Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







ĐÀO THỊ CÚC



KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
THỜI KÌ ĐỔI MỚI


Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÝ HOÀI THU








HÀ NỘI 2010

1

MỤC LỤC
Nội dung Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. 8
3.1. Đối tượng nghiên cứu. 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu. 9
4. Phương pháp nghiên cứu. 9
5. Cấu trúc luận văn. 9
CHƯƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG BỐI CẢNH CHUNG
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 10
1.1 Khái lược chung về tiểu thuyết 10
1.1.1 Khái niệm tiểu thuyết 10
1.1.2 Đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết 11
1.2. Bức tranh toàn cảnh về tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 15
1.2.1 Từ sự đổi mới tư duy nghệ thuật… 16
1.2.2 …Đến quá trình đổi mới hình thức nghệ thuật 19
1.3. Hành trình sáng tác và những đóng góp của Lê Lựu 24
CHƯƠNG 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU THỜI KÌ ĐỔI MỚI
321
2.1 Giới thuyết về không gian nghệ thuật32

31
2.2 Các dạng thức, mô hình không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê
Lựu 33
2.2.1 Không gian bối cảnh xã hội 33

2
2.2.1.1 Không gian nông thôn nghèo khổ, lam lũ, tăm tối 33
2.2.1.2 Không gian phố phường chật hẹp, bức bối, ngột ngạt 42
2.2.2 Không gian tâm tưởng 51
2. 3 Cách thức biểu hiện không gian nghệ thuật.
598
2.3.1 Tổ chức không gian theo nguyên tắc tương phản 58
2.3.2 Sự luân chuyển không gian 61
CHƯƠNG 3: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ
LỰU THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
665
3.1 Giới thuyết về thời gian nghệ thuật
665
3.2 Các dạng thức biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê
Lựu 68
3.2.1 Thời gian lịch sử - sự kiện 68
3.2.2 Thời gian đêm 73
3.2.3 Thời gian tâm tưởng đa tuyến 78
3.3 Cách thức biểu hiện thời gian nghệ thuật
832
3.3.1 Tổ chức thời gian theo phương thức đảo ngược 82
3.3.2 Tổ chức thời gian theo phương thức tương phản 83
3.3.3 Kết hợp thủ pháp "đón trước" và "ngoái lại" 86
3.3.4 Tổ chức thời gian trong sự kết hợp với không gian nghệ thuật 90
PHẦN KẾT LUẬN 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
1.1. Nếu sự kiện cách mạng tháng Tám năm 1945 được coi là “cuộc tái
sinh màu nhiệm” của dân tộc Việt Nam thì mốc lịch sử 1986 có thể được coi
là sự đổi thay kì diệu của hiện thực đời sống chính trị, xã hội và văn hóa. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã “cởi trói” những quan niệm nghệ thuật
không còn phù hợp với thời đại, để tài năng nghệ sĩ được tự do tung cánh. Sự
đổi mới ấy đã đem đến cho Văn nghệ một luồng sinh khí mới. Đã không ít
cây bút mới xuất hiện với những cảm hứng và quan niệm nghệ thuật mới ra
đời như: Lê Lựu với Thời xa vắng, Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong
vườn, Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chu Lai với
Ăn mày dĩ vãng, Dương Hướng với Bến không chồng, Bảo Ninh với Thân
phận của tình yêu …Các nhà văn đã lựa chọn thể loại tiểu thuyết làm phương
tiện phản ánh hiện thực cuộc sống và bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình.
Bởi thể loại này chiếm vị trí hết sức quan trọng trong các loại hình văn xuôi
nghệ thuật, là hành trang chủ yếu của các cây bút văn xuôi, là dấu hiệu trưởng
thành của một nền văn học. Tiểu thuyết được coi là “máy cái” của văn học.
1.2. Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt
Nam thời kì đổi mới (1986). Tính đến nay ông đã góp vào nền văn học nước
nhà hàng chục tác phẩm có giá trị (gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết)… Ông
là nhà văn quân đội đã “thử bút” trên nhiều thể loại: báo chí, phóng sự, bút kí,
tiểu thuyết, truyện ngắn…Nhưng cá tính sáng tạo của Lê Lựu chủ yếu in đậm
trong thể loại tiểu thuyết. Không khí đổi mới tư duy trong sáng tạo nghệ thuật
đã hướng ngòi bút Lê Lựu đi sâu vào cảm hứng thế sự đời tư, thấm đẫm nhân
tình thế thái và thân phận cá nhân thông qua tình yêu, hôn nhân, mối quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với hoàn cảnh xã hội trong
những thăng trầm của lịch sử, những biến chuyển của thời đại.


4
Sáng tác của Lê Lựu có nhiều đóng góp mới cho tiến trình văn học đổi
mới. Nhà văn đã xác lập cho mình một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn bằng
các tác phẩm như: Mở rừng, Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy
sông, Hai nhà…trong đó có những tác phẩm đoạt giải của Hội nhà văn (Thời
xa vắng – 1986). Năm 2001, Lê Lựu là một trong số hiếm hoi những nhà văn
thế hệ chống Mĩ vinh dự được nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ
thuật với cụm tác phẩm: Người cầm súng, Mở rừng, Thời xa vắng. Lê Lựu
cũng là người có khả năng “thâm canh” tác phẩm của mình. Nhà văn đã
chuyển Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông thành kịch bản phim. Điều này minh
chứng sức sáng tạo miệt mài, đồng thời khẳng định tài năng và bản lĩnh của
người nghệ sĩ Lê Lựu.
Trong lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại, khi nói đến thành tựu của
văn học chống Mĩ và văn học thời kì đổi mới, giới nghiên cứu văn học không
thể không nhắc đến Lê Lựu và đặt ông vào vị trí xứng đáng của thế hệ nhà
văn trưởng thành trong chiến tranh chống Mĩ, là nhà văn “tiền trạm” của Văn
học Việt Nam thời kì đổi mới. Song không chỉ đi sâu khám phá về phương
diện nội dung tư tưởng, Lê Lựu còn có những đổi mới trên bình diện thi pháp
mà một trong số đó nghệ thuật kiến tạo không gian và thời gian nghệ thuật –
góp phần biểu đạt nội dung tư tưởng tác phẩm, đồng thời thể hiện những quan
niệm nghệ thuật của nhà văn. Lựa chọn đề tài: “Không gian và thời gian nghệ
thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới”, chúng tôi mong muốn tiếp
cận một bình diện nghệ thuật để từ đó góp phần làm sáng tỏ phong cách nghệ
thuật Lê Lựu đồng thời để khẳng định những đóng góp của nhà văn nhìn từ
góc độ thi pháp.
2. Lịch sử vấn đề.
Lê Lựu khởi nghiệp bằng một số truyện ngắn và phóng sự, trong đó gây
được tiếng vang lớn là tác phẩm Người về từ đồng cói (đã được chuyển thể


5
thành phim). Người đọc bị cuốn hút bởi cách diễn đạt mộc mạc, dung dị,
mang đậm hồn quê trong sáng tác của ông. Lê Lựu đồng thời cũng được giới
nghiên cứu, phê bình tiếp nhận và hi vọng. Nhà phê bình Ngô Thảo trong một
bài viết Về truyện ngắn Lê Lựu đã nhận định: “Lê Lựu là một người đang tìm
tòi. Truyện nào của anh cũng tìm được những nét tính cách mới, những
hướng khai thác vấn đề mới” [77, 227].
Bàn về truyện ngắn Người cầm súng, nhà nghiên cứu Bích Thu đã
khẳng định: “Có thể nói Người cầm súng như là cái mốc đánh dấu một chặng
đi mới của Lê Lựu trên con đường vào nghề, nó đã khơi mở được nguồn mạch
sáng tác của anh” [79].
Mặc dù vậy, ở thể loại truyện ngắn, Lê Lựu cũng chưa có nhiều thành
công. Từ năm 1975, nhà văn mới tìm được sự tương hợp với thể loại tiểu
thuyết. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Lê Lựu là Mở rừng dường như chưa gây
được sự chú ý của dư luận. Điều này được lí giải bởi nhiều nguyên nhân: có
thể do không khí chiến thắng đã choán hết sự quan tâm của mọi người, hoặc
cũng có thể bởi không phải tác phẩm văn học nào từ khi mới ra đời cũng đã
được chào đón.
Mãi đến 1986, cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng “trình làng” mới thực sự
gây xôn xao trong dư luận và được đánh giá là “một cọc tiêu tiền trạm” của
công cuộc đổi mới văn học. Tác phẩm này nhanh chóng thu hút được sự chú ý
của nhiều cây bút phê bình như Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Hòa, Phong Lê,
Vương Trí Nhàn, Bích Thu, Lê Thành Nghị… Có thể nói rằng Lê Lựu đã dám
nhìn thẳng vào sự thật khắc nghiệt, những góc khuất của hiện thực cuộc sống
để “nhận thức lại thực tại”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lưu cho rằng:
“Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực quá
trình chuyển biến trong nhìn nhận, đánh giá thực tại” [53, 588]. Ông cũng
khẳng định tài năng của Lê Lựu: “Phải là người nông dân nghèo khổ mới viết

6

được những câu văn ứa lệ như vậy, đó là những trang văn hay của văn xuôi
Việt Nam”[53, 591].
Nhà thơ Trần Đăng Khoa - người đồng hương và cũng là người vô
cùng quý mến Lê Lựu đã có những nhận xét xác đáng về cuốn tiểu thuyết
này: “Lê Lựu đã dựng lên một loạt bức tranh nông thôn đặc sắc. Có nhiều
trang đạt chuẩn Nam Cao. Có thể nói tắt từ Nam Cao qua một chút Kim Lân
đến Nguyễn Khắc Trường và Lê Lựu, chúng ta mới lại có nhà văn nông thôn
thứ thiệt” [27, 677].
Nhắc đến Lê Lựu, người ta hay nói đến Thời xa vắng, tác phẩm đưa
ông trở thành “sỹ quan” trong làng văn. Không phải đơn giản cuốn tiểu
thuyết này lại nhận được quá nhiều lời khen chê, bởi lẽ tác phẩm đã khơi gợi
sứ mệnh thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay muốn đảm
nhiệm. Theo nghĩa này, Vương Trí Nhàn đã khẳng định: “Thời xa vắng nên
được xem là cuốn sách biết làm đúng nhiệm vụ của một tác phẩm văn học cần
làm” [59, 620].
Nối tiếp nguồn cảm hứng của Thời xa vắng thời gian sau đó, Lê Lựu
cho ra mắt bạn đọc hàng loạt tác phẩm:
- Đại tá không biết đùa (1989).
- Chuyện làng Cuội (1993).
- Sóng ở đáy sông (1994).
- Hai nhà (2003).

và thật sự đã gây được nhiều tiếng vang trong dư luận như Lê Lựu từng tâm
sự: “Có những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bởi tự thân nội dung đặc sắc của nó
đi được vào mạch ngầm tâm tư tình cảm của nhân vật (Thời xa vắng), cũng

7
có những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bởi … tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có
những cuốn tiểu thuyết khi lên phim mới nổi đình nổi đám và kéo theo đó là…
tai bay vạ gió” [59, 708]. Song ở bất cứ tác phẩm nào, dù lớn hay nhỏ, Lê

Lựu cũng có một vấn đề gì đó để gửi gắm. Và chân giá trị của những cuốn
tiểu thuyết ấy là không thể phủ nhận.
Nhận xét về tiểu thuyết Lê Lựu, tác giả Lê Hồng Lâm đã phát biểu: Sở
dĩ tác phẩm của Lê Lựu gây được dư luận và có chỗ đứng riêng trên văn đàn
như Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông, Hai nhà…là “bởi ông luôn viết hết mình
như ông sống, yêu ghét rạch ròi và đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách nhân
vật (…). Ở mức độ nào đó, nhà văn đã tạo ra những nhân vật điển hình trong
những hoàn cảnh điển hình” [59, 703].
Bên cạnh những bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về Lê Lựu,
còn có một số khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ cũng đề cập đến vấn đề
tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới như:
- Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới (1999),
luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hương Lan, ĐHSPHN.
- Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới (2002), luận văn thạc sĩ Trần Thị Kim
Soa – ĐHSPHN.
- Tiểu thuyết viết về nông thôn thời kì đổi mới (2009), luận văn thạc sĩ Phùng
Thị Hồng Thắm– ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội.
Ngoài ra những năm gần đây tại trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân
văn – ĐHQG HN, một số khóa luận cũng đã đi sâu tìm hiểu tiểu thuyết Lê
Lựu với những vấn đề cụ thể như: Tình yêu trong Thời xa vắng; Hôn nhân gia
đình qua hai cuốn tiểu thuyết Hai nhà và Thời xa vắng; Bước phát triển trong
nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu…

8
Điểm chung của những khóa luận và luận văn này là đều đề cập đến
phương diện hiện thực, quan niệm nghệ thuật về hiện thực, quan niệm nghệ
thuật về con người, hoặc khai thác sức hấp dẫn về nghệ thuật của tiểu thuyết
Lê Lựu, trong đó đặc biệt quan tâm đến tiểu thuyết Thời xa vắng. Tuy nhiên,
chưa có một công trình khoa học chuyên biệt nào khảo sát kĩ lưỡng về vấn đề
không gian và thời gian nghệ thuật trong thuyết Lê Lựu. Thảng hoặc trong các

bài viết, các công trình nghiên cứu có đề cập đến yếu tố thời gian và không
gian nghệ thuật song chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát sơ lược. Lựa chọn
đề tài: “Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì
đổi mới”, chúng tôi mong muốn tìm hiểu một khía cạnh thuộc phạm trù thi
pháp nghệ thuật của nhà văn để có được cái nhìn toàn vẹn, sâu sắc hơn về
phong cách nghệ thuật cũng như vị thế của một cây bút “tiền trạm” trong
công cuộc đổi mới văn học.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu diễn ra trong gần nửa thế kỉ với số
lượng tác phẩm khá phong phú: chín tập truyện, hai tập kí và tám cuốn tiểu
thuyết. Tuy nhiên trong phạm vi luận văn, chúng tôi không thể tiến hành khảo
sát thời gian và không gian trong tất cả tác phẩm của Lê Lựu mà chủ yếu khảo
sát thời gian và không gian trong các tác phẩm của ông thời kì đổi mới (từ
1986). Cụ thể là gồm bốn tiểu thuyết sau:
- Thời xa vắng (1986)
- Chuyện làng Cuội (1993).
- Sóng ở đáy sông (1994).
- Hai nhà (2003).

9
Tuy nhiên trong quá trình phân tích, chúng tôi sẽ đặt những sáng tác
của ông trong toàn bộ hệ thống tiểu thuyết Lê Lựu để thấy được những đặc
điểm chung nhất về nghệ thuật không gian và thời gian.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Về Lê Lựu và sự nghiệp sáng tác của ông đã có rất nhiều ý kiến bàn
luận nhưng chưa đi sâu tìm hiểu nghệ thuật lựa chọn và kiến tạo không gian
và thời gian nghệ thuật của ông. Trong luận văn này, chúng tôi tập trung phân
tích khám phá thế giới không gian và thời gian nghệ thuật, cũng như cách
thức biểu hiện chúng để góp phần làm sáng tỏ phong cách nghệ thuật Lê Lựu.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
a. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
b. Phương pháp so sánh - đối chiếu.
c. Phương pháp thống kê – phân loại.
d. Phương pháp hệ thống.
e. Một số thao tác thuộc thi pháp học.
5. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, ở đề tài này, luận văn được triển khai
với ba chương:
Chương1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam
sau năm 1975.
Chương 2: Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới.
Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới.
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.
PHẦN NỘI DUNG

10
CHƯƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG BỐI CẢNH CHUNG
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
1.1 Khái lược chung về tiểu thuyết
1.1.1 Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại thuộc phương thức tự sự. Mặc dù ra đời
muộn song tiểu thuyết lại được coi là “máy cái của văn học” bởi nó luôn giữ
vị trí then chốt trong đời sống văn học của toàn nhân loại. Tuy nhiên, tiểu
thuyết là một cấu trúc ngôn từ “động”, không hoàn kết, không đứng yên, một
thể loại văn chương đang biến chuyển và còn chưa định hình. Vì vậy, việc
đưa ra những định nghĩa có tính chất quy phạm cho thể loại này là không hề
đơn giản. Mỗi người tùy cách nhìn nhận, đánh giá của bản thân cùng với
những quan niệm riêng của môi trường xã hội mà đưa ra những khái niệm

không hoàn toàn giống nhau về tiểu thuyết.
Trong Bàn về tiểu thuyết, nhà văn Phạm Quỳnh cho rằng: “Tiểu thuyết
là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã
hội hay là những sự lạ tích kì đủ làm cho người đọc hứng thú”, hay nói cách
khác, đó là một “truyện bịa đặt thú vị” [dẫn theo 75,10]. Định nghĩa này một
thời đã đặt nền tảng quan niệm cho cả người sáng tác lẫn giới phê bình văn
học. Nói tới tiểu thuyết, người ta nghĩ ngay tới một tác phẩm văn xuôi kể lại
một câu chuyện lí thú bằng cách hư cấu để phản ánh hiện thực, miêu tả các sự
kiện, biến cố, phong tục tập quán, phân tích tâm lí, tình cảm…
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã định nghĩa: Tiểu thuyết là một “tác phẩm tự sự
cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn của không
gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời,

11
những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt
giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng”[17, 328].
Điểm chung gặp gỡ của các quan điểm là đều khẳng định tính chất đặc
biệt của tiểu thuyết: phản ánh bức tranh hiện thực đời sống với quy mô lớn
trong đó chứa đựng nhiều vấn đề sâu sắc của đời sống xã hội, của số phận con
người.
Định nghĩa của các tác giả trong cuốn “Lý luận văn học”có lẽ mang
tính chất tổng quát hơn cả về thể loại này: “Tiểu thuyết là một thể loại lớn
nằm trong phương thức tự sự có khả năng phản ánh hiện thực đời sống một
cách bao quát ở mọi giới hạn không gian và thời gian, khả năng khám phá
một cách sâu sắc những vấn đề thuộc thân phận con người thông qua những
tính cách đa dạng, phức tạp và khả năng tái hiện những bức tranh mang tính
tổng thể rộng lớn về đời sống xã hội”[11].
Nếu truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, khả năng bao quát hiện
thực đời sống, thể hiện số phận cá nhân chỉ giới hạn trong một phạm vi nào

đó, ít thể hiện nhân vật trong quá trình vận động mà chủ yếu thể hiện như một
lát cắt, một khoảnh khắc, quan tâm đến cái chốc lát thì tiểu thuyết là một dòng
chảy theo chiều dọc số phận con người. Tuy nhiên, tiểu thuyết luôn phát triển
và biến đổi, nó có khả năng “tung hoành” vô bờ, có “sức chứa” và “sức chở”
hiện thực rất lớn. Tiểu thuyết mô tả hiện thực đời sống ở cả bề rộng lẫn chiều
sâu. Xác định nội hàm khái niệm tiểu thuyết, giúp ta nhận được những đặc
điểm thi pháp cơ bản của thể loại. Trên cơ sở đó, khám phá về quan niệm
nghệ thuật của người nghệ sĩ cũng như cách thức kiến tạo các yếu tố thời gian
và không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Đồng thời hiểu được qui
luật vận động và phát triển của thể loại văn học đặc biệt này.
1.1.2 Đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết

12
Trong mối tương quan với các thể loại khác, tiểu thuyết là thể loại có
dung lượng phản ánh hiện thực, “sức chứa” hiện thực lớn: không chỉ có khả
năng bao quát hiện thực rộng lớn theo xu thế “hướng ngoại”, tiểu thuyết còn
“hướng nội” - tập trung khám phá những bí ẩn, phức tạp, đa chiều trong đời
sống tâm hồn con người – đây thực sự là yếu tố cốt tủy tạo nên sức hấp dẫn
bền vững của thể loại này.
Tiểu thuyết nổi bật ở khả năng phản ánh một cách “toàn vẹn và sinh
động” bức tranh mang tính tổng thể của hiện thực đời sống. Đây là một trong
những đặc trưng cơ bản, là ưu thế lớn tạo nên tầm vóc, quy mô hiện thực cho
thể loại tiểu thuyết. Là một thể loại tiêu biểu cho phương thức tự sự, tiểu
thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều rộng của không gian cũng như chiều
dài của thời gian. Tuy nhiên, khuynh hướng chủ yếu của tiểu thuyết là tiếp
cận cuộc sống ở góc nhìn đời tư. Đây là điểm khác biệt với thể loại sử thi
(quan tâm đến vấn đề dân tộc, cộng đồng, ít đề cập đến số phận cá nhân). Nói
như nhà phê bình Pôxpêlôp: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự mà nhân vật chính
của nó, một con người cá nhân riêng biệt trong một giai đoạn nào đó đã bộc
lộ sự phát triển tính cách do mâu thuẫn giữa lợi ích với địa vị hay lợi ích với

chuẩn mực đời sống xã hội”[62]. Các nhà tiểu thuyết cảm nhận, miêu tả hình
ảnh con người trong những mối quan hệ xã hội, gia đình và bản thân một cách
đa chiều với những trạng thái tâm lí, tình cảm phức tạp nhằm khắc họa một
bức tranh hiện thực chân thật và sống động.
Tiểu thuyết có xu hướng dần xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật
và đối tượng trần thuật. Trong tiểu thuyết, khoảng cách giữa người trần thuật
và nhân vật được rút ngắn, thậm chí xóa bỏ. Chính đặc điểm này làm cho tiểu
thuyết trở thành một thể loại dân chủ. Nhà văn có thể thâm nhập vào đời sống
bên trong của con người để khám phá, miêu tả và lí giải. Đối tượng phản ánh
vì vậy luôn bao quát hơn, đa diện hơn. Nhân vật cũng có thể ngồi ngang hàng

13
với tác giả, “đối thoại với tác giả”, ở đó chân lí thuộc về tất cả, không ai có
quyền phán xét hay áp đặt. Từ đây xuất hiện loại ngôn ngữ đối thoại trong
tiểu thuyết. Đây cũng chính là cái “tính đa thanh, phức điệu” mà M.Bakhtin
từng gọi là “cái thần tình của thể loại”.
Nếu thành phần chính của truyện ngắn và truyện vừa là cốt truyện và
tính cách nhân vật thì tiểu thuyết còn quan tâm đến việc miêu tả về suy tư của
nhân vật trước thế giới và đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm,
trình bày tường tận về tiểu sử nhân vật. Tiểu thuyết có khả năng đi sâu khai
thác từng mảnh đời, từng góc khuất trong sâu thẳm tâm hồn con người.
“Chúng ta tiếp thu các hình thức tiểu thuyết chính là để trở về xem xét con
người Việt nam một cách sáng tỏ để đào xới về nó sâu hơn”(Nguyễn Minh
Châu).
Tiểu thuyết là một thể loại có cấu trúc hết sức linh hoạt. “Ưu thế của
thể loại không chỉ bộc lộ ở khả năng mở rộng đường biên hiện thực mà còn ở
khả năng thâu tóm, dồn ép nhân vật, sự kiện vào một khoảng không gian ngắn,
thời gian hẹp,… để tạo nên những bức tranh hiện thực có qui mô vừa và nhỏ.
Trên nền của những bức tranh đời sống đã được thu hẹp đó, nhà văn thuận
lợi hơn khi đi sâu vào những cảnh ngộ riêng của nhân vật” [dẫn theo 11, 193]

Các sáng tác của các nhà văn hiện thực như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Sống mòn
(Nam Cao),… và của các nhà văn thời kì đổi mới như: Gặp gỡ cuối năm
(Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê
Lựu), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm người nhiều ma
(Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Ăn mày dĩ vãng
(Chu Lai),…đã thể hiện rõ điều đó.
Ngoài khả năng tạo dựng bức tranh hiện thực rộng lớn, tiểu thuyết còn
có khả năng phản ánh những vấn đề về số phận cá nhân và con người. Có thể
cho rằng: tài năng lớn nhất của nhà văn cũng như sức ám ảnh lớn nhất của

14
tiểu thuyết là thuộc về nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết thường là những
“con người nếm trải”. Đó là những con người luôn day dứt, suy nghĩ, đấu
tranh nội tâm trước những thử thách của cuộc đời. Có thể tìm thấy những con
người biết suy tư, trăn trở, tự ý thức về bản thân mình để vươn lên sống hoàn
thiện hơn, thiên lương hơn trong những sáng tác của Nam Cao, Nguyên Hồng,
Thạch Lam…
Ngoài ra, tiểu thuyết còn là một thể loại mang bản chất tổng hợp. Có
sự pha trộn đa dạng trong tiểu thuyết những phong cách nghệ thuật của các
thể loại văn học khác như thơ, kịch, kí…và những thủ pháp nghệ thuật của
các loại hình gần gũi như: điện ảnh, hội họa, âm nhạc, điêu khắc. “Tiểu thuyết
là thể loại sinh sau, đẻ muộn, vì vậy, nó tiếp thu những cái tốt đẹp mà các thể
loại đã có (anh hùng ca, thơ, kịch ), sáng tạo thêm những yếu tố mới (…)
Như một “đứa con lai” nó khỏe, nó đẹp, nó đầy sức sống” [38, 18]. Trong
nhiều trường đoạn khác nhau, người viết tiểu thuyết có thể vận dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức: trữ tình, tự sự, kịch. Là một “thể loại
đa thể loại” (Lưu Liên), tiểu thuyết có thể khai thác ưu thế của điện ảnh, điêu
khắc, âm nhạc, hội họa trong việc lắp ghép các mảng không gian, đặc tả chi
tiết, tạo hình nhân vật, phối âm, hòa sắc….Ở mỗi giai đoạn, thời kì, ở từng tác
giả, tiểu thuyết lại “lột xác” để tìm kiếm cho mình những nét mới đáp ứng

nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng văn chương: Gorki với tiểu
thuyết thế sự - trữ tình; Tônxtôi với tiểu thuyết sử thi – tâm lí, Đốtxtôiépxki
với tiểu thuyết – kịch, Mác-két với tiểu thuyết huyền thoại; Hê-ming-uê với
tiểu thuyết sử thi – trữ tình,…Điều này đã minh chứng tiểu thuyết là “thể loại
duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi” (Bakhtin)
Ngày nay, cùng với sự xuất hiện và “lên ngôi” của thi pháp học (cụ thể
là thi pháp thể loại và tự sự học) thì không gian và thời gian nghệ thuật là
những yếu tố quan trọng được các nhà nghiên cứu quan tâm khi tìm hiểu về

15
tiểu thuyết bởi lẽ trong những cách tân nghệ thuật gần đây, phạm trù không –
thời gian được thừa nhận là yếu tố mang đến cho tiểu thuyết tính hiện đại.
Tìm hiểu khái niệm và đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết là cơ sở để tìm
hiểu và khám phá về tiểu thuyết Việt nam sau đổi mới nói chung và tiểu
thuyết Lê Lựu nói riêng.
1.2. Bức tranh toàn cảnh về tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975
Ngày 30 - 4 - 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ hoàn toàn thắng lợi,
giang sơn thu về một mối. Lịch sử dân tộc đã thực sự sang trang. Một giai
đoạn văn học mới cũng đã hình thành. Đặc biệt, Nghị quyết đại hội đảng VI
(1986) đã thổi một luồng gió mới vào lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có
văn học. Công cuộc đổi mới với tinh thần dân chủ với khẩu hiệu: “Nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật và nói đúng sự thật” đã đáp ứng nhu cầu sáng tác
và “cởi trói” cho người cầm bút. Mặt khác, cuộc sống thời hậu chiến với bao
biến động, thay đổi, con người có một độ lùi thời gian đáng kể để kiểm
nghiệm chân giá trị của một số tác phẩm văn học mà ở giai đoạn trước còn bị
nhìn nhận, đánh giá khắt khe.
Ngoài ra, cũng phải kể đến vai trò của sự giao lưu văn hóa với các nước
khác trong khu vực và trên thế giới cũng tác động đến quá trình sáng tác của
các nhà văn. Đó là nguyên nhân khách quan và chủ quan đưa đến sự chuyển
đổi của văn xuôi tiểu thuyết nói chung và trong tư duy của những nhà văn thời

hậu chiến nói riêng.
Từ năm 1975 đến nay, văn học Việt Nam đã trải qua ba chặng đường
nối tiếp, liên tục: Từ 1975 – 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử thi thời
kỳ chiến tranh sang văn học thời hậu chiến; từ năm 1985 đến đầu thập kỷ 90
là thời kỳ văn học có sự đổi mới mạnh mẽ, gắn liền với chặng đầu của công

16
cuộc đổi mới đất nước. Từ giữa những năm 90 tới nay, văn xuôi hướng sự
quan tâm nhiều hơn vào những cách tân nghệ thuật.
Quá trình đổi mới tiểu thuyết sau năm 1975 bắt đầu khá sớm nhưng
thầm lặng với những tín hiệu có tính dự báo qua các sáng tác của Nguyễn
Minh Châu: Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977); sáng tác của
Nguyễn Khải: Cha và con (1979); Sáng tác của Nguyễn Trong Oánh: Đất
trắng (1979)…
1.2.1 Từ sự đổi mới tư duy nghệ thuật…
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới tiếp nối dòng cảm hứng sử thi
của văn học giai đoạn 1945 - 1975 song ở thời kì này, tiểu thuyết đã khắc
phục cái nhìn lý tưởng hóa; từ cảm hứng tự hào, ngợi ca, khâm phục trở thành
cảm hứng chiêm nghiệm, lắng đọng, suy tư. Về mặt cấu trúc, chuyển đổi từ
cấu trúc lịch sử sự kiện thành cấu trúc lịch sử tâm hồn. Tiểu thuyết giai đoạn
này thực sự đổi mới trên nhiều phương diện: tư duy, nghệ thuật, cảm hứng
sáng tạo, ngôn ngữ, kết cấu … “Chưa bao giờ dân tộc ta có nền văn học phát
triển toàn diện vào sâu sắc như ngày nay. Các thể loại đều được các nhà văn
sử dụng và trên bất cứ thể loại nào cũng có những đỉnh cao” [76, 13] và dĩ
nhiên trong đó có tiểu thuyết. Sắc thái đặc biệt của xã hội Việt Nam chuyển từ
cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường với tất cả sự phong phú của nó đã tìm
thấy ở tiểu thuyết một sự tương hợp. Chất “đời tư”, “thế sự” của tiểu thuyết
lấn át yếu tố sử thi vốn là đặc điểm của tiểu thuyết giai đoạn trước năm 1975.
Đặc biệt từ sau năm 1986, văn học phát triển theo khuynh hướng nhận thức
lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Tiểu

thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là một trong những tác phẩm khơi
nguồn cho mạch cảm hứng này. Các tác giả Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường …đã tạo nên sự khởi
sắc trong quá trình đổi mới văn học thời kỳ này. Với cảm quan nhạy bén, tinh

17
tế, các nhà văn đã khám phá và phản ánh những bi kịch cá nhân con người
bằng cảm hứng phê phán. Các tiểu thuyết: Dấu chân người lính (Nguyễn
Minh Châu), Thời gian của người (Nguyễn Khải), Thời xa vắng (Lê Lựu), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Mảnh đất
lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Tường) , Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Thân
phận của tình yêu (Bảo Ninh), … đã chứng minh cho sự đổi thay của tư duy
nghệ thuật tiểu thuyết sau năm 1975.
Tư duy mới về nghệ thuật còn thể hiện trong cách nhìn, trong quan
niệm về con người: Con người được nhìn trong sự toàn diện, đa chiều và thậm
chí là… “đa sự”. Con người trong tiểu thuyết được mô tả là những biểu tượng
đối nghịch mà thống nhất: thiên thần – ác quỷ, rồng phượng – rắn rết, cao quý
– thấp hèn,… Song, các nhà tiểu thuyết luôn gửi gắm niềm tin đối với cuộc
sống qua những hình tượng nghệ thuật. Con người luôn vươn lên chiếm lĩnh
những giá trị muôn đời của cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ. Nhà văn không mô tả
theo xu hướng lý tưởng hóa như giai đoạn trước đó mà khắc họa chân dung
con người chân thật và sống động hơn, đó là kiểu “con người này” (chữ của
Hêghen) mà ta có thể bắt gặp trong cuộc sống hiện thực.
Cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật thì cảm hứng sáng tạo cũng
đổi thay. Nếu lấy mốc năm 1975 để phân định thì có sự chuyển hướng từ cảm
hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng chiêm nghiệm, lắng đọng, suy tư; từ
cảm hứng về dân tộc, cộng đồng sang cảm hứng về thân phận cá nhân con
người. Nhà văn quan tâm mô tả nỗi niềm tâm sự, những bất hạnh, bi kịch,
những hạnh phúc ngọt ngào trong cuộc sống cá nhân con người, trong một bối
cảnh không gian thu hẹp. Chính hiện thực cuộc sống phong phú, bộn bề, phức

tạp đã thực sự trở thành một mảnh đất màu mỡ để tài năng của các nhà văn
được thỏa sức khai vỡ. Tư duy được “cởi trói”, các nhà văn được quyền tự do
sáng tạo, không chỉ ca ngợi những chiến công chói lọi, những vòng nguyệt

18
quế lung linh, mà còn cảm nhận được mặt trái của tấm huân chương, góc tối
của vinh quang, chiến thắng. Những bi kịch của số phận cá nhân con người
được hiện lên đầy ám ảnh qua những trang văn của Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng),
Bảo Ninh (Thân phận của tình yêu), … Những cảm hứng về con người và
thân phận của cá nhân là đầu mối quan tâm của các nhà tiểu thuyết. “Con
người mới xã hội chủ nghĩa được các nhà văn quan tâm một cách toàn diện
không chỉ trong đấu tranh dân tộc, trong lao động và công tác mà cả trong
cuộc sống bình thường hàng ngày. Nhà văn không chỉ tập trung cho con
người xã hội chủ nghĩa mà cả con người riêng tư, con người tự nhiên, không
chỉ tư tưởng, quan điểm mà cả tình cảm, tâm lí, không chỉ đời sống hữu thức
mà cả những thoáng qua bất chợt, mơ hồ trong đời sống vô thức [22]. Các
nhà văn Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Nguyễn Khải với Thời gian của người, Lê Lựu với Thời xa vắng, Nguyễn
Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng,
Bảo Ninh với Thân phận của tình yêu… đã phản ánh vấn đề thân phận con
người một cách sâu sắc.
Đi sâu phản ánh thân phận con người, tiểu thuyết sau năm 1975 đã bộc
lộ cảm hứng phê phán. Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, phức tạp với sự trộn
lẫn giữa bóng tối và ánh sáng, “màu đỏ và màu đen” (Chữ Nguyễn Khải)
khiến cho con người cần phải có chính kiến để đánh giá, nhìn nhận, phân tích
một cách khách quan để có cách giải quyết thỏa đáng. Trong sáng tác của Lê
Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, … cảm hứng phê phán được
biểu hiện qua việc phản ánh những kẻ thực dụng, mưu đồ, tha hóa nhân cách
đạo đức, về sự lộng hành của cái ác, sự tồn tại mặc nhiên của những mối thù
truyền kiếp giữa các gia đình, các dòng họ nơi làng xã.

Phê phán, phủ nhận cái xấu, các ác trên tinh thần nhân bản nhân văn,
các tác giả như muốn gửi tới người đọc một thông điệp xanh: “Hãy thức tỉnh

19
nhân tính con người!”. Không hề né tránh hiện thực, trái lại, các nhà tiểu
thuyết luôn luôn đối diện và săn đuổi hiện thực, sáng tạo những hình tượng
nghệ thuật bằng cả tài năng, trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút
chân chính.
Chiêm nghiệm, suy tư về quá khứ cũng là cảm hứng nổi bật trong các
tiểu thuyết thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, hồi cố không phải để nuối tiếc hay đào
xới quá khứ mà để nhìn thẳng vào đó, vươn tới lẽ sống tốt đẹp hơn trong hiện
tại và tương lai. Và dù viết về hiện tại hay quá khứ, các tác phẩm đều gửi gắm
những câu hỏi nghiêm túc về con người, về cuộc vật lộn giữa con người và
hoàn cảnh để tìm kiếm chính mình. Như vậy, mạch chính của tiểu thuyết từ
cao trào đổi mới văn xuôi trở đi đã diễn đạt những trăn trở, bức xúc về con
người trong niềm khao khát tác động vào xã hội, thay đổi hoàn cảnh sống để
có được mặt bằng văn hóa cao hơn, điều kiện vật chất tốt hơn cho sự phát
triển tính người lành mạnh.
1.2.2… đến quá trình đổi mới hình thức nghệ thuật
“Trong văn chương không có sự độc tôn thể loại, hình thức và phong
cách nghệ thuật. Sự phong phú của văn chương là nhờ vào “bảng màu” đa
sắc của những tìm tòi cả về nội dung và hình thức”[85, 191]. Các nhà tiểu
thuyết sau năm 1975 không chỉ khám phá về nội dung tư tưởng mà còn có
những cách tân về hình thức nghệ thuật. Điều này thể hiện rõ trên các phương
diện: dung lượng, kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng
điệu, cách kiến tạo không gian và thời gian nghệ thuật… Đặc biệt từ năm
1986 trở đi, tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã có nhiều sự đột phá trong hành
trình cách tân nghệ thuật.
Trước hết, về mặt dung lượng, tiểu thuyết là thời kỳ đổi mới xuất hiện
kiểu tiểu thuyết tiểu ngắn, nói cách khác, tiểu thuyết ngắn đang có xu hướng

“bành trướng”, áp đảo tiểu thuyết trường thiên trong văn học truyền thống.

20
Cùng với dung lượng ngắn thì số lượng nhân vật cũng ít đi, thậm chí đôi khi
chỉ xoay quanh một sự kiện, một số phận nhân vật nào đó. Nó chống lại lối kể
chuyện truyền thống “bám mãi vào cốt truyện”. Tiểu thuyết thời kì này đi sâu
phản ánh thân phận con người trên cuộc hành trình đầy nhọc nhằn của kiếp
người, thậm chí đi sâu bóc tách từng lớp, vỉa trong thế giới nội tâm của con
người để phân tích và lí giải. Những diễn biến tâm hồn phức tạp của nhân vật,
những “nếp gấp”, “góc khuất” tâm lí được các nhà tiểu thuyết đặc biệt quan
tâm. Các biến cố, sự kiện tham gia vào diễn biến cốt truyện được giản lược.
Nhiều khi cốt truyện chẳng có gì để tóm tắt. Có khá nhiều tiểu thuyết mang
dung lượng ngắn như “Thiên sứ (1989) của Phạm Thị Hoài -180 trang; Thân
phận của tình yêu (1990) của Bảo Ninh – 338 trang; Bến không chồng (1990)
của Dương Hướng – 281 trang, Thoạt kì thủy (2004) của Nguyễn Bình
Phương – 158 trang, Thiên thần sám hối (2004) của Tạ Duy Anh – 125 trang,
Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu – 334 trang… Thực ra độ dài của số trang
mới chỉ là tiêu chí có tính chất hình thức thể loại, quan trọng hơn phải xét đến
yếu tố chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Với dung lượng ngắn, song các nhà
tiểu thuyết đã truyền đạt đến người đọc những vấn đề mang ý nghĩa xã hội và
nhân sinh sâu sắc, điều này đồng nghĩa với một nỗ lực tìm kiếm các phương
tiện, phương thức kỹ thuật tối ưu nhằm truyền đạt được những vấn đề nội
dung tư tưởng của tác phẩm. Tiểu thuyết Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh
là một ví dụ. Độ dài của tác phẩm chỉ có 125 trang và cũng chỉ có một nhân
vật chính – đứa trẻ trong bụng mẹ: “Chỉ còn 72 giờ nữa tôi mới hết giai đoạn
bào thai. Sau đó chỉ còn một việc là giãy đạp, gào thét mà chui ra, thế là
thành người”. Cuộc “đấu tranh nội tâm” của đứa trẻ còn trong bụng mẹ thật
cam go, không kém gì một người trưởng thành ở giữa cuộc đời. Nhưng cuối
cùng thì đứa trẻ (chưa ra đời) chấp nhận: “Nhưng tôi chấp nhận một cuộc
sống, còn bởi một sự thật ngàn lần khó tin hơn: Con người chẳng làm được gì

ngoài sự chuẩn bị cho cái chết của mình. Vì thế họ phải chuẩn bị đến nơi, đến

21
chốn” [2, 131]. Qua nhân vật này, nhà văn muốn bày tỏ một quan niệm: Trên
hành trình đi tìm chân lý, con người phải trải qua biết bao sự đau khổ dù đó
chỉ là lão già đau khổ (“Lão khổ”) hay đứa bé nằm trong bụng mẹ.
Sự cách tân trong dung lượng kéo theo sự đổi mới trong kết cấu tiểu
thuyết. Kết cấu chính là sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ
thuật. Kết cấu tác phẩm không những thiết lập được nội dung giá trị tư tưởng
cho một sáng tạo nghệ thuật mà nó còn cải biến và đào sâu hàm nghĩa những
cái được mô tả. Mạch vận động trong lối kết cấu truyền thống thường theo
kiểu chương, hồi, có thắt nút, cao trào, mở nút … Hầu hết tác phẩm đều có
kết cấu cốt truyện theo trình tự không gian, thời gian, kết thúc thường có hậu,
phù hợp với đạo lý ở đời và thỏa mãn thị hiếu của người đọc. Sang giai đoạn
1930 – 1945 xuất hiện kiểu kết cấu vòng tròn – đầu cuối tương ứng, đến giai
đoạn văn học cách mạng 1945 -1975 xuất hiện kiểu kết cấu sử thi – chủ yếu
một chiều, lấy trục thời gian và sự kiện làm cơ sở.
Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt sau năm 1986 có nhiều
kiểu kết cấu đa dạng, nhiều tầng lớp, đan cài giữa quá khứ và hiện tại: Kết cấu
phân mảnh, lắp ghép, kết thúc mở … cho phép nhà văn mở rộng dung lượng
và phạm vi phản ánh hiện thực.
Sự phá vỡ cấu trúc truyền thống - kiểu cấu trúc lịch sử sự kiện - thay
thế bằng kiểu cấu trúc lịch sử tâm hồn, là điểm căn bản dễ nhận thấy trong
tiểu thuyết thời kì đổi mới: (1) Sự phá vỡ những khuôn khổ truyền thống đã
tạo ra những biến thể cấu trúc mới như kiểu “tiểu thuyết trong tiểu thuyết”.
(2) Lịch sử được nhìn nhận qua tâm hồn bên trong phong phú và phức tạp,
đầy bí ẩn của con người. Thời xa vắng của Lê Lựu, Thân phận của tình yêu
của Bảo Ninh, Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà, Thiên thần sám hối của
Tạ Duy Anh … đã thể hiện rõ kiểu cấu trúc này. Với kết thúc mở, lối viết linh
hoạt, cấu trúc hiện đại và các chương, đoạn được cắt rời và lắp ghép hợp lí tạo


22
cảm giác liền mạch, tránh được lối mòn truyền thống trong văn xuôi Việt
Nam.
Một số nhà văn thời kì này cũng sử dụng kiểu cấu trúc luận đề đã quen
thuộc trong giai đoạn văn học trước như: Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của
Chúa, Hồ Anh Thái với Cõi người rung chuông tận thế, Tạ Duy Anh với
Thiên thần sám hối, Lão khổ …
Trong những cách tân về hình thức của tiểu thuyết thì nghệ thuật xây
dựng nhân vật cũng có những đổi mới đáng kể. Trong tiểu thuyết nói riêng và
văn học nói chung, nhân vật là linh hồn của tác phẩm, là nơi tập trung nhất
quan niệm, tư tưởng, cách nhìn của nhà văn về con người và cuộc đời. Nhân
vật trong tiểu thuyết giai đoạn này được đặt nhiều mối quan hệ phức tạp đa
chiều với quá khứ, hiện tại, tương lai, với xã hội và cả bản thân mình. Các nhà
văn soi chiếu nhân vật ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, trong những bối
cảnh không gian và thời gian đa dạng khiến chân dung con người hiện lên cụ
thể, sinh động hơn, trở thành những điển hình nghệ thuật có sức sống mãnh
liệt trong dòng thời gian và có sức ám ảnh mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Những nhân vật như Giang Minh Sài (Thời xa vắng), Nguyễn Vạn (Bến
không chồng), Kiên (Thân phận của tình yêu), Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) …
là những sáng tạo nghệ thuật của Lê Lựu, Dương Hướng, Bảo Ninh, Chu
Lai,… Con người trong tiểu thuyết không còn nguyên phiến, đơn trị mà có
những phần khuất lấp trong tâm hồn và số phận mà nếu ta vô tình thì khó có
thể nắm bắt, cảm thông. Nguyễn Vạn – một người lính Điện Biên suốt đời gìn
giữ phẩm chất lương tâm trong sáng của mình đến mức hèn nhát – không dám
bày tỏ tình cảm đối với người phụ nữ mình yêu để rồi đến cuối cùng lại phạm
phải một sai lầm không thể tha thứ được: ngủ ngay với đứa cháu dâu của
mình. Vạn đã trải qua nỗi đau đớn, nhục nhã giày vò và cuối cùng phải tự vẫn.

23

Dương Hướng đã chỉ ra rằng: Tâm hồn con người không phải là gỗ đá vô tri,
mà cũng biết rung cảm, ước mơ, khao khát.
Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người đã chi phối cách kiến
tạo không gian và thời gian trong tác phẩm. Có thể thấy tiểu thuyết sau năm
1975 xuất hiện nhiều dạng thức, mô hình không gian và thời gian khác nhau.
Không gian và thời gian nghệ thuật là những hình thức tồn tại của thế
giới. Sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra
trong một trường nhìn, một thời gian nhất định. Sự đổi mới hình thức nghệ
thuật luôn luôn gắn liền với sự cách tân cấu trúc không gian – thời gian. Nếu
văn học giai đoạn trước chủ yếu là không gian – thời gian một chiều theo
tuyến tính lịch sử - sự kiện thì sau năm 1975, thời gian được tổ chức một cách
đa tuyến, nhiều chiều. Thời gian chuyển đổi liên tục theo sự phát triển của
thời gian tâm trạng. Sự đan xen đồng hiện giữa quá khứ - hiện tại - tương lai
là xu hướng chủ yếu của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới. Có thể thấy rõ điều này
qua Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Bến
không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trường … Không gian trong tiểu thuyết sau đổi mới cũng là không gian
đa chiều: Có không gian lịch sử - sự kiện, không gian tâm tưởng, không gian
“nếp gấp”,… Ý thức và sự thể hiện không gian và thời gian nghệ thuật đã
biến đổi mạnh mẽ so với trước. Không gian được miêu tả không phải là
không gian sử thi rộng lớn mang tính chất cộng đồng mà là không gian đời
thường gắn liền với sinh hoạt đời tư cá nhân. Đó là không gian hẹp, không
gian gia đình, nơi bản chất các mối quan hệ, mâu thuẫn, xung đột bộc lộ một
cách rõ nét. Và trong dạng thức không gian này, tính cách, tâm lí nhân vật sẽ
được nhà văn phân tích, lí giải, mổ xẻ một cách tỉ mỉ, chi tiết. Sáng tác của Lê
Lựu, Chu Lai, Bảo Ninh là những minh chứng chuẩn cho điều này.

24
Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới còn biến chuyển cả về đề tài, cảm hứng,
giọng điệu. Trước năm 1975, cảm hứng chủ đạo là cảm hứng sử thi, mang

giọng điệu ngợi ca, ngưỡng vọng, thành kính (phù hợp với đề tài phản ánh),
bởi vậy, ngôn ngữ trang trọng và thanh cao. Sau năm 1975, xuất hiện cảm
hứng thế sự mang sắc thái phê phán, ngôn ngữ vì thế cũng trở nên thô ráp,
mộc mạc, mang hơi thở nồng của cuộc sống. Từ ngôn ngữ một giọng trước đó
đã chuyển sang ngôn ngữ đối thoại, nhiều giọng. Ngôn ngữ trần thuật của nhà
văn và ngôn ngữ nhân vật đã hòa trộn vào nhau. Đây là ưu thế giúp nhà văn
vừa kể chuyện vừa xen lẫn những bình luận, đánh giá.
Tóm lại, bức tranh tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đa diện, giàu
màu sắc với những cách tân cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
Đặc biệt từ năm 1986, văn chương quan tâm nhiều hơn vào những cách tân
nghệ thuật. Điều này đánh dấu một bước phát triển mới của văn học, tạo nên
bước đột phá lớn trong dòng chảy của tiểu thuyết đương đại. Trong lộ trình
cách tân ấy , Lê Lựu không chỉ tự hào là nhà văn có đóng góp đáng kể mà còn
là một cây bút “tiền trạm” của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Cùng
với sự chuyển biến của bức tranh chung về tiểu thuyết sau năm 1975, sáng tác
của Lê Lựu đã đi sâu khám phá những vấn đề đời tư, thế sự và giá trị truyền
thống trong xã hội hiện đại. Mỗi tác phẩm như một luận đề mà nhà văn rút ra
được qua trải nghiệm cuộc đời, những luận đề ấy làm trăn trở bao trái tim bạn
đọc ngày hôm nay. Với cách thể hiện riêng, Lê Lựu đã tạo được phông nền
không gian – thời gian nghệ thuật để làm nổi bật những tư tưởng, những băn
khoăn, trăn trở ấy.
1.3. Hành trình sáng tác và những đóng góp của Lê Lựu

Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942 tại thôn Mẫn Hòa, xã Tân Châu, huyện
Khoái Châu, Hưng Yên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo,

×