khi anh hi sinh, cô đã xót thương anh đến mức
hứa hôn với linh hồn anh. Không may, do âm mưu của Sơn, Thiện đã nghe thấy
lời cô nói với hương hồn Phong trước mồ, anh tự ái và từ hôn, cô rất đau khổ
nhưng cô còn xót thương Phong nhiều hơn nên đã tự nguyện đến nhà mẹ Phong
để chăm sóc mẹ thay cho đứa con duy nhất đã hi sinh, cho đến ngày mẹ mất.
Tình cờ nhà mẹ Phong lại chính là nhà Thiện ở trong thời gian đóng quân. Mẹ

13


Phong rất yêu quý cô và chính vì yêu quý, mẹ muốn tác thành cho cô với Thiện.
Mẹ bắt hai người ngủ chung hầm nhưng khi mẹ đã ngủ, Cẩm lại sang hầm mẹ và

giữa Thiện Cẩm trước sau vẫn không có chuyện gì… Khi về thăm quê, cô đã có
ý tránh gặp Thiện, phần vì tình cảm trong lòng không thúc giục cô, phần vì cô
hiểu Thiện cũng đang có tâm trạng nên để Thiện dịu lòng với những tình cảm
mới. Thiện cũng như Cẩm, Thiện là học sinh tốt nghiệp cấp 3 được chuyển đi
học Đại học nhưng ở nhà để sản xuất, chiến đấu. Khi nghe lời Cẩm hứa hôn với
linh hồn Phong trước mộ, vì lòng tự trọng, anh đã từ hôn với Cẩm và để chiều
lòng bố, anh đã cưới vội cô Hòa, một cô gái trẻ đẹp nhưng anh chưa hiểu gì. Mặc
dù không có tình yêu thật sự với vợ, anh đã cầm lòng khi gặp lại Cẩm ở nhà mẹ
Phong, anh đã giữ mình để không xúc phạm đến tình cảm với vợ và phẩm chất
con người và cũng là giữ cho Cẩm. Trong những ngày hoạt động, trong vùng
địch hậu phương Bình Trị Thiên, anh đã kiên trì làm tốt công tác cơ sở, vượt qua
nhiều nguy hiểm, khó khăn. Khi bị thương, phục viên, anh đã về tham gia sản
xuất ở quê hương. Khi biết Hòa có con với ai đó, anh đã định tha thứ. Khi nghe
tin đồn về quan hệ của Hòa với bố, anh không tin. Trước sự tráo trở của Sơn và
sự độ lượng của Thiện, Hòa đã tự thú tất cả. Cuối cùng, Thiện và Sơn đã thanh
toán với nhau bằng một trận tay bo “quyết đấu”. Những hận thù đã giúp Thiện có
thêm sưc mạnh, buộc Sơn phải bỏ chạy và không may gặp tai nạn. Khi đó, anh
lại ân hận, và một lần nữa ta lại chứng kiến lòng nhân hậu, độ lượng của anh.
1.1.3. Ý nghĩa của tiểu thuyết Chân trời mùa hạ
Đọc tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của Hữu Phương, giúp chúng ta hiểu về
Quảng Bình, về cuộc sống của nhân dân Quảng Bình trong thời kỳ chiến tranh
ác liệt. Đặc biệt người dân Quảng Bình, là người Việt Nam cũng là con người
nhân loại trong hoàn cảnh và điều kiện cụ thể đó. Ăn thì không đủ no nhưng
vẫn "Thóc không thiếu 1 cân, quân không thiếu 1 người”. Có vụ nào thất bát thì
xin nợ lại, bù trả ở vụ sau chứ không xin miễn giảm. Học trò tốt nghiệp phổ
thông, 1 số đi đại học để chuẩn bị cho tương lai, 1 số được đi đại học nhưng đã
xin ở lại để sản xuất, phục vụ chiến đấu ở quê hương, và chờ đợi đi bộ đội, để
vào Nam chiến đấu…

14



Đọc Chân trời mùa hạ, đã giúp chúng ta cái nội lực sống gân guốc, vạm vỡ
của người Quảng Bình trong cuộc chiến. Họ như những cây xương rồng cứ nở
hoa trên cát bỏng, như những vườn chè Đại Hòa cứ sinh sôi, xanh tốt giữa trời
đại hạn. Đó là một ông giáo Duẩn về hưu đức độ, mực thước với mái tóc sớm
muối tiêu, khuôn mặt khắc khổ, sống cuộc sống tằn tiện, căn cơ, cùi cụi một
mình, vò võ dõi theo đứa con độc nhất, niềm hy vọng và nơi tựa đỡ cuối cùng
của đời ông. Đó là một bà Mày với bàn tay gân guốc, đôi tay khô gầy như nhánh
củi, khuôn mặt răn reo rám nắng. Thượng đế cướp trắng nhan sắc và hạnh phúc
của bà, bù lại cho bà một sức khỏe và phẩm hạnh ít ai bằng. Tuồng như trời sinh
ra bà để cứu giúp người khác, vì người khác. Đó là bác Niệm, bí thư đảng ủy xã,
dũng cảm và gan lỳ, lấy sinh mệnh của cánh đồng Đại Hòa làm lẽ sống, “với
chiếc xắc cốt bằng vải bạt vỗ vỗ bên hông”, luôn đau đáu vì đời sống của hàng
ngàn hộ xã viên, và quan trọng hơn là lương thực đóng góp cho mặt trận. Đó là
thằng Tiệng với thân hình đen nhẻm, gầy guộc và mái tóc vàng hoe vì nắng gió,
mới mười lăm tuổi đã nằng nặc đòi đi bộ đội, mừng húm, sướng nhảy cỡng lên
khi sở nguyện được chấp nhận. Rồi nó dần thành liên lạc xã. Đêm hôm tối tăm,
hay giữa lúc bom rơi đạn nổ, có công việc là nó lao đi. Đó là Thiện, là Cẩm,
những thanh niên đã không chọn con đường vào đại học, vào chốn yên hàn, xa
lánh được hòn tên mũi đạn, hứa hẹn tương lai tươi sáng mà đã tình nguyện ở lại
vùng đất ác liệt nơi cửa ngõ mặt trận này. Đó là chị Loan, là Phong, là Kiên, là
Thuận, là Xuyến, là Phượng, là những chàng trai cô gái có tên và không tên đã tận
hiến tuổi trẻ của mình cho công cuộc chiến đấu và lao động sản xuất nơi mảnh đất
này. Những cặp môi thanh tân của họ cứ khát cháy nụ hôn. Mặc cuộc chiến tàn
khốc, mặc lam lũ đời thường, bất chấp thời gian nắng chan bom dội, những mối tình
thanh khiết cứ đằm thắm trung trinh (mối tình giữa bác Niệm và bà Thiệp, mối tình
giữa Thiện và Cẩm…). Những con người xứ sở này mang một vẻ đẹp khỏe khoắn
và rực rỡ, một vẻ đẹp vừa mang chất phồn thực của người nông dân chất phác, vừa
cao khiết của thánh thần. Chính những tấm lòng nông dân thơm thảo và thuần hậu

của những con người dũng cảm và mưu trí, bao dung và độ lượng, cô đơn và mất
mát, run rẩy trắc ẩn đa mang, tràn ngập tình cảm làng quê lối xóm, đau đáu với đồng
đất quê hương, đã làm nên kì tích trong cuộc chiến tàn khốc này.

15


Chiến thắng của một Việt Nam đất không rộng, người không đông trước
một kẻ địch hùng mạnh với vũ khí hiện đại bậc nhất thế giới đến từ bên kia đại
dương là đế quốc Mỹ, đến bây giờ vẫn là một niềm kinh ngạc đối với cả thế giới.
Cái linh khí, hồn thiêng núi sông xứ sở, cái huyền bí của đất và người Việt Nam
là nguồn sức mạnh vô hình vô song đã góp phần đắc lực làm nên chiến thắng.
Cái luận đề này một lần nữa được Hữu Phương khẳng định trong Chân trời mùa
hạ. Cuốn tiểu thuyết đã đưa người đọc thám hiểm không gian đất và người
Quảng Bình trong cuộc sống chiến tranh để cảm nhận cái thần diệu của dải đất
này và của những con người xứ sở này, cái dải đất và những con người mà địch
không thể nào hiểu nổi.
Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ đã làm sống lại một thời đoạn của dân tộc, tái
hiện những bi kịch nhân gian, thấy được cái giá phải trả của dân tộc để có ngày
hôm nay, nhất là với vùng đất Quảng Bình - Quảng Trị, là một vùng đất mà
chúng ta còn ở đó một món nợ rất lớn khi chiến tranh đi qua, thì điều ấy lại càng
đáng quý. Những nhân vật trong Chân trời mùa hạ thản nhiên đi vào bi kịch, đón
nhận bi kịch, thản nhiên đón nhận cuộc chiến tranh, như sự hồn nhiên của những
người nông dân chân chất, đó là tâm thế của một thế hệ, cái cách mà những
người dân miền Trung đi qua cuộc chiến. Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ được
viết trong bối cảnh của những năm đầu tiên miền Bắc có hòa bình, một nửa đất
nước đang nô nức xây dựng một nông thôn mới với mô hình Hợp tác xã nông
nghiệp. Đây là cuốn tiểu thuyết tâm huyết ghi dấu một thời trai trẻ của Hữu
Phương tại nơi ông sinh ra, lớn lên và sống suốt thời tuổi trẻ.
Đọc Chân trời mùa hạ, các em sẽ thấm nhuần được công lao của biết bao

thế hệ những người đã ngã xuống vì nền hoà bình của đất nước, nhất là những
người con đất Quảng, một thế hệ sinh ra trong chiến tranh, lớn lên cùng bom đạn
ở dải đất miền Trung. Chiến tranh tại Việt Nam đã kết thúc gần 40 năm nhưng
vẫn còn đó những câu hỏi về lẽ sống, về tình yêu, về nhân cách con người.
1.2. Về thời gian nghệ thuật
1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc
Phi, Nhà xuất bản giáo dục, năm 2009) đã đưa ra một khái niệm “Thời gian nghệ

16


thuật cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái
được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian
trần thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một
hiện tượng ước lệ chỉ có trong thời gian nghệ thuật”.[13; tr.64].
Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian
nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa
xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái
chốc lát thành vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác
nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: Sự sống,
cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm.
Như vậy, thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ
thuật. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi
nhanh, khi nào dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian chậm lại. Vì thế “thời gian
nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật
với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời
gian và hiện tại, quá khứ hay tương lai ” [29; tr.61]. Như vậy thời gian nghệ
thuật có thể mang tính liên tục, cái này xảy ra sau cái kia theo một trình tự nhưng

cũng có thể đảo ngược sự liên tục của nó. Bởi thế thời gian nghệ thuật có thể đảo
ngược quay về quá khứ. Người nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có
thể là nhanh hay chậm, có thể kể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn độ dài một
khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời. Thời gian thể hiện ý thức sáng tạo
chủ động, tự do mang đậm dấu ấn của tác giả.
Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế giới.
Có thời gian nghệ thuật không tách rời với chuỗi biến cố cốt truyện như cổ tích,
có thời gian nghệ thuật xây dựng trên dòng tâm trạng và ý thức như tiểu thuyết,
có tác phẩm dừng lại chủ yếu ở quá khứ khép kín trong tương lai, có thời gian
nghệ thuật “trôi” theo các diễn biến sinh hoạt, có thời gian gắn với vận động của
thời đại, lịch sử, lại có thời gian nghệ thuật có tính “vĩnh viễn”, đứng ngoài thời
gian, như thần thoại. Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con
người, trong từng thời kì lịch sử, từng giai đoạn phát triển, nó cũng thể hiện sự

17


cảm thụ độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của con người trong thời
gian. Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy
chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy
đặc điểm tư duy của tác giả. Gắn với phương thức, phương tiện thể hiện, mỗi thể
loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng.
Theo giáo trình thi pháp học của Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật là
một hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật. Nó được
dùng làm phương tiện nghệ thuật để phản ánh đời sống” [27; tr. 25].
Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác
phẩm nghệ thuật với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời
gian là hiện tại, quá khứ hay tương lai. Người nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu,
điểm kết thúc, có thể chọn điểm nhìn từ quá khứ, hiện tại hay tương lại, có thể
chọn độ dài trong một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời.

Likhachốp thì lại quan niệm: “Thời gian nghệ thuật là nhân tố nằm trong
mạng lưới nghệ thuật của tác phẩm văn học. Nó buộc thời gian cú pháp và quan
niệm triết học về thời gian phải phục vụ cho những nhiệm vụ nghệ thuật của nó”
[21; tr.61].
Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như Phương cho rằng: “Thời gian nghệ thuật
là một phạm trù thuộc về thi pháp tác phẩm. Đây là một hình thức hiện hữu vừa là
một hình thức tư duy của con người được diễn đạt bằng ngôn từ trong quá trình
miêu tả, tính cách, hoàn cảnh, con đường đời của nhân vật” [14; tr.180 – 181].
Tóm lại gần như mỗi tác giả đều có một quan niệm khác nhau về thời gian
nghệ thuật nhưng đều thừa nhận rằng: Thời gian nghệ thuật là thời gian của thế
giới nghệ thuật, tồn tại trong thế giới nghệ thuật, là thước đo cho sự tồn tại của
thế giới nghệ thuật. Có thể nói thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm
nhận thời gian của con người. Phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong
từng thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển, thể hiện sự cảm thụ độc đáo của
tác giả về phương thức tồn tại của con người trong tác phẩm.
1.2.2. Các chiều của thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật rất đa dạng. Nó là một thuộc tính tất yếu của hình tượng
nghệ thuật. Các nhà văn khi sáng tạo nên công trình nghệ thuật thường sử dụng yếu

18


tố thời gian nghệ thuật như một phương tiện cần thiết để tái hiện đời sống con
người. Khi nghiên cứu thời gian nghệ thuật, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một số
cách phân loại.
Thời gian thực tế chỉ vận động theo một chiều duy nhất. Nhưng trong tác
phẩm nghệ thuật, quan niệm về thời gian phức tạp, phong phú hơn. Nó gồm
nhiều chiều, hướng, thời khác nhau: Qúa khứ, hiện tại, tương lai [27; tr.28].
* Qúa khứ: Có nhiều cách để thể hiện quá khứ, nhưng phổ biến nhất là hồi
tưởng. Hồi tưởng được trình bày qua nhiều hình thức. Thời gian hồi tưởng chỉ

xuất hiện khi mà ý thức bên trong xuất hiện. Từ chủ nghĩa tình cảm, đặc biệt là từ
chủ nghĩa hiện thực phên phán trở đi, thời gian hồi tưởng mói phát triển mạnh.
* Hiện tại: Hiện tại là khái niệm thời gian có nhiều cách biểu hiện nhất.
Nó được thể hiện rõ dưới hình thức miêu tả, đối thoại, chuyển đổi quan hệ thời
gian.… Là thời gian hiện thực hằng ngày của con người trong cuộc sống lao
động, sản xuất.
* Tương lai: Tương lai gắn liền với viễn cảnh, phương hướng phát triển của
đời sống, của nhân vật. Tương lai được thể hiện bằng nhiều cách. Có khi nó được
thể hiện bằng ước ao, bằng viễn tưởng, bằng dự cảm về tương lai (như trong “Con
người biết mùi hun khói”, “Giấc ngủ mười năm” của Nguyễn Ái Quốc).
Có khi tác giả dùng giấc mơ để đến tương lai. Người đàn bà có thai cũng là
một cách báo hiệu tương lai. Trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ cái thai của
Loan cũng báo hiệu một phần nào đó tương lai của Loan sau này.
Từ quan niệm trên ta nhận thấy rằng khi nghiên cứu tiếp cận với thế giới
nghệ thuật cần phải tìm từng yếu tố thời gian và mối tương quan thời gian trong
đó để phát hiện từng tầng ý nghĩa ngầm trong tác phẩm.
Tác phẩm nghệ thuật là một chỉnh thể xác định. Cùng với các yếu tố khác,
thời gian góp phần làm nên hình thức tồn tại thế giới nghệ thuật. Bởi vậy nghiên
cứu thời gian nghệ thuật có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Chân trời mùa hạ của
Hữu Phương chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết này được thể
hiện trên ba bình diện: Thời gian quá khứ (hồi tưởng), thời gian hiện tại, thời
gian tươn

19


1.3. Về không gian nghệ thuật
1.3.1. Khái niệm
Cùng với thời gian, không gian cũng là một phạm trù của triết học, là hình

thức tồn tại của thế giới hiện thực. Không có gì tồn tại ngoài không gian và thời
gian. Chỉ trong không gian và thời gian thì sự vật mới có tính xác định. Nhưng
không gian trong văn chương lại có những đặc điểm khác không gian thực tế.
Bởi văn chương không chỉ là nghệ thuật thời gian mà nó còn là nghệ thuật không
gian, một nghệ thuật không gian đặc thù. Tính đặc thù này cũng do chất liệu xây
dựng hình tượng là ngôn từ quy định. Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ
về không gian, có giá trị tình cảm nên nó mang tính chủ quan của người sáng tác.
Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái
quát, tôi xin được dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn từ điển thuật ngữ văn
học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật
thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định qua đó thế
giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: Cái này bên
cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo
thành viễn cảnh nghệ thuật” [13, tr.160].
Trong cuốn “văn học” cũng chỉ ra rằng: “Không gian nghệ thuật là phạm
trù của hình hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế
giới nghệ thuật” [35, tr.92].
Như vậy không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế
giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời
sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Ngôn ngữ của không gian nghệ
thuật rất đa đạng và phong phú. Các cặp phạm trù cao - thấp, xa - gần, ngay lệch…đều được dùng để biểu hiện phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội.
Từ những cách hiểu khác nhau của nhiều tác giả, ta có thể rút ra một cách
hiểu chung: Không gian nghệ thuật là hình tượng không gian được các nhà văn,
nhà thơ sáng tạo trong tác phẩm văn chương, sự tồn tại của không gian nghệ
thuật gắn liền vói những cảm thụ riêng về không gian của chính tác giả sáng tạo
ra nó.

20



×