Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trẻ cho CNH, hđh nông nghiệp nông thôn ở thành phố huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.06 KB, 94 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xn Vấn

Lời Cảm Ơn
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để hoàn
thành được khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của
các tập thể, các cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh Tế Chính Trò – Trường
Đại học Kinh tế Huế đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy
giáo T.S Hà Xuân Vấn, đã tận tình hướng dẫn tôi trong
suốt thời gian thực tập tốt nghiệp.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các đồng
chí Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Chi cục
thống kê và các Phòng ban khác của huyện Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trò đã giúp đỡ tôi nhiệt tình trong thời gian
tôi thực tập tại đòa phương.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình và
bạn bè đã khích lệ, cổ vũ tôi hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.
Sinh viên

SVTH: Đường Gia Cơng

1



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Ñöôøng Gia Coâng

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tên đầy đủ

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

KHKT

Khoa học kỹ thuật

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

LĐNN

Lao động nông nghiệp

ILO

Tổ chức lao động quốc tế


LĐ – TB&XH

Lao động – Thương binh và Xã hội

LLLĐ

Lực lượng lao động

KTX

Hợp tác xã

SVTH: Đường Gia Công

2


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

MỤC LỤC

SVTH: Đường Gia Công

3


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

DANH MỤC CÁC BẢNG

SVTH: Đường Gia Công

4


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

SVTH: Đường Gia Công

5


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong
sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,

trong đó lĩnh vực nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đóng vai trò quan
trọng đối với quá trình phát triển. Theo thống kê năm 2013, trong tổng số 89,7
triệu người dân Việt Nam có 60,7 triệu người sống ở khu vực nông thôn
(chiếm hơn 2/3 tổng dân số). Thời gian qua, mặc dù đã có sự di chuyển mạnh
mẽ về dân cư và lao động từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp
sang phi nông nghiệp song trong tổng số 51,7 triệu lao động (năm 2013) vẫn
còn tới gần 24,5 triệu lao động làm việc trong khu vực nông lâm thuỷ sản
(chiếm 47,4%). Theo dự báo, lao động nông nghiệp nước ta sẽ còn khoảng
40% lao động xã hội vào năm 2015 và 30% vào năm 2020.
Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam nói riêng đang phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt,
trong đó có nhiều cơ hội để phát triển nhưng những thách thức mà Việt Nam
phải đối mặt cũng không nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem là
khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội
thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập.
Trên thực tế, lao động nói chung và LĐNN vẫn hạn chế về kiến thức, trình
độ chuyên môn, kĩ năng, phương pháp làm việc hiện đại. Bên cạnh đó, lao động
chất lượng cao đang thiếu hụt nhưng lại có xu hướng rời khu vực nông nghiệp
nông thôn, tìm đến thành thị để mang lại thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, nâng
cao chất lượng lao động nông nghiệp là nhằm bổ sung lượng nhân lực mất đi do

SVTH: Đường Gia Công

6


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

di chuyển qua các ngành kinh tế khác đồng thời đưa mặt bằng chất lượng lao
động của khu vực này lên.
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng lao động nông nghiệp còn ở mức
thấp là vấn đề chung của nhiều tỉnh thành nước ta. Làm thế nào để nâng cao
chất lượng lao động nông nghiệp đã trở thành mối quan tâm của nhiều địa
phương, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Huyện Triệu Phong là một trong 10 huyện, thị, thành phố của tỉnh Quảng
Trị. Với lợi thế về điều kiện tự nhiên mà huyện Triệu Phong là huyện sản xuất
nông nghiệp lớn nhất của tỉnh, phần lớn người dân đều sinh sống bằng nghề
nông. Tuy vậy, thực tế đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là tỷ
lệ lao động qua đào tạo thấp, lao động chất lượng cao chưa nhiều và lao động
này thường không muốn ở lại địa phương để làm việc. Bên cạnh đó, chính sách về
nâng cao chất lượng nguồn lao động chưa cụ thể, chưa có những cuộc điều tra
thống kê thực trạng lao động trên địa bàn huyện Triệu Phong một cách sâu sắc.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng lao động nông
nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị" để nghiên cứu làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách phát triển nhân lực là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, chính vì vậy đã có rất nhiều nghiên cứu ở các cấp độ từ trung ương đến
địa phương về vấn đề trên. Cụ thể như:
- Nguyễn Thị Thu Thủy, "Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thị xã Hương Thủy tỉnh
Thừa Thiên Huế ", luận văn Thạc sỹ - Trường Đại học kinh tế-Đại học Huế, 2011.
-

Nguyễn Văn Thuynh, “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông
thôn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam”, khóa luận tốt nghiệp - Trường Đại học


-

Nông nghiệp Hà Nội, 2011.
Lê Hoàng Thuyên, “Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho
lao động nông thôn tỉnh Hà Nam”, luận văn Thạc sỹ - Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội, 2010.
SVTH: Đường Gia Công

7


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

- Hoàng Anh Cường, "Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp nông
thôn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên Huế", luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Kinh tế-Đại học Huế, 2011.
- Đề tài: " Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trẻ cho CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn ở thành phố Huế hiện nay", của tác giả Lê Quang
Diên, đề tài nghiên cứu khoa học Trường Đại học Kinh tế Huế năm 2006.
- Và một số đề tài cấp bộ, luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp khác ở
trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế cũng có đề cập đến vấn đề này.
Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu trên địa bàn huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị hiện nay, tôi nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu
về nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp một cách tổng quát với tư cách là
một khóa luận tốt nghiệp. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên
cứu trước, ứng dụng vào địa bàn nghiên cứu cụ thể, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
" Nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh

Quảng Trị".
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của đề tài
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, khóa luận đánh giá về thực trạng chất
lượng lao động nông nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp để đáp ứng yêu
cầu phát triển KT-XH của huyện.
* Nhiệm vụ của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng lao
động nông nghiệp
Phân tích thực trạng chất lượng lao động nông nghiệp ở huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị
Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
lao động nông nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

SVTH: Đường Gia Công

8


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

* Đối tượng nghiên cứu: quá trình nâng cao chất lượng lao động nông
nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Thời gian: giai đoạn 2010 - 2014 và đề xuất giải pháp đến năm 2020.

- Nội dung nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp ở
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ đối tượng nghiên cứu, trong đề tài này tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:


Phương pháp luận xuyên suốt là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để xem xét, phân tích vấn đề một cách khoa học, khách quan.



Phương pháp điều tra, chọn mẫu: đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên phân tầng, phân theo 3 vùng kinh tế: vùng gò đồi, vùng đồng bằng và
vùng đầm phá ven biển. Trên cơ sở đó chia ra theo địa bàn các xã để chọn số
lượng hộ gia đình điều tra. Với quy mô mẫu là 120 hộ gia đình, đề tài phân ra
như sau: huyện Triệu Phong gồm 19 xã và 1 thị trấn. Đề tài chọn điều tra 6 xã
gồm: xã Triệu Thượng: 20 hộ, xã Triệu Ái: 20 hộ, xã Triệu Đông: 20 hộ, xã Triệu
Trạch: 20 hộ, xã Triệu An: 20 hộ, xã Triệu Vân: 20 hộ.



Phương pháp phân tích, tổng hợp.



Phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu.

- Giúp chính quyền địa phương có cái nhìn rõ nét hơn về quá trình nâng
cao chất lượng lao động nông nghiệp, từ đó có những chính sách khả thi hơn
nhằm đẩy nhanh sự phát triển về chất lượng của lao động.
7. Kết cấu đề tài

SVTH: Đường Gia Công

9


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo,
nội dung đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng lao động trong nông
nghiệp
Chương 2: Thực trạng chất lượng lao động nông nghiệp ở huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động
nông nghiệp ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận về chất lượng lao động trong nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm lao động nông nghiệp
1.1.1.1. Các khái niệm
Lao động: Lao động là một khái niệm rộng. Ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và

tùy mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì có những quan điểm khác nhau. Có nhiều
từ ngữ được sử dụng để hàm ý nói đến nguồn lao động đó là nhân lực, nguồn
nhân lực. Những từ này có khác nhau về cách gọi nhưng được sử dụng phổ biến
trong các nghiên cứu từ trước đến nay với cùng một ngữ nghĩa như nhau.
Trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tùy theo lĩnh
vực, tính chất hoạt động mà lao động được phân thành lao động sản xuất kinh
doanh, lao động khoa học, lao động văn hóa, nghệ thuật.
Theo C.Mác: “ Lao động là hoạt động cơ bản của con người. Lao động là
hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục
vụ các nhu cầu của đời sống con người.”[12 ]
Theo khái niệm của Liên hợp quốc thì : “Lao động là tổng thể sức dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con
người vào của cải tự nhiên và của cải xã hội” [Tr7, 20]

SVTH: Đường Gia Công

10


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Hay theo tổ chức Lao động thế giới (ILO) thì “LLLĐ là bộ phận dân số trong
độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc
làm đang tích cực tìm kiếm việc làm”[ Tr7, 20]
Tóm lại, lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là
cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của
bất cứ quá trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình triến kinh tế, xã
hội quy tụ lại là ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là

vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển KT-XH. Vì vậy, phải thực sự giải
phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm năng thiên nhiên, trước hết
giải phóng người lao động, phát triển kiến thức và những khả năng sáng tạo
của con người. Vai trò của người lao động đối với phát triển nền kinh tế đất
nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là rất quan trọng.
Lao động nông nghiệp: LĐNN là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc
ở nông thôn trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật (nam từ 16 đến
60 tuổi, nữ từ 16 đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
Lực lượng LĐNN là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn bao gồm
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc làm và
những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực
lượng tham gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi
lao động mà còn có những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản
xuất với những công việc phù hợp với mình.Từ khái niệm nguồn lao động ở
nông thôn mà ta thấy lao động ở nông thôn rất dồi dào, nhưng đây cũng chính
là thách thức trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn.
Việc nghiên cứu lao động trong nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với
sự phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân nói chung.
1.1.1.2. Đặc điểm lao động nông nghiệp

SVTH: Đường Gia Công

11


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn


LĐNN là bộ phận quan trọng trong cơ cấu lao động của nền kinh tế quốc
dân. Vì đây là bộ phận lao động đáp ứng các nhu cầu về lương thực, thực phẩm
và các nhu cầu cơ bản khác của xã hội. Do tính chất đặc biệt của nền sản xuất
nông nghiệp nên LĐNN có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, lao động mang tính chất thời vụ cao, là đặc trưng điển hình tuyệt
đối không thể xóa bỏ, điều này làm gia tăng tính phức tạp trong sử dụng lao
động. Đặc điểm này do tính chất tự nhiên, khí hậu và đặc tính của cây trồng vật
nuôi quy định.
Thứ hai, LĐNN mang tính tất yếu, xu hướng có tính quy luật là không
ngừng thu hẹp về số lượng và được chuyển một bộ phận sang các ngành khác.
Vì thế số lao động ở lại trong khu vực nông nghiệp là những người có độ tuổi
trung bình cao và tỉ lệ này có xu hường tăng lên.
Thứ ba, nơi cư trú của lao động phải ở khu vực nông thôn. Có nhiều lao
động cư trú ở khu vực thành thị nhưng lại làm việc ở khu việc nông thôn, những
lao động này nằm trong LLLĐ xã hội nhưng không nằm trong lực lượng LĐNN.
Thứ tư, LĐNN sử dụng phương thức lao động thủ công là chính. Điều này
cũng xuất phát từ việc sử dụng các thiết bị thì cần vốn lớn và trình độ nắm bắt
kĩ thuật; bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên như địa hình, thời tiết không cho
phép áp dụng rộng rãi các thiết bị hiện có, cũng như hiệu quả áp dụng chưa cao.
1.1.2. Vai trò của việc nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp
Với khoảng 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những vấn
đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Nền kinh tế Việt Nam trong gần 30 năm đổi mới vừa qua (1986-2014) đã
đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản
lượng các loại nông sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực đều
tăng với tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu tiên sản lượng
lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim
ngạch 310 triệu USD. Đến năm 2014 vừa qua sản lượng lương thực đã đạt đến


SVTH: Đường Gia Công

12


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

con số kỷ lục 39 triệu tấn và đã xuất khẩu 3,9 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 817
triệu USD.
Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu
tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất khẩu
gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan), bộ mặt nông thôn thay đổi theo
hướng văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân được
nâng lên cao hơn trước.
Để làm được những điều này, ngoài sự chỉ đạo sáng suất của Đảng, Nhà
nước thì chúng ta còn cần rất nhiều yếu tố cấu thành mà quan trọng nhất là
LĐNN. Phát triển nông nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không là đều nhờ vào
nông dân, LĐNN, ta có thể thấy được vai trò rất to lớn của LĐNN.
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, các địa phương đều đặt quan tâm
đến vấn đề nâng cao chất lượng LĐNN. Để có thể áp dụng các tiến bộ KHKT vào
sản xuất nông nghiệp thì cần có một lực lượng LĐNN chất lượng cao. Trên thực
tế, lực lượng lao động nông nghiệp nông thôn thường có trình độ chuyên môn kĩ
thuật thấp, không bắt kịp với những tiến bộ tiên tiến của trang thiết bị, máy
móc. Việc đào tạo đội ngũ LĐNN chất lượng cao thực sự là rất cần thiết.
Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình phát
triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, kim
ngạch xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm 2014 ước
đạt tới 30,8 tỷ USD, tăng gấp 77 lần. Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông

nghiệp không chỉ đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông
thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã
ngày càng tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích
cực vào sự đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
trong những năm qua. Chính vì thế việc nâng cao chất lượng LĐNN sẽ tạo đòn
bẩy cho quá trình phát triển nông nghiệp thêm mạnh mẽ hơn, đồng bộ hơn và
hiện đại hơn.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng lao động nông nghiệp
SVTH: Đường Gia Công

13


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

1.1.3.1. Tình trạng sức khỏe
Sức khỏe là điều kiện quan trọng để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương
tiện chủ yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn. Một điều kiện bắt
buộc đối với nguồn lực lao động là phải có sức khỏe tốt, phù hợp với điều kiện
làm việc. Sức khỏe là một trạng thái thoải mái về thể chất, về tinh thần chứ không
phải đơn thuần là không có bệnh. Người lao động dù lao động trí óc hay lao động
cơ bắp đều phải có sức khỏe. Sức khỏe cơ thể là điều kiện đầu tiên đối với người
lao động dùng để duy trì và phát triển trí tuệ, là điều kiện quan trọng để biến tri
thức thành sức mạnh vật chất. Đồng thời phải có tâm hồn lành mạnh, đây chính
là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của niềm tin, ý chí, sức sáng
tạo của trí lực… Khi đề cập đến phát triển nguồn lực con người trong quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng ta khẳng định “sự cường tráng về thể chất
là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ

và vật chất cho xã hội”.
Quá trình CNH, HĐH trong điều kiện cách mạng - khoa học - công nghệ
bùng nổ như hiện nay, hàm lượng trí tuệ chất xám trong sản phẩm lao động
chiếm tỉ trọng lớn nhất thì yêu cầu về sức khỏe tâm hồn càng cao. Để có sức
khỏe tinh thần tốt người lao động phải có sức khỏe cơ thể tốt. Mặt khác, người
lao động còn phải được giáo dục và đào tạo kỹ lưỡng, nhất là được sống và làm
việc trong môi trường xã hội thuận lợi, có văn hóa đạo đức.
Như vậy, chỉ có những người khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần mới có
thể nâng cao sức mạnh của bản thân, hòa nhịp với cuộc sống hiện tại. Họ làm việc
dẻo dai, có khả năng tập trung về trí tuệ khi làm việc, tạo ra năng suất lao động
cao.
1.1.3.2. Trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ
Bên cạnh yếu tố thể lực thì yếu tố trí lực cũng là nội dung quan trọng phản
ánh chất lượng lao động. Yếu tố này tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến quá
trình lao động.

SVTH: Đường Gia Công

14


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Khi đánh giá yếu tố trí lực của LLLĐ điều cần quan tâm đầu tiên là trình độ
văn hóa. Trình độ văn hóa là tiêu chí về mức độ hoàn thành các cấp học cơ bản
của một nền giáo dục, ở Việt Nam có 3 cấp và 12 lớp học từ lớp 1 đến lớp 12.
Trong nội dung này, để đánh giá được sâu hơn về trình độ văn hóa, cần đánh giá
thêm về mức độ mức độ đào tạo. Mức độ đào tạo phản ánh mức độ học tập của

người dân, ngoài việc đánh giá trình độ văn hóa thì đánh giá thêm về quá trình
theo học các chương trình cao hơn như trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại
học. Điều này phản ánh chất lượng ở mức cao của lao động.
Tiếp theo là trình độ chuyên môn kĩ thuật, nội dung này cho thấy kiến thức
và kĩ năng của lao động trong những ngành nghề cụ thể, đây là nội dung quan
trọng phản ánh năng lực hoạt động thực tiễn của lao động.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn
nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp,
cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc
một chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của lao động được đo
bằng: Tỉ lệ cán bộ quản lý trên số dân, tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học, tỉ lệ cán bộ
trên đại học.
Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ lại
như Đại học bao gồm: Kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, thậm chí trong từng chuyên
môn lại chia ra những chuyên môn nhỏ nữa.
Trình độ kĩ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của
người được đào tạo ở các trường kĩ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,
những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Để đánh giá trình độ chuyên
môn kỹ thuật của người lao động, người ta thường dung các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với LLLĐ đang làm việc (hay tỉ lệ số người
từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế đã qua đào tạo trong tổng số người từ 15
tuổi trở lên hoạt động kinh tế): là % số lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, công
nhân kỹ thuật, đến sau đại học) so với LLLĐ đang làm việc.

SVTH: Đường Gia Công

15


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Tỷ lệ lao động được đào tạo theo cấp bậc: là % số lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật ( sơ cấp, công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học và trên đại học) so với tổng số lao động đang làm việc.
Cơ cấu lao động đã qua đào tạo theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và các
cấp bậc đào tạo: thể hiện cơ cấu số lao động có trình độ Đại học và cao đẳng/ số
lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp/ số lao động là công nhân kỹ
thuật.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có việc làm: là % số lao động đã qua đào tạo
đang làm việc so với số lao động đã qua đào tạo.
1.1.3.3. Ý thức tổ chức, tinh thần trách nhiệm
Đối với mỗi lĩnh vực, mỗi ngành nghề thì ý thức tổ chức, tinh thần trách
nhiệm là vô cùng quan trọng. Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác hoặc
phải nhận lấy về mình. Ai cũng có trách nhiệm bởi mỗi người đều có một vị trí
nhất định trong các mối quan hệ xã hội, như gia đình, dòng họ, địa phương, tập
thể, tổ chức chính trị - xã hội, công dân của một nước, thành viên của cộng đồng
dân tộc và rộng nhất là của nhân loại... Trong các mối quan hệ đó, trách nhiệm
được hình thành trên cơ sở những quy định của luật pháp, quy chế, thỏa thuận
của tập thể, tổ chức, địa phương... Trách nhiệm còn được hình thành do dư luận
xã hội và bị chi phối bởi dư luận xã hội.
Tinh thần trách nhiệm khác với ý thức trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm
là kết quả nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của con người, từ đó chi phối
hành động tích cực, tự giác của họ. Những người có nhận thức và hành động
như thế gọi là có tinh thần trách nhiệm cao. Mức độ ý thức trách nhiệm của một
người quyết định mức độ, thái độ của người đó làm việc, đồng thời cũng quyết
định thành tích công việc của họ.
Khi có được ý thức trách nhiệm cao trong công việc, con người ta có thể
học được từ công việc nhiều kiến thức mới, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và

cũng từ đó tìm thấy niềm vui.
1.1.3.4. Năng suất lao động

SVTH: Đường Gia Công

16


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Năng suất lao động là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng
bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu
đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực
sản xuất của một đơn vị hay cả nên KT - XH.
Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc
trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra với lao động để sản xuất ra
nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức
cạnh tranh, đặc biệt, năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người
lao động – yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, sự phát
triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.
Năng suất lao động được tính theo công thức sau:
Năng suất lao động = Giá trị gia tăng (hoặc GDP) / Số lượng lao động
Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của
lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử
dụng (hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo bằng
lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm. Năng
suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ
của một tổ chức, một đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất. Năng

suất lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của
người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp
xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất,
các điều kiện tự nhiên.
Như vậy, cả bốn nội dung trên phản ánh một cách trực tiếp và gián tiếp về
mặt chất lượng của lao động. Nghiên cứu chất lượng lao động của một địa
phương cần nghiên cứu đi sâu vào bốn nội dung này để làm sáng tỏ chất lượng
thực sự của lao động tại đó. Ngoài bốn nội dung này còn có nhiều nội dung khác
dung để đánh giá chất lượng lao động, tuy nhiên đây là bốn nội dung quan
trọng nhất cần được làm rõ trong quá trình nghiên cứu.
1.1.3.5. Các chỉ tiêu phản ánh mức sống

SVTH: Đường Gia Công

17


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Đây là chỉ tiêu phản ánh mức thu nhập, mức hao phí các nhu cầu tối cơ
bản cho sự sống của các thành viên xã hội. Các chỉ tiêu phản ánh mức sống bao
gồm:
GNI/người: đây là thước đo chính thể hiện việc đảm bảo nhu cầu hao phí
vật chất cho công dân mỗi quốc gia. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng
lớn để nâng cao mức sống vật chất cho con người.
Lượng lương thực bình quân: phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu tối
thiểu về mức sống cho con người, được tính từ tổng giá trị sản lượng sản xuất
lương thực trong nước chia cho toàn bộ dân số.

Tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người một ngày đêm so với nhu cầu tối
thiểu: là số calo thực tế được cung cấp bình quân đầu người 1 ngày đêm so với
số calo cần thiết ở mức bình thường để đảm bảo cho làm việc, sức khỏe, có xét
tới cơ cấu nam nữ, trọng lượng cơ thể cũng như môi trường sống.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động nông nghiệp
1.1.4.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn nước, nguồn
tài nguyên. Sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến chất lượng nguồn lao
động trên hai phương diện trực tiếp và gián tiếp:
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên tác động trực tiếp đến người lao động làm
ảnh hưởng đến sức khỏe của họ.
Các yếu tố thuận lợi về thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn nước có sự ảnh
hưởng tốt tới sức khỏe của người lao động, làm cho chất lượng lao động được
đảm bảo và có điều kiện được nâng lên. Ngược lại, các điều kiện về tự nhiên bất
lợi sẽ ảnh hưởng tới thể lực, tới sức khỏe của con người và của tất cả nguồn lao
động.
Thứ hai, điều kiện tự nhiên với tư cách là nguồn lực của mỗi quốc gia, mỗi
địa phương, mỗi đơn vị sản xuất, là cơ sở cho sự phát triển kinh tế, tạo ra những
điều kiện vật chất để nâng cao chất lượng nguồn lao động về trình độ văn hóa,
trình độ chuyên môn nghề nghiệp và ngược lại. Ở đây, các điều kiện tự nhiên tác

SVTH: Đường Gia Công

18


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn


động đến chất lượng nguồn lao động được biểu hiện ở dạng tiềm năng, sự tác
động được thể hiện còn tùy thuộc vào trình độ khai thác các tiềm năng đó.
1.1.4.2. Điều kiện kinh tế
Các nhân tố kinh tế bao gồm tiềm lực kinh tế và trình độ phát triển kinh tế.
Các tiềm lực kinh tế bao gồm: Quỹ đất đai, tài chính, tiền tệ, dự trữ, cơ sở
hạ tầng sản xuất và hạ tầng xã hội. Tiềm lực kinh tế cũng là nhân tố tác động
trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng nguồn lao động:
Thứ nhất, các yếu tố kinh tế tác động đến sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra
các điều kiện về vật chất nâng cao chất lượng nguồn lao động. Một tiềm lực
kinh tế yếu kém chẳng hạn nguồn lực ngân sách Nhà nước ít ỏi, ít có cơ hội đầu
tư thích đáng cho giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn lao động nói
chung, mỗi ngành, lĩnh vực nói riêng.
Thứ hai, các yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn lao
động. Bởi vì, các yếu tố kinh tế vừa là các điều kiện cho sự phát triển kinh tế của
đất nước, địa phương, vùng, vừa ảnh hưởng tới khả năng đầu tư học tập của
người lao động và chất lượng nguồn lao động. Nói cách khác các nhân tố kinh
tế ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng lao động. Sự tác động của các nhân tố đến
chất lượng nguồn lao động theo hướng thuận chiều của sự phát triển kinh tế.
Trong đó, các cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội có sự chi phối mạnh mẽ nhất.
Có thể nói, trình độ phát triển kinh tế, xã hội vừa là nguyên nhân vừa là
chất lượng của nguồn nhân lực. Vì vậy, xem xét sự phát triển kinh tế của một
đất nước, một địa phương, có thể đánh giá sự tác động của nó đến chất lượng
nguồn lao động, đồng thời cũng thấy rõ sự tác động của chất lượng lao động
đến sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.4.3. Tình hình xã hội
Phong tục tập quán, thể chế chính trị, cũng là những nhân tố tác động đến
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, phong tục tập quán ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn lao động ở mức độ đầu tư cho hoạt động văn hóa, học tập chuyên
môn trong từng gia đình và hình thành nên ý thức trong lao động sản xuất,


SVTH: Đường Gia Công

19


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

trong chấp hành pháp. Trên thực tế, do tác động của phong tục tập quán và
truyền thống đã hình thành những vùng “đất học” đua tranh trong học tập văn
hóa và kỹ thuật đã làm cho chất lượng nguồn lao động ở đó hơn hẳn các vùng
khác.
Về thể chế chính trị: Sự tác động của nó tới chất lượng nguồn lao động chủ
yếu thể hiện sự ưu tiên đầu tư của Chính phủ tới vệc nâng cao trình độ dân trí
đào tạo nhân tài và chất lượng nguồn nhân lực trên các phương diện khác nhau
như: Đầu tư các yếu tố vật chất, sử dụng hợp lý nguồn lao động và có cính sách
khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn lao động.
1.1.4.4. Công tác giáo dục - đào tạo
Giáo dục - đào tạo ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động thông qua
việc nâng cao trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng tay
nghề của người lao động. Sự ảnh hưởng của giáo dục đào tạo đến chất lượng
nguồn lao động thể hiện ở hai khía cạnh.
Thông thường, ở các nước đang phát triển, có nền giáo dục thuộc mức
trung bình so với thế giới, họ định hướng theo xu thế “nâng cao dân trí” làm chủ
đạo rồi mới dần dần chú trọng đến những chương trình đào tạo cao hơn. Hệ
thống đào tao đầu tiên là hệ thống đào tạo văn hóa, đây là hệ thống đào tạo cơ
bản của một nền giáo dục. Sau đó là đến hệ thống đào tạo nghề nghiệp nhằm
đào tạo những con người có hiểu biết cụ thể trong một ngành nghề của nền kinh
tế quốc dân.

Nền tảng tri thức chuyên môn, kỹ năng lao động cao hay thấp tùy thuộc
vào kết quả giáo dục-đào tạo. Nguồn lao động về số lượng, song ít được đào tạo
sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng nguồn lao động. Cũng vì thế nguồn lao
động này không những không trở thành nguồn lực của tăng trưởng , phát triển
KT-XH, mà ngược lại trở thành gánh nặng trong giải quyết việc làm, thất nghiệp
cản trở phát triển nói chung.
Tuy nhiên nhân tố giáo dục, đào tạo tác động đến chất lượng nguồn lao
động không chỉ trực tiếp trước mắt (ngắn hạn) mà còn tác động lâu dài. Vì vậy,

SVTH: Đường Gia Công

20


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

để nâng cao chất lượng nguồn lao động hầu hết các quốc gia đều phải có chiến
lược giáo dục đào tạo cơ bản, dài hạn, tổng thế. Chiến lược đó bao gồm cơ cấu
ngành, nghề, cơ cấu kiến thức , cơ cấu lao động cần đào tạo, hệ thống cơ sở cần
thiết cho đào tạo nhân lực từ đó xác định nguồn vốn tài chính cần thiết theo tỷ
lệ phần ngân sách Nhà nước hay phần trăm GDP đầu tư cho giáo dục-đào tạo.
1.1.4.5. Cơ sở vật chất và các trang thiết bị
Tư liệu lao động là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng
trong quá trình lao động để tác động vào đối tượng lao động. Chính vì thế, nó có
ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động một cách trực tiếp. Trong điều kiện tư
liệu lao động ngày càng được cải thiện theo hướng giảm lao động chân tay tăng
cường lao động trí óc. Hoạt động lao động ngày càng phức tạp, buộc người lao
động muốn tham gia vào quá trình lao động phải không ngừng tự bồi dưỡng và

nâng cao năng lực của bản thân.
Bên cạnh đó, sự phát triển của tư liệu lao động làm cho một lượng lớn lao
động không sẽ không còn được sử dụng, do nhiều công đoạn sản xuất được thay
thế bằng các trang thiết bị tự động. Những lao động này sẽ tự chuyển qua các
ngành lao động khác trong nền kinh tế hoặc trở thành lao động thất nghiệp. Sự
thay đổi cơ cấu lao động đi kèm với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế tạo ra những
nguồn lực lao động mới bổ sung cho những ngành càng phát triển như dịch vụ.
Như vậy, nhân tố trang thiết bị lao động có tác động cả trực tiếp đến chất
lượng lao động thông qua cải thiện năng suất lao động và gián tiếp thông qua
đào thải, sàng lọc cơ cấu lao động trong nền kinh tế. Với sự phát triển của khoa
học công nghệ nhanh chóng như hiện nay, thì nâng cao chất lượng lao động đã
trở thành yêu cầu bức thiết.
1.2. Cơ sở thực tiễn về nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp
1.2.1. Kinh nghiệm ở một số quốc gia trên thế giới
1.2.1.1. Kinh nghiệm Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có nền kinh tế lớn mạnh nhưng có những đặc
điểm kinh tế - xã hội – chính trị tương đồng với Việt Nam. Quá trình phát triển

SVTH: Đường Gia Công

21


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

hơn 30 năm theo con đường kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc,
chính sách nhân lực của nước này có nhiều nội dung phù hợp để ứng dụng vào
Việt Nam.

Năm 1979, theo con số của Ủy ban giáo dục quốc gia Trung Quốc, “ trình độ
văn hóa của đa số công nhân và nông dân được coi là quá thấp, có khoảng 30%
người lớn mù chữ và 80% công nhân chưa tốt nghiệp sơ trung, 2/3 công nhân
công nhân chỉ ở bậc 1-3 (trong tám bậc kỹ thuật), có 3% là kĩ thuật viên (trong
tổng số công nhân là 100 triệu)”. Mặt khác, đó là sự không cân đối trong giáo
dục phổ thông: có quá nhiều trường phổ thông và quá ít trường kĩ thuật,
trường dạy nghề (Thông báo của hội nghị công tác giáo dục Trung Quốc, 1979).
Tuy vậy, trong gần 30 năm qua, nền giáo dục Trung Quốc đã đạt được
những thành tựu đáng kể: Năm 2012, số người trong độ tuổi đi học đến trường
đạt 370 triệu, tăng 6,7% so với năm 1978. Số người bị mù chữ trong tổng số dân
đã giảm từ 23,5% xuống còn 12,1%, trong đó số người trong độ tuổi giảm từ
15-40 giảm xuống từ 15,8% xuống còn 6%. Chính vì vậy, đến năm 2012 Trung
Quốc đã có 728 đơn vị đào tạo nghiên cứu sinh, trong đó có 408 trường đại học,
302 cơ sở nghiên cứu khoa học. Năm 2012, số nghiên cứu sinh học trong các cơ
sở đào tạo là 501.000 người, trong đó có 108.700 nghiên cứu sinh và 392.300
học viên cao học. Ngoài ra, kể từ khi có chế độ đào tạo sau đại học, Trung Quốc
đã có 16.000 thạc sĩ và 14.000 tiến sĩ tham gia các khóa đào tạo tập trung 2
năm.
Trung Quốc đi theo những quan điểm riêng của mình, quan điểm về chức
năng và giá trị của phát triển nguồn nhân lực là: Làm cho các nguồn lực tiềm
năng của con người trở nên có ích; biến đổi năng lượng của con người trở nên
có hiệu suất cao; nâng cao hiệu quả làm việc; tạo ra những tài năng thật sự;
tăng cường trình độ năng lực của họ; và cuối cùng đưa nước Trung Quốc từ một
nước có nguồn nhân lực quy mô lớn thành nguồn nhân lực có chất lượng.
Cụ thể, những giá trị để phát triển nguồn nhân lực của chính phủ Trung
Quốc biểu hiện ở các mặt sau:

SVTH: Đường Gia Công

22



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cốt yếu của chiến lược “
Khoa học và Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc”.
Năm 2012, chính phủ Trung Quốc đã thông qua quỹ giáo dục trị giá
khoảng 198 tỉ nhân dân tệ (21,19 tỉ USD). Khoảng 28,7 triệu trẻ em từ các gia
đình nghèo đã được nhận hỗ trợ tài chính và học tập. Trung Quốc có kế hoạch
gia tăng tỷ lệ chi phí giáo dục so với GDP lên 4% vào năm 2012 thay vì 3,48%
năm 2008.
“Khoa học và Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc” là mộ chính sách quốc gia
cơ bản. Nếu như khoa học và giáo dục là hai bánh xe cho quá trình tiến vào thế
kỉ mới của Trung Quốc thì nhân tài là trục của bánh xe và phát triển nguồn
nhân lực sẽ quyết định tốc độ của những bánh xe đó. Vì thế, việc thực hiện chiến
lược này tạo ra nhiều không gian cho phát triển nguồn nhân lực.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp là vấn đề thiết yếu cho
chiến lược “ Phát triển không ngừng”.
Điều cốt lõi của chiến lược “Phát triển không ngừng” là sự thống nhất lâu
dài của ba yếu tố: môi trường, kinh tế và xã hội. Sự thống nhất lâu dài đó lại phụ
thuộc vào nhân tố chính của các hoạt động xã hội – đó chính là con người, là
thái độ của con người đối với sự phát triển không ngừng. Trung Quốc đang
thiếu các nguồn lực ở mức độ trung bình và tình trạng căng thẳng về nguồn lực
sẽ còn kéo dài, vì vậy nên theo phương thức tiết kiệm để sử dụng, phát triển các
nguồn lực đó. Một mặt, ta nâng cao mức sử dụng để tiết kiệm các nguồn lực,
mặt khác, thay đổi từ phương thức rộng đến hẹp để tăng cường hiệu quả của
các nguồn lực. Trên thực tế, sự hủy hoại lãng phí các nguồn lực là khá nghiêm
trọng và phổ biến. Một lí do quan trọng nữa là chất lượng của lao động không

tương ứng với sự phát triển của các nguồn lực tự nhiên. Theo đó củng cố việc
phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng của người lao động là vấn đề
quan trọng.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực dựa trên những điều kiện của đất nước
Trung Quốc.

SVTH: Đường Gia Công

23


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

Trung Quốc có nguồn lực con người dồi dào, nhưng chính điều này lại làm
cho sự thiếu hụt các nguồn lực khác trầm trọng hơn. Trung Quốc có nhiều sản
phẩm rừng, mỏ và các nguồn nước nhưng nếu những nguồn lực này được phân
chia cho con số hơn 1,3 tỷ người thì cũng chỉ còn lại rất ít cho mỗi người. Những
nguồn lực tự nhiên chủ yếu, hàng hóa và tổng sản phẩm quốc nội của Trung
Quốc là rất đáng kể, song tính riêng cho mỗi thành phố thì Trung Quốc đứng
dưới bảng xếp hạng của thế giới. Ở chừng mực nào đó, nguồn nhân lực trở
thành nguồn lực cần thiết và đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển hiện tại của
Trung Quốc.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực là nền tảng cho sự phát triển của miền
Tây Trung Quốc và tạo dựng xã hội thịnh vượng.
Miền tây Trung Quốc có những nguồn nguyên liệu giàu có, nhưng thiếu
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực có
tính quyết định cho sự cải thiện các điều kiện môi trường, vì vậy phát triển
nguồn nhân lực là cần thiết để phát triển miền tây Trung Quốc và điều đó có mối

quan hệ mật thiết với việc tạo dựng xã hội thịnh vượng hiện tại.
Thứ năm, nguồn nhân lực là cơ sở để giải quyết vấn đề “tam nông”
Ở nông thôn Trung Quốc, những nguồn lực tự nhiên như đất nông nghiệp là
tương đối khan hiếm. Các vùng nông thôn có số dân đông nhưng chất lượng thấp,
có nguồn nhân lực tiềm năng thực sự dồi dào, chứa đựng sức sản xuất tiềm năng
rất lớn.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn có thể giải quyết hiệu quả vấn đề tam
nông tại Trung Quốc. Nông dân là vấn đề cốt lõi của “tam nông” và giải pháp là
việc làm của họ. Theo thống kê, dân số nông thôn cần việc làm vào khoảng nửa
tỷ. Tuy nhiên, ở nông thôn, toàn bộ gia đình sống dựa vào nông nghiệp và họ là
tới già, không nghĩ tới nghĩ hưu. Những người này cộng với lực lượng lao động,
kể cả dưới 18 tuổi và trên 60 tuổi đều vẫn đang làm việc. Thêm một nửa lực
lượng lao động này thì số người ở nông thôn có khả năng lao động đạt tới con
số 600 triệu người. Với tỉ lệ tự nhiên giữa lực lượng lao động và đất nông
nghiệp thì chỉ 100 triệu người là đủ cho nông nghiệp và vì thế gần 500 triệu
SVTH: Đường Gia Công

24


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hà Xuân Vấn

người trong lực lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm phi nông nghiệp.
Những năm gần đây, gần 150 triệu người đã làm việc trong các doanh nghiệp
thị trấn, làng, xã hoặc làm việc ở thành phố, nhưng vẫn còn hơn 300 triệu người
đang xếp hàng chờ việc vì rất nhiều lí do, chủ yếu là vì khả năng làm việc kém và
ít được giáo dục. Do đó, phát triển nguồn nhân lực nông thôn là giải pháp cuối
cùng quyết định để giải quyết vấn đề “tam nông” tại Trung Quốc.

1.2.1.2. Kinh nghiệm Nhật Bản
Nhật Bản là một nước có diện tích nhỏ hẹp, điều kiện tự nhiên còn nhiều
hạn chế và thường xuyên gánh chịu những hậu quả của thiên tai. Thế nhưng,
Nhật Bản lại là một trong những cường quốc đứng hàng đầu thế giới.
Nhận thức được đất nước nghèo tài nguyên, điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, vì vậy mục tiêu đầu tư hàng đầu của Nhật Bản là khai thác tiềm năng và
phát huy năng lực con người một cách tích cực và có hiệu quả, luôn đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Kinh nghiệm này đã được nhiều
quốc gia trên thế giới học hỏi. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Nhật Bản
có những nét riêng không lẫn với quốc gia nào, đồng thời nó phù hợp với xu thế
phất triển của thời đại hội nhập và phát triển. Điều này thể hiện ở những điểm
sau:
Thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản luôn khuyến khích hình thành một xã hội
học tập và chế độ học tập suốt đời, rèn luyện cho mỗi người lao động tinh thần
học hỏi cao, linh động và thích nghi với mọi điều kiện làm việc.
Có một nét trong đường lối dạy và học riêng của Nhật Bản là: dù sự thật
Nhật Bản là quốc gia phát triển bậc nhất thế giới nhưng trong mọi bậc học giáo
viên vẫn luôn dạy cho học sinh mình rằng: “ Nước ta là một nước nghèo, điều
kiện tự nhiên khắc nghiệt và thường xuyên gánh chịu những hậu quả khắc
nghiệt của thiên tai, vì thế các em phải luôn luôn phấn đấu học tập và không
ngừng cống hiến để đưa đất nước đi lên”. Điều này chứng tỏ người Nhật rất
khiêm tốn và không bao giờ ngủ quên trên chiến thắng.
Thứ hai, điểm nổi bật trong chính sách phát triển nguồn nhân lực của Nhật
Bản là hệ thống kích thích lao động có hiệu quả. Điều này làm động lực để mọi
SVTH: Đường Gia Công

25



×