Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN: Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên dạy lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.4 KB, 20 trang )

Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:.............................................................................. 2
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................ 2
2. Mục tiêu và nhiệm vụ.:....................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu:........................................................................ 3
4. Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu:................................................................... 4
II. PHẦN NỘI DUNG........................................................................... 4
1.Cơ sở lí luận:......................................................................................... 4
2. Thực trạng………………………………………………………….... 5
3. Giải pháp, biện pháp………………………………………………..... 8
4. Kết quả…………………………………………………………..........16
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……….................................17
1. Kết luận:……………………………………………………….............17
2. Kiến nghị:………………………………………………………...........18
* Nhận xét của hội đồng sáng kiến ………………………………….........19
* Tài liệu tham khảo.....................................................................................20

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN SỬ DỤNG LỒNG GHÉP TIẾNG
VIỆT CHO TRẺ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

1


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

I. PHẦN MỞ ĐẦU:


1. Lý do chon đề tài.
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên của
hệ thống giáo dục Quốc dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu
tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ
nghĩa, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi Mẫu giáo trẻ mới bắt
đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ,
đặc biệt là Dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu
số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận
Tiếng việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ Tiếng việt.
Chính vì vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ Dân tộc thiểu số là vấn đề cần
được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỷ năng cần thiết cho việc
học Tiếng việt ở lớp một phổ thông.
Trong những năm gần đây Bộ giáo dục và đào tạo rất quan tâm đến việc
dạy Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS. Vì vậy việc chăm sóc cũng như
tạo điều kiện để trẻ phát triển một cách toàn diện là một vấn đề mà toàn xã hội
cần phải quan tâm. Việc kết hợp giữa trường lớp mầm non với gia đình trong
quá trình dạy Tiếng Việt cho trẻ đó là hành trang để trẻ bước vào lớp 1. Khi trẻ
đến trường trẻ sẽ không bị hẫng hụt về tâm lý, cũng như có đầy đủ nghị lực sẵn
sàng cho việc học, mà ta áp dụng trong các tiết dạy, giờ học, giờ chơi, sinh hoạt
cho phù hợp.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm
thoại, thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào
đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc, câu chuyện đã được nghe, được
chứng kiến, hay tự mình nghĩ ra, sáng tạo ra. Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của
cô của những người xung quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết
của mình theo ngôn ngữ Tiếng việt. Muốn phát triển ở trẻ kỷ năng, hiểu và nói
được ngôn ngữ Tiếng việt theo cô, theo tôi trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia
vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc
cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông qua các môn học khác, hoặc
ở mọi lúc mọi nơi... Là vô cùng quan trọng đối với trẻ.

Bản thân tôi là một người Hiệu trưởng của trường mầm non Cư Pang,
quản lý với tổng số CBVC là 33 người và số cháu là 259 cháu. Trong đó số trẻ
dân tộc thiểu số chiếm 90%. Hầu hết trẻ dân tộc Êđê đến trường đều nói bằng
tiếng mẹ đẻ, không nghe được tiếng Việt, bố mẹ trẻ lại ít quan tâm đến việc
động viên trẻ đến lớp. Là người quản lý tôi đã trăn trở để xây dựng kế hoạch từ
đầu năm học, phân công giáo viên trực tiếp đến nhà trẻ để huy động trẻ ra lớp.
Đầy cũng là một điều khó khăn rồi nhưng còn vấn đề gian nan hơn nữa là
trẻ ngồi trong lớp hay chọc nghẹo, không tích cực tham gia vào các hoạt động,
cô nói điều gì trẻ cũng không hiểu cứ nhìn cô và không trả lời khi cô giáo hỏi
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

2


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

trẻ. Cô nói trẻ không hiểu, khi cô hỏi cháu trả lời câu hỏi lặp lại của cô ví dụ :
Con tên gì ? trẻ trả lời lặp lại con tên gì ?; ví dụ: Cô nói con “Cò” thì trẻ nói là
con “co”. Đối với trẻ dân tộc thiểu số chịu rất nhiều thiệt thòi. Điều kiện tiếp xúc
với môi trường xung quanh, xã hội còn ít, tầm nhìn của trẻ còn hạn chế, tất cả đồ
dùng học tập đối với trẻ cũng thật là xa lạ, nên khi trẻ tiếp xúc còn bỡ ngỡ. Bởi
vì trẻ không hiểu hết ngôn ngữ tiếng Việt của cô.
Với tình hình thực tế của trường đa số là người đồng bào DTTS, bản thân
tôi luôn trăn trở, suy nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, phải dùng phương
pháp gì? để giúp trẻ dễ hiểu và nói được Tiếng việt một cách trôi chảy. Với tầm
quan trọng đó bản thân tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên
dạy lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS” với hy vọng đề tài này
sẽ góp phần không nhỏ vào công tác giảng dạy của giáo viên ở vùng sâu vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiếu số như hiện nay.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Nhằm giúp trẻ nắm vững Tiết Việt một
cách vững vàng khi bước vào lớp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Giúp giáo viên nghiên cứu phương pháp
giảng dạy một cách tốt nhất để trẻ dẽ tiếp thu và nắm vững Tiếng Việt
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Nhiệm vụ mà đề tài đặt ra nhằm cung
cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ, giáo viên cần nghiên cứu một số biện pháp mà đề tài
đặt ra thông qua các hoạt động dạy học, qua các tiết dạy lồng ghép chương trình
theo quy định của trường lớp Mầm non.
Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc lực đối với giáo viên trong quá
trình dạy Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiếng Việt
cho trẻ vùng đồng bào DTTS.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Khuôn khổ nghiên cứu một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép
Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS
Đối tượng khảo sát học sinh trường mầm non Cư Pang
Thời gian nghiên cứu từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 01 năm 2016
5.Phương pháp nghiên cứu:
Sáng kiến này được thực hiện với những phương pháp sau.

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

3


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Phương pháp tham khảo tài liệu: Phương pháp này giúp cho sự định
hướng của sáng kiến.

Phương pháp kiểm tra, đánh giá: Tôi kiểm tra tiếng Việt của trẻ trong
một năm học 2015-2016, trẻ ở nhà so sánh với trẻ đến lớp học hàng ngày.
Phương pháp thực nghiệm: Đây là phương pháp chính, để kiểm nghiệm
những phương pháp và biện pháp nêu ra có liên quan đến sáng kiến kinh
nghiệm. Sáng kiến này được thực hiện trên điều kiện thực tế của trường mầm
non Cư Pang năm học 2015-2016.
II.PHẦN NỘI DUNG:
1.Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài
Tiếng Việt rất quan trọng đối với trẻ em. Đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu
số. Thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số, trước khi
đến trường chỉ sống trong gia đình, ở các thôn buôn, trong môi trường tiếng mẹ
đẻ. Do vậy trẻ em dân tộc thiểu số chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ. Trẻ biết rất ít hoặc
thậm trí không biết tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức
dùng trong trường và cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói các dân tộc
thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt trong giáo
dục. Vì vậy, cho đến nay nhìn chung việc dạy tiếng Việt cho trẻ em vùng đồng
bào DTTS đạt kết quả thấp. Đặc biệt ở trường mầm non Cư Pang chúng tôi đa
số các cháu dân tộc Êđê nghe và nói tiếng Việt rất kém, mặc dù giáo viên đã dạy
lồng ghép và nói bằng hai thứ tiếng nhưng trẻ hiểu còn chậm. Khi trẻ ở gia đình
thường tiếp xúc tiếng mẹ đẻ do vậy tiếng Việt không phải là một phương tiện sử
dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở đây học sinh chỉ dùng tiếng
Việt nói với giáo viên khi cần thiết, còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng
ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Đa phần giáo viên phản ánh tình trạng người
dạy và người học không hiểu nhau. Chính vì vậy dẫn đến chất lượng chăm sóc
Giáo Dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy là người quản
lý một trường mầm non vùng sâu, vùng xa với 90% các cháu là dân tộc thiểu số.
Tôi nhận thấy cần có những biện pháp cần bổ sung, tăng cường tiếng Việt cho
trẻ ngay từ độ tuổi mầm non.
Là người lãnh đạo nhà trường cần tích cực tham mưu với cấp uỷ chính
quyền địa phương, kịp thời và bài bản, có hiệu quả, tập chung chỉ đạo sâu sát cơ

sở, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, giải quyết khó khăn, đảm bảo kết quả dù rất nhỏ
nhưng nhìn thấy rõ do yếu tố khách quan để cha mẹ học sinh và cộng đồng tin
tưởng, đồng thuận ủng hộ. Thêm vào đó phải có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng
để xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán là người đồng bào DTTS. Tạo điều kiện cho
giáo viên đi học tiếng Êđê để triển khai thành công một số mô hình thích hợp và
khả thi về tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
2. Thực trạng.

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

4


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

2.1 Thuận lợi, khó khăn:
* Thuận lợi:
Trường mầm non Cư Pang là một trường vùng sâu, vùng xa và đặc biệt
khó khăn. Nhưng được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng ủy chính quyền địa
phương và sự phối hợp giúp đỡ của hệ thống chính trị từ xã đến thôn, buôn.
Đặc biệt là có sự cần cù chịu khó và tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của
tập thể cán bộ, giáo viên trong nhà trường và sự hỗ trợ của nhà tài trợ công ty cà
phê Dăk Man. Đã xây dựng CSVC, tạo cảnh quan môi trường xanh – sạch – đẹp
để cha mẹ học sinh yên tâm cho trẻ đến trường.
Đội ngũ giáo viên là người địa phương, đã thực sự yên tâm trong công tác
giảng dạy. Và thực hiện tốt chuyên đề về tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
* Khó khăn:
Một số điểm lẻ còn học nhờ ở nhà cộng đồng và trường Tiểu học nên bất
cập trong việc giảng dạy. Giáo viên dạy trẻ DTTS hiểu biết tiếng DT còn hạn

chế nên trong quá trình giao tiếp đối với trẻ gặp nhiều khó khăn.
Mặt bằng kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu làm ruộng, làm nương,
một số cha mẹ học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy tiếng
Việt cho trẻ có tác dụng như thế nào trong việc nhận thức và hình thành nhân
cách của trẻ.
Tài liệu dạy dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số chưa có.
2.2 Thành công, hạn chế:
* Thành công:
Cha mẹ học sinh đa số đã quan tâm đến việc học của con em mình nên số
trẻ ra trường lớp mầm non tương đối tăng so với các năm học trước như: Năm
học 2014-2015 tổng số học sinh 227 cháu; năm học 2015-2016 tổng số học sinh
259 cháu.
* Hạn chế:
Đa số giáo viên trẻ, mới ra trường nên kinh nghiệm chưa cao trong việc
dạy lồng ghép Tiếng Việt để dạy cho trẻ.
90 % học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số tâm lí nhút nhát, hay sợ
hãi, ngại giao tiếp với người lạ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác dạy Tiếng
Việt cho trẻ.
Trẻ chưa có tâm lí sẵn sàng cho một môi trường học tập mới.

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

5


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến con em mình, phó mặc cho
nhà trường, cho nên việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường còn gặp nhiều khó
khăn.

2.3 Mặt mạnh, mặt yếu :
* Mặt mạnh:
Được sự quan tâm tạo điều kiện từ các cấp Lãnh đạo, nhà tài trợ công ty
Dăk Man đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học. Hiện nay trường chúng
tôi đã có môi trường thoáng mát, xanh – sạch – đẹp đầy đủ tiện nghi và đảm bảo
an toàn cho trẻ.
Ban giám hiệu nhà trường dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác
chuyên môn hoạt động dạy và học.
Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, tận tụy với nghề, có
trình độ chuẩn, trên chuẩn về chuyên môn, thường xuyên được ban giám hiệu
nhà trường tạo điều kiện cho đi tham gia các lớp tập huấn về chuyên đề về tăng
cường Tiếng Việt cho trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trẻ được học theo đúng độ tuổi và thực hiện chương trình giáo dục mầm
non mới của Bộ GD&ĐT.
* Mặt yếu :
Phân hiệu lẻ ở 3 buôn còn thiếu CSVC lớp học, nên ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác dạy và học của trẻ.
2.4 Các nguyên nhân,các yếu tố tác động
* Nguyên nhân dẫn đến thành công của đề tài này là.
Hiệu trưởng có trách nhiệm cao trong toàn bộ các công việc, các mặt hoạt
động của nhà trường. Đã chỉ đạo kịp thời cho chuyên môn tiến hành khảo sát
năng lực giáo viên trong trường vào đầu năm, theo dõi các hoạt động để tìm ra
nguyên nhân, có biện pháp giúp đỡ cho phù hợp.
Luôn bám sát và thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà ngành đã triển khai
một cách chủ động, sáng tạo dựa trên thực tế trường lớp, địa phương.
Giáo viên nhiệt tình, chịu khó học hỏi kinh nghiệm để không ngừng nâng
cao chuyên môn, nghiệp vụ.
Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp đặc biệt là những
đồng nghiệp công tác lâu năm trong trường.
* Hạn chế, yếu kém.

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

6


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Trẻ chưa tự tin, còn nhút nhát trong các hoạt động giao tiếp. Trẻ chưa có
tâm lí sẵn sàng cho một môi trường học tập mới
Một số cha mẹ chưa thực sự quan tâm tới việc học tập dẫn đến khi tiếp
xúc với người khác trẻ còn dùng tiếng mẹ đẻ.
2.5 Phân tích, đánh giá thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Vào đầu năm học khi nhà trường chưa có kế hoạch đưa các biện pháp dạy
tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì chúng ta thấy kết quả được thể hiện qua
bảng kiểm tra đầu năm như sau:
Lĩnh vực GD trẻ
Phát triển ngôn ngữ
Phát triển nhận thức
Phát triển TC-XH
Phát triển thể chất
Phát triển thẩm mỹ

Trẻ không hiểu
102/209=48,8%
105/209=50,2%
103/209=49,2%
80/209=38,2%
70/209=33,4%

Trẻ hiểu

68/209=32,5%
70/209=33,4%
72/209=34,4%
76/209=36,3%
72/209=34,4%

Trẻ rất hiểu
39/209=18,6%
34/209=16,2%
34/209=16,2%
53/209=25,3%
67/209=32,0%

* Mặt mạnh:
Giáo viên đã tham gia tích cực trong công tác dạy Tiếng Việt cho trẻ em
vùng đồng bào DTTS, đã tuyên truyền tới các bậc cha mẹ học sinh biết được
tầm quan trọng của việc sử dụng Tiếng Việt trong trường Mầm non.
Luôn học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, biết lắng nghe, biết sửa sai,
không bảo thủ nên chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.
Các đồng chí giáo viên được bố trí 02 cô / lớp, 01 giáo viên người kinh,
01 giáo viên người đồng bào DTTS để tiện trong việc tiếp xúc với trẻ.
Được sự quan tâm của các cấp nhất là công ty cà phê Dăk Man Việt Nam
trang bị về cơ sở vật chất cho nên thuận tiện trong việc giảng dạy và vui chơi
học tập của trẻ.
* Hạn chế
Do một số giáo viên người kinh ít tiếp xúc với trẻ em người đồng bào
DTTS cho nên bất đồng ngôn ngữ trong giao tiếp.
Tài liệu dùng cho giáo viên giảng dạy vùng đồng bào DTTS chưa có, giáo
viên phải tự tìm tòi, học hỏi cho nên còn bất cập trong công tác giảng dạy.


3. Giải pháp, biện pháp:

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

7


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Tìm ra các giải pháp, biện pháp giúp giáo viên nắm vững phương pháp sử
dụng lồng ghép dạy Tiếng Việt một cách có hiệu quả đối với trẻ.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
a. Giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như: phát triển về thể chất,
tình cảm, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách con người mới, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí,
năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù
hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền
tảng cho việc học ở những lớp tiếp theo.
Giúp cho cha mẹ học sinh nhận thức được tầm quan trọng trong việc học
Tiếng Việt của trẻ.
* Hướng dẫn giáo viên dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái
Tiếng Việt:
Cung cấp Tiếng Việt cho trẻ qua môn làm quen chữ cái
Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng
chữ cái. Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc
làm quen với Tiếng việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải
là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với Tiếng việt .Cách gọi
làm quen với Tiếng việt thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so với
cách gọi làm quen với chữ cái .Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm quen với

Tiếng việt không chỉ là dạy trẻ phát âm ,dạy trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ
đọc đúng các từ, hiểu được nội dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành
câu, muốn được như vậy trước hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29
chư cái trong Tiếng việt.
Có một số ít trẻ nói được Tiếng việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của
Tiếng việt .Vì vậy ,việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính
xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để tìm được
chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái tương ứng .
Ví dụ : Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ h - k chẳng hạn :
Cô cho trẻ xem tranh " Hoa loa kèn" cho trẻ đọc từ : Hoa loa kèn
Trẻ nhận biết trong từ Hoa loa kèn có bao nhiêu tiếng ? Có mấy con chữ
cái ?
Rồi cô ghép thẻ từ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi
phát âm lại những chữ đó .Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen h- k, tôi phân
tích các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái H-K, cho trẻ phát âm chữ h-k nhiều lần

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

8


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

giúp trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng
chữ cái.
Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua các trò chơi chữ cái :
Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong Tiếng việt tôi
tiến hành cho giáo viên thực hiện tiếp thông qua các trò chơi chữ cái.
Điều đáng chú ý là trẻ Mẫu giáo Làng yều rất ham thích được học qua hình
ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi .Mỗi khi được nhìn

thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và cùng nhau khám phá
.nắm bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi
hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội
dung từng chủ điểm.
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái H-K trong bài thơ " Hoa kết trái"
Thông qua các trò chơi trẻ được phát triển ngôn ngữ qua các chữ cái đã học như
chữ H-K, phát âm đúng các chữ cái đã học qua trò chơi , " Xếp chữ cái bằng hột
hạt". " Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái"...
Bên cạnh đó tôi luôn hướng dẫn giáo viên làm thêm một số đồ dùng tự tạo
có gắn chữ cái đã học ở các góc trong lớp, ngoài lớp học. Từ đó cũng góp phần
không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ.
Cung cấp Tiếng việt thông qua tập tô :
Thông qua môn tập tô nhằm cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản về
cách tô nét cơ bản và tô đúng mẫu quy trình chữ cái đối với trẻ buôn đồng bào
DTTS lại càng khó khăn. Vì trẻ chưa biết cầm bút, chưa có ý thức học tập. Bên
cạnh đó tính cách của trẻ rất hiếu động, ít chịu ngồi im và lắng nghe cô dạy. Vì
trẻ từ nhỏ đã quá tự do, ít được sự quan tâm dạy dỗ của ba mẹ. Vì vậy trẻ rất cần
sự uốn nén dìu dắt của cô giáo ngay từ những buổi học đầu tiên. Bản thân tôi
làm công tác quản lý luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những biện pháp phù hợp
áp dụng vào dạy trẻ, giúp cháu tô đúng quy trình, nét tô mạch lạc, cầm bút đúng
cách và ham thích học. Tôi hướng dãn tập tô các nét cơ bản của chữ cái ( ở một
số tuần đầu ) các nét thẳng, nét cong, nét móc trên, nét mọc dưới, nét khuyết trên
, nét khuyết dưới... sau tập tô dần các chữ cái viết thường, in thường. Cô luyện
cho trẻ tập tô chữ theo từng bước như sau: Nhận dạng mẫu chữ, tìm hiểu cấu tạo
chữ gồm những nét cơ bản nào.
Ví dụ : Chữ h in thường gồm có nét thẳng đứng kết hợp nét móc trên.
Chữ h viết thường gồm có nét khuyết trên kết hợp nét móc hai đầu ...
Tôi hướng dấn cho giáo viên cách thực hiện trẻ tập tô như sau: Điểm đặt
bút trên một ô li nhỏ đưa bút lên sang phải một nét xiên đến ô li thứ 5 đưa bút
cong sang trái sổ thẳng cho trẻ tô viết được nét khuyết trên, tiếp theo trẻ đưa bút

lên đến đường ngang ô li thứ 2( từ dưới lên) đưa bút sang phải rồi sổ thẳng
xuống đá hất ra, điểm kết thúc là gần hết 1 ô li cuối cùng, qua nhiều lần tôi

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

9


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

hướng dẫn trẻ tỉ mỹ cho giáo viên tô đúng quy trình, vì vậy trẻ không còn tô
ngược và nhất là nhiều trẻ tô đẹp, đúng hàng.
Ngoài ra tôi còn cho giáo viên tập cho trẻ tập tô vào bảng con, vào vở tập
tô in sẳn, vào vở ở nhà của trẻ, lần nào cũng vậy tôi đều hướng dẫn cụ thể, rõ
ràng cho trẻ dễ hiểu vì đặc điểm của trẻ dân tộc thiểu số tiếp thu rất chậm nhưng
lại quên rất nhanh, kết hợp cho trẻ tô viết các nét cơ bản hay tô viết các chữ cái
tôi đều cho trẻ luyện phát âm theo cô nhiều lần. Dần dần tôi thấy trẻ có phần tiến
bộ hơn ham thích được tô viết, tô viết mạch lạc, nhiều trẻ tô đúng quy trình và
phát âm chuẩn các chữ cái. Tôi rất vui vì đã áp dụng ngôn ngữ Tiếng Việt vào
môn học này.
Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua môn văn học:
Qua một số bài thơ, câu chuyện mà giáo viên dạy trẻ, sau khi được tiếp
xúc với đề tài nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng
ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. nội dung câu
chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một
cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các
nhân vật trong chuyện, Chính nhờ như trẻ em vùng đồng bào càng ngày càng
ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách
hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số của
tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và

tiếp tục áp dụng một số biện pháp để nâng cao vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua
môn văn học.
Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi :
Thực tế như trường chúng tôi cho ta thấy rằng giáo viên người kinh dạy
cho trẻ vùng đồng bào DTTS bất đồng ngôn ngữ rất khó khăn trong giao tiếp, vì
vậy ngoài những biện pháp nêu trên tôi còn cho giáo viên tham gia học lớp tiếng
Êđê, sau khi giáo viên áp dụng trong công tác giảng dạy càng ngày có hiệu quả
hơn trong cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ thông qua hoạt động ở mọi lúc mọi
nơi.
Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm,
mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp
xúc với vốn tiếng việt bằng phương châm " Học nữa, học mãi" cho nên việc
cung cấp ngôn ngữ Tiếng việc ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng quan trọng.
Trong giờ đón trẻ tôi hướng dẫn cho giáo viên luôn thân thiện với trẻ, gọi
trẻ ân cần vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chãi tóc cho trẻ và hỏi
những câu hỏi như: Ai mua áo quần đẹp cho con. Nhà con gồm có những ai ?.
Nhà con có mấy anh chị em?; bố con làm việc gì ?; mẹ con có thương con
không?. ...Qua trò chuyện với trẻ như vậy giáo viên nắm được khả năng phát âm
của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng,
phát âm chuẩn.
Giờ chơi tự do tôi cho giáo viên dẫn trẻ đi xung quanh trường, trò chuyện
với trẻ về vườn rau, cây cảnh, hỏi trẻ về một số loại cây có gắn các chữ cái đã
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

10


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

học, giáo viên hướng dẫn trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm chữ cái

đã học qua nhiều lần như vậy trẻ phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong
giao tiếp với cô, với bạn, hoặc mạnh dạn trong giao tiếp với cô, trẻ không còn
rụt rè như trước nữa.
Trong các giờ hoạt động vui chơi tôi hướng dẫn cho giáo viên tập cho trẻ
trong giờ đóng kịch đóng các vai khác nhau, từng nhân vật trẻ thể hiện khác
nhau, có vai thiện, vai ác trẻ thể hiện được các nhân vật của mình, qua tiếp xúc
với bạn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách rõ rệt. Chính nhờ vậy mà đa số trẻ biết
dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và với cô.
Kết hợp với cha mẹ học sinh:
Trong các buổi học trẻ được tiếp xúc với cô rất nhiều như chúng ta biết
việc phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ. Vì vậy
cuối năm học tôi tiến hành cho mời cha mẹ học sinh đến họp, thông báo kết quả
học tập của trẻ cho cha mẹ học sinh biết được khả năng tiếp thu kiến thức bài
học bằng ngôn ngữ Tiếng việt của trẻ ra sao để cha mẹ học sinh kết hợp, hợp tác
trong việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ ở nhà như: Cha mẹ dùng Tiếng việt để
trao đổi với con em nhiều hơn, kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học chữ
cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc chữ cái, viết được chữ cái, phát âm đúng chữ
cái và nhất là nói thạo Tiếng việt nhất định để trẻ tiếp thu bài một cách dễ dàng,
học giỏi hơn trong cấp học mầm non và nhất là trong các cấp học sau này. Từ
những lời nói ấy đã thúc đẩy cha mẹ học sinh quan tâm nhiều hơn đến việc cung
cấp vốn tiếng việt ở nhà cho trẻ. Cho nên trường chúng tôi hiện nay nói thành
thạo ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không
còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu
cùng giáo viên và các bạn của trẻ.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Đối với trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số việc nắm được vốn Tiếng
Việt là hết sức quan trọng trẻ được tiếp xúc qua môi trường học tập, sinh hoạt,
từ đó trẻ bắt đầu thích nghi với quan hệ với mọi người một cách thực thụ.
Khi trẻ đến trường Tiểu học, trẻ được hòa nhập vào những mối quan hệ
mới với người xung quanh như: thầy, cô, bạn bè và những người lớn xung

quanh... Khác với trường mầm non, trẻ sống trong cuộc sống, sinh hoạt như gia
đình. Hơn nữa ở mỗi giai đoạn phát triển đều có những yêu cầu về tâm, sinh lý,
về xã hội đòi hỏi mỗi học sinh phải thích ứng với hoạt động học tập. Nếu chúng
ta không chuẩn bị tốt cho trẻ vốn Tiếng Việt thì việc học tập sau này sẽ không
đạt kết quả như mong muốn.
Trong điều kiện hiện tại trường chúng tôi nhận thấy học sinh đa số là
người đồng bào DTTS cần phải suy nghĩ, làm thế nào đó để giúp giáo viên, cha

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

11


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

mẹ học sinh hiểu được tầm quan trọng trong việc nắm vững Tiếng Việt khi vào
trường phổ thông. Vì vậy mà tôi đã tìm ra được một số giải pháp sau:
b1: Làm tốt công tác tuyên truyền cho cha mẹ học sinh trên địa bàn hiểu
được tầm quan trọng công tác dạy trẻ nắm được được Tiếng Việt
Vào đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường tổ chức triển khai đến tận cán
bộ giáo viên về nhiệm vụ năm học đề ra và nhất là các chuyên đề lồng ghép
Tiếng Việt cho trẻ em vùng đồng bào DTTS. và kịp thời chỉ đạo cho chuyên
môn hướng dẫn giáo viên làm tốt công tác dạy Tiết Việt cho trẻ nắm được khi
bước vào trường phổ thông.
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền tới cha mẹ học sinh về công tác huy
động trẻ đến trường, tổ chức họp cha mẹ học sinh phối hợp về công tác chăm
sóc giáo dục trẻ và kết hợp lồng ghép tăng cường Tiếng Việt cho trẻ.
Về phía nhà trường thường xuyên phối hợp với chuyên môn tổ chức thao
giảng, dự giờ cho giáo viên qua các môn học như : Làm quen chữ cái, thơ
chuyện, phát triển vận động. Qua các hội thi sẽ tạo nên sự chuyển biến một cách

rõ rệt, để cha mẹ học sinh hiểu được tầm quan trọng trong việc dạy Tiếng Việt
cho trẻ em đồng bào DTTS.
b2. Làm tốt việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đây là tiền đề quan trọng chuẩn bị tốt cho trẻ vào lớp 1, không gây trở
ngại việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy gia đình, nhà
trường cần kết hợp để rèn luyện kỹ năng giao tiếp và chú trọng phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Trong việc giao tiếp của trẻ vùng đồng bào DTTS thì việc nói tốt
tiếng Việt có thể nói là quan trọng cho việc trẻ học đọc, học viết khi vào lớp 1.
Thực tế cho thấy, trẻ muốn giỏi các môn khác thì trước tiên phải giỏi môn tiếng
Việt.
Ở trường mầm non, giáo viên cần mở rộng vốn từ bằng những gì gần gũi,
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Ở nhà cha mẹ có thể ôn lại những bài học
đó cho con bằng tiếng Việt (hạn chế nói tiếng mẹ đẻ). Nói chuyện với con, cắt
nghĩa của từ cho con hiểu là sự chuẩn bị tốt cho việc đọc, viết ở lớp 1của trẻ. Vì
chúng ta biết ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ
về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức,
thẩm mỹ, đồng thời ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập công đồng.
Nhà trường và gia đình phải tạo cho con lòng tự tin, ý thức kỷ luật, hành
vi văn minh, biết thương yêu giúp đỡ mọi người và có ý thức giữ gìn của công…

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

12


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Đó là những việc đơn giản nhưng thiết thực để hình thành kỹ năng sống cho trẻ
ở bậc học tiếp theo. Tuyệt đối không cho trẻ học trước chương trình lớp 1 mà
chỉ dạy trẻ phát âm, tô đúng 29 chữ cái trong chương trình mẫu giáo, rèn luyện

cơ tay, phối hợp các trò chơi vận động giúp cho cơ thể dẻo dai và đôi tay khéo
léo sau này.
Giáo dục cho trẻ có ý thức tự giác về bản thân như: Chơi xong tự cất đồ
chơi. Đặt câu hỏi để khích thích trẻ biểu lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình
thông qua tranh ảnh, hình vẽ, thơ, truỵên. Giáo dục trẻ có thói quen tự phục vụ
bản thân như: biết tự mặc áo, sắp xếp bàn học, bàn ăn…. Giúp trẻ lựa chọn và
tham gia các hoạt động chơi nhằm phát triển tính tự tin, tự lực và sáng tạo của
trẻ, từ đó kích thích lòng mong mỏi, hào hứng được đến trường học.
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển trí tuệ, tiếp thu
kiến thức học tập ở trường phổ thông. Hình thành và phát triển kỹ năng nghe,
nói, tiền đọc, tiền viết cho trẻ là nền tảng để trẻ hiểu về thế giới chữ viết và tiếp
nhận nhiều tri thức mới.
b3. Phát triển nhận thức.
Như chúng ta đã biết, ở cuổi tuổi MG chú ý có chủ định đang hình thành
và phát triển nhận thức của trẻ, song chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế. Để
giúp trẻ giải quyết tốt nhiệm vụ học tập ở trường phổ thông sau này, người giáo
viên cần rèn luyện cho các cháu biết tập trung chú ý vào những vấn đề cần thiết,
nhận thức bằng cách giao nhiệm vụ khi các cháu tham gia vào các hoạt động.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động tạo hình giáo viên tổ chức cho trẻ hoạt động
trong lớp theo các nhóm, dưới sự phân công hướng dẫn của giáo viên: Hướng
dẫn cách tô màu sao cho không trùng khít trên trang giấy, các nhóm tập trung vẽ
theo sự hướng dẫn của cô, khi tạo được sản phẩm đẹp cuối giờ cô cho trẻ tự
nhận xét bài vẽ của trẻ, trẻ biết được bài đẹp, bài vẽ chưa hoàn thành, nhận xét
đánh giá qua các câu hỏi của cô từ đó tăng cường thêm vốn Tiếng Việt cho trẻ.
Mỗi giáo viên cần có trách nhiệm kết hợp giữa gia đình với nhà trường
gần gũi với trẻ hơn qua các hành động cử chỉ để trẻ dần làm quen với Tiếng Việt
một chác tự nhiên không gò bó và thông qua môn học trẻ có thể chủ động tập
trung lắng nghe hiểu, tự tin, làm đúng trẻ sẽ tự nói và thực hành với bạn của
mình; giáo viên cần cho trẻ thực hành ở mỗi lần học, giáo viên chỉ sử dụng ngôn
ngữ đơn giản, gắn gọn, không dẫn dắt nhiều vì trẻ chưa hiểu Tiếng Việt. Khi dạy

trẻ giáo viên cần xác định những loại câu, từ, câu nào xẽ sử dụng khi hướng dẫn

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

13


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

trẻ cô nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ ra hiệu cho trẻ để trẻ dễ hiểu ý đồ của
mình thay cho việc nói nhiều của giáo viên. Cần cho trẻ ôn lại ngôn ngữ mà trẻ
đã học từ hôn trước để khác sâu sự nghi nhớ bằng hình thức “Chơi mà học, học
mà chơi” ; ví dụ : Cô hô trời sáng rồi, trười tốt rồi; trò chơi “ Trời mưa” .....
b4. Phát triển thể chất
Trong môi trường học tập vấn đề phát triển thể chất là hết sức quan trọng
trong đó “ Phát triển nguồn lực con người” đã được cả cộng đồng rất là quan
tâm, và sự phát triển thể lực của trẻ ở lứa tuổi mầm non hiện nay là đào tạo con
người một cách toàn diện, bởi lẽ chúng ta dạy cho trẻ phát triển tầm vóc của đứa
trẻ lớn lên hàng ngày trẻ đang phát triển không ngừng theo từng giai đoạn, sự
phát triển thể chất của trẻ được thể hiện qua các môn học, qua các hoạt động, trẻ
có thể lực tốt, phát triển chiều cao và trọng lượng cơ thể, trẻ có sức khỏe bền bỉ,
dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần kinh, cơ bắp, độ khéo léo
của bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác quan… Để có được phẩm chất đó, cần
tạo một chế độ sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi, luyện tập, dạy trẻ rèn luyện một
cách khoa học và hợp lý cả về thời gian và phù hợp với đặc điểm phát triển riêng
của từng trẻ. Ở mỗi bậc học, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phải phù hợp với hoạt
động chủ đạo mà đứa trẻ tham gia. Trẻ có thể lực tốt, khoẻ mạnh, tăng cân đều,
da dẻ hồng hào... tất cả các yếu tố này giúp trẻ tích cực tham gia vào các hoạt
động học tập và vui chơi đạt kết quả tốt nhất. Chính vì vậy việc chuẩn bị tốt về
thể lực cho trẻ phụ thuộc rất nhiều vào chế độ nuôi dưỡng của cô giáo và người

lớn. Khâu chuẩn bị này khó thực hiện được nếu không có sự phối hợp nhịp
nhàng giữa nhà trường với gia đình trẻ trong việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng,
chế độ vui chơi, nghỉ ngơi cho trẻ.
Ví dụ : Qua môn thể dục bò, chạy, ném, trườn, leo trèo phát triển được tố
chất vận động như nhanh nhẹn, mạnh dạn, bền bỉ và khéo léo nhằm cho trẻ có
đủ năng lực đến trường
b5. Phát triển tình cảm xã hội.
Trong chương trình chăm sóc GDMN mới hiện nay, nhất là trong giao
tiếp tình cảm đối với trẻ qua các hoạt động dạy học là môn học giúp trẻ trong
giao tiếp cũng như mọi hoạt động khác. Để đạt được những hiệu quả cao trong
giao tiếp tình cảm xã hội đối với trẻ giáo viên cần tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện
một số kỹ năng sống cơ bản qua hoạt động học.

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

14


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Ví dụ: Thông qua đề tài thơ, chuyện “ Cô và mẹ” khi tiếp xúc với bài thơ
trẻ hiểu được tình cảm giữa mẹ và con, giữa trẻ và cô giáo; qua đàm thoại các
câu hỏi, giáo viên dùng những câu hỏi đơn giản, dễ trả lời để trẻ suy nghĩ trước
khi trả lời với cô, vì ở đây trẻ em người đồng bào DTTS không như vùng thuận
lợi khi trả lời còn lúng túng vì vậy cô giáo cần gợi ý để trẻ trả lời được những
câu hỏi của cô. Cô lồng ghép hướng dẫn các trò chơi như bật qua vòng thể dục,
lên gắn tranh nội dung của bài thơ, câu chuyện. Qua các hoạt động giúp trẻ phát
triển tốt hơn về tình cảm xã hội nói chung và tình cảm của mẹ và cô giáo nói
riêng.
b6. Phát triển thẩm mỹ

Thực tế đã chứng minh trẻ em tri giác sự vật hiện tượng bằng tư duy trực
quan hành động nên rất cần sự hỗ trợ của của giáo viên trong các kỹ năng các
hoạt động như kỹ năng tạo hình, giáo viên cần hướng dẫn trẻ các thao tác,
cách ngồi, cách cầm bút, cách tô màu, vì trẻ em vùng đồng bào DTTS còn
vùng về trong giao tiếp. Chính vì vậy mà cô phải đưa ra các biện pháp rèn kỹ
năng phát triển thẩm mỹ cho trẻ.
Từ việc tạo môi trường thẩm mỹ xung quanh lớp để gây ấn tượng, kích
thích lòng ham muốn ở trẻ tạo ra sản phẩm để được trưng bày trang trí trong
lớp. Để phát huy tính tích cực hoạt động ở trẻ, một trong những phương pháp
của quá trình đổi mới là lấy trẻ làm trung tâm, trẻ phải được hoạt động và sản
phẩm của trẻ phải đa dạng, phong phú, sáng tạo. Qua môn học tạo hình giúp
trẻ nhận biết được các đẹp, cái xấu từ đó phát triển óc thẩm của trẻ.
Ví dụ: Với đề tài: “Vẽ hoa mùa xuân” theo chủ đề thế giới thực vật tôi
hướng dẫn giáo viên đầu giờ cho trẻ đi dạo, đi thăm quan sát và trò chuyện
bằng các câu hỏi:
Đây là hoa gì? Nó có màu gì? Cánh hoa làm sao? …hoa dùng để làm gì ?
…. Như vậy khi hướng dẫn vào tiết dạy sẽ dẽ dàng hơn, trẻ sẽ đoán đúng theo
câu hỏi của cô, cô giáo hướng dẫn cho trẻ cách thực hiện, sau đó cho trẻ vẽ
theo hướng dẫn cho trẻ cách vẽ, cách tô màu cho hoàn hảo; sau khi bài vẽ
hoàn thành cô cho trẻ trưng bày sản phẩm và cho trẻ tự nhận xét về bài vẽ của
các bạn trong lớp. Từ đó phát triển óc thẩm mỹ của trẻ.
c. Phối hợp với cha mẹ học sinh
Hướng dẫn cho giáo viên tuyên truyền về công tác chăm sóc giáo dục trẻ
hiểu được tầm quan trọng trong việc dạy Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào
DTTS.
Từ thực tế trường chúng tôi nhận thấy rằng việc tuyên
truyền cho cha mẹ học sinh, cùng kết hợp với ban ngành, đoàn
thể tuyên truyền về công tác duy trì sĩ số, tăng cường Tiết Việt
cho trẻ.
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên


15


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

3.3 Điều kiện để thực hiện các giải pháp, biện pháp:
Để thực hiện các giải pháp, biện pháp này cần dựa vào tinh hình thực tể
của lớp, của thôn, buôn nơi mình công tác
Tham khảo tài liệu, nghiên cứu trước khi thực hiện.
Đề tài nghiên cứu phải đảm bảo tính thực thi, tính sư phạm, tính phổ
biến, tính sáng tạo hợp lí, phải đảm bảo được phương pháp nghiên cứu phù hợp
với đối tượng nghiên cứu.
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Các giải pháp, biện pháp khi thực hiện đề tài có mối quan hệ liên quan
mật thiết với nhau, biện pháp này nó sẽ hỗ trợ cho biện pháp kia nhằm hòa
quyện các nội dung lại với nhau để đi đến một thể thống nhất là tìm ra các giải
pháp tối ưu nhất nhưng vẫn đảm bảo được tính chính xác, khoa hoc và lô gíc
giữa các giải pháp và biện pháp.
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Sau một thời gian thực hiện, là một hiệu trưởng tôi rất phấn khởi khi kết
quả đạt được rất cao:
Trẻ em đã nắm được vốn Tiếng Việt một cách thành thạo, tích cực tham
gia vào các hoạt động cùng cô để phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ...
đồng thời giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt
Kết quả sau khi hướng dẫn giáo viên sử dụng dạy Tiếng Việt. Giáo viên
có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc công tác dạy Tiếng Việt cho trẻ em vùng
đồng bào DTTS.
4.Kết quả thu được quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu

Với những biện pháp mà bản thân tôi đã đưa ra trong quá trình thực hiện
đề tài nhờ được sự giúp đỡ tận tình của phụ trách chuyên môn, đội ngũ giáo viên
và sự phối kết hợp của các cha mẹ học sinh và sự nổ lực hết mình của bản thân.

Kết quả cuối năm đạt được như sau:
Lĩnh vực GD trẻ

Trẻ không hiểu

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

Trẻ hiểu

Trẻ rất hiểu
16


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

Phát triển ngôn ngữ
Phát triển nhận thức
Phát triển TC-XH
Phát triển thể chất
Phát triển thẩm mỹ

3/209=1,4%
2/209=0,9%
1/209=0,4%
1/209=0,4%
0/209=100%


94/209=44,9%
84/209=40,1%
85/209=40,6%
80/209=38,2%
70/209=33,4%

115/209=55,0%
125/209=59,8%
124/209=59,3%
129/209=61,7%
139/209=66,5%

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận
Việc cung cấp tăng cường vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một
vấn đề rất khó. Đòi hỏi ở cần có sự chỉ đạo sáng suốt của rngười quản lý trường
học và giáo viên phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Luôn tạo tình cảm cho trẻ
giao lưu trò chuyện với cô, nghe hiểu lời nói của cô. Cuốn hút trẻ tham gia vào
các hoạt động phát triển ngôn ngữ thực sự hứng thú. Được thực hiện thông qua
các hoạt động Giáo Dục ở lớp và được tích hợp vào một số hoạt động khác trong
chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ của bản
thân về việc tăng cường tiếng việt ấy tôi đã áp dụng vào dạy dùng đồng bào
DTTS ở trường tôi. Cuối năm học trẻ 95% - 97% trẻ dân tộc thiểu số nói được
tiếng việt lưu loát, đủ câu, đủ ý. Chỉ còn 0,3% số trẻ nói chưa đươc thành thạo
nhưng cũng đã nghe hiểu được tiếng Việt. Qua việc áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số” vào trường mầm non
Cư Pang chúng tôi, tuy là một trường 90% trẻ dân tộc thiểu số.
Cha mẹ học sinh đã hiểu được tầm quan trọng trong công tác dạy Tiếng
Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số. Cha mẹ học sinh rất thích con mình hiểu biết

nhiều về ngôn ngữ Tiếng việt đã kết hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc
dạy tiếng Việt cho con em mình đạt kết quả. Bên cạnh đó cũng gặp không ít khó
khăn. Cháu thường dùng tiếng dân tộc, ít hiểu Tiếng việt nên dẫn đến cháu khó
tiếp thu lời hướng dẫn, chỉ bảo của cô giáo bằng Tiếng việt. Cha mẹ các cháu có
một số không biết chữ, ít quan tâm đến việc học hành của con cái. Trên đây là
một vài kinh nghiệm áp dụng trong quá trình chỉ đạo giáo viên dạy trẻ dân tộc
thiểu số được thực hiện và đạt hiệu quả cao, những biện pháp trên tuy không có
gì mới nhưng đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì vô cùng mới mẽ và có
tác dụng. Tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp
ý bổ sung của bộ phận chuyên môn Mầm non, Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào
tạo huyện Krông Ana.
Đề sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và áp dụng vào dạy trẻ
em vùng đồng bào DTTS. Nghe hiểu và thực hiện tốt các hoạt động ở trường, tự
tin khi bước vào bậc học tiếp theo.

2. Kiến nghị
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

17


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

* Kiến nghị:
Cần có giáo viên trợ giảng thêm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đăng ký tài liệu tham khảo cho giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Cần mở thêm lớp học tiếng Êđê cho giáo viên vùng đồng bào DTTS.
* Đề xuất ý kiến:
Trường chúng tôi còn một số điểm lẻ chưa đủ lớp mẫu giáo. Đề nghị các cấp
lãnh đạo quan tâm hơn nữa về kinh phí hoạt động, cấp quỹ đất cho trường để

xây dựng CSVC nhằm đảm bảo công tác dạy và học ở vùng đồng bào DTTS.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra từ tình hình
thức tế ở trường MN Cư Pang. Qua sáng kiến kinh nghiệm đã viết không thể
tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự góp ý của cấp trên, để sáng kiến này hoàn
thiện và được áp dụng vào thực tế./.

Người viết

Lê Thị Hạnh Viên

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên

18


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên


19


Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiết Việt cho trẻ vùng đồng bào DTTS

STT

Tên tài liệu

1

Điều lệ trường Mầm non ban hành kèm
theo Quyết định số 14 /2008/QĐ-BGDĐT
ngày 07 tháng 4 năm 2008 của

Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo

2

Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên
(Quyết định số 02 đối với giáo viên Mầm
non

Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo

3

Tài liệu bồi dưỡng cho cán bộ quản lí và

giáo viên Mầm Non năm học 2014-2015.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo

4

Tài liệu tập huấn về phát triển tiếng Việt
cho trẻ dân tộc vùng khó khăn.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo

Tài liệu BDTX Năm 2013 gồm 44 mô
đun.

BỒI DƯỠNG
THƯỜNG XUYÊN
GIÁO VIÊN MẦM
NON
(Ban hành kèm theo
Thông tư số 36 /
2011/TT- BGDĐT ngày
17 tháng 8 năm 2011
của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo)

5

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh Viên


Tác giả

20



×