Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

“Nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh trong thời kì hội nhập – Thực trạng và giải pháp”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người và là một trong những nguồn lực quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, việc phát triển nguồn nhân lực trở
thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy
đủ dến con người là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh của mỗi quốc gia. Đầu
tư cho con người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát tiển bền vững. Ngay từ những năm
60 của thế kỷ XX, nhiều nước đã có được sự tăng trưởng kinh tế nhanh và mạnh thông
qua quá trình công nghiệp hóa, hay nói cách khác là thông qua việc phát triển khoa học
công nghệ gắn liền với việc phát triển nguồn nhân lực. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới
đã chứng minh để đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định phải thông qua việc
nâng cao chất lượng đội ngũ lao động kỹ thuật – nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ:
“Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao” [26, tr.20].
Nhằm bảo đảm nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIII (2010- 22015) đã đề ra
nhiệm vụ sau: “Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực có chất lượng toàn diện, cả về sức
khỏe thể chất, trình độ học vấn, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, đời
sống văn hóa tinh thần” [7, tr.19]. Nhằm đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế quốc tế của tỉnh nhà.
Ở Việt Nam sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ngành du lịch đã có lịch sử 50 năm
phát triển. Năm 1960 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 26/CP, ngày
09/07/1960, thành lập công ty du lịch Việt Nam. Trong suốt 50 năm hình thành và phát
triển, ngành du lịch đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, ở mỗi thời kỳ đều xá định vị trí

1


của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu
cách mạng.


Ngày nay, du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến không chỉ ở
các nước phát triển mà cũng ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Quảng Ninh du
lịch tạo ra một nguồn lợi nhuận khá lớn, giải quyết công ăn việc làm, đồng thời thúc đẩy
các dịch vụ khác phát triển. Song để khai thác tối đa những hiệu quả kinh tế - xã hội ma
du lịch mang lại thì cầ đầu tư các nguồn lực để phát triển du lịch một cách xứng đáng. Mà
một trong những nguồn lực quang trọng nhất đó là nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực ngành du lịch của Quảng Ninh đang ngày càng gia tăng cả về số
lượng và chất lượng, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cũng như sự phát triển
của ngành. Nhìn chung nguồn nhân lực ngành du lịch Quảng Ninh hiện nay cuãng thiếu
về số lượng và yếu về chất lượng, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh nói riêng và sự
phát triển của ngành du lịch cả nước nói chung, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Trong những năm gần đây, mặc dù cũng gặp nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới nhưng ngành du lịch Quảng Ninh đã có những bước phát triển vượt bậc,
cả về số lượng, chất lượng dịch vụ, trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh với tổng
doanh thu gần 3.000 tỷ đồng, bằng tổng GDP của nhiều tỉnh, thành. Hiện tại cùng với Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh đã và đang là một trong ba trung tâm du lịch
lớn của cả nước. Chất lượng phục vụ của ngành đó đạt đến đẳng cấp 4 sao theo tiêu
chuẩn quốc tế. Theo đánh giá của Tổng cục du lịch Quảng Ninh chỉ xếp sau Thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nguồn nhân lực đối với sự phát triển
của ngành du lịch Quảng Ninh, chúng em xin lựa chọn vế đề: “Nguồn nhân lực ngành du
lịch tỉnh Quảng Ninh trong thời kì hội nhập – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên
cứu khoa học của mình, với mong muốn đề tài này có thể phần nào làm rõ thực trạng chất
2


lượng nguồn nhân lực ngành du lịch Quảng Ninh, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu,
qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực, để thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội nói chung của tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển của lịch sử, do đó vấn
đề con người, đặc biệt là vấn đề nhân tố con người luôn luôn là đối tượng thu hút sự quan
tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư khai thác, phát huy có hiệu quả vai trò nhân
tố con người.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô Viết trước đây đã
nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của nhân tố con người. Có nhiều đề
tài và công trình của các nhà khoa học Xô Viết đi sâu vào nghiên cứu về mối quan hệ
giữa nhân tố con người và các nhân tố kinh tế, vật chất kỹ thuật trong cấu trúc nền sản
xuất xã hội. Công trình nghiên cứu của nữ viện sĩ Giaxlapxkaia về công bằng xã hội và
nhân tố con người những năm 1986 – 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội nghị khoa học giữa
các nhà khoa học Xô Viết và Việt Nam tổ chức tại hà Nội vào năm 1988 đã tập trung trao
đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người và phát triển kinh tế xã
hội.
Theo hướng này ở nước ta các nhà khoa học cuãng đã có nhiều hoạt động sôi nổi
về nghiên cứu vấn đề con người. Đại hội lần thứ VIII của Đảng, các nhà hoa học đi sâu
nghiên cứu vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ hội
nhập quốc tế, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết đã thể hiện quan điểm
coi con người là nguồn tài nguyên vô giá và sự cần thiết phải đầu tư vào việc bảo toàn,
phát triển và nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên này, lấy nó làm đòn bẩy để phát triển
kinh tế, để công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Những bài viết những công trình khoa
3


học đó được đăng trên các báo chí, tạp chí, sách báo, chẳng hạn như: “Xây dựng nền tảng
tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp tục thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển nguồn
lực con người Việt Nam” của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (Tạp chí phát triển giáo

dục tháng 04/1998); “Tài nguyên con người trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước” của Nguyễn Quang Du (Thông tin lý luận 11/1994); “Nguồn nhân lực trong
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” của GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn(triết học số 2 –
1994); “Nguồn lực con người, nhân tố quyết định của quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa” của Phạm Ngọc Anh (Nghiên cứu lý luận số 2 – 1995); công trình nghiên cứu:
“Điều tra, đánh giá trình độ nguồn nhân lực khoa học – Công nghệ trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh. Đề xuất giải pháp sử dụng phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2005- 2020”
của ông Nguyễn Tiến Thu giám đốc sở nội vụ làm chủ nhiệm đề tài năm 2007.
Như vậy hầu hết các đề tài đã tập trung nghiên cứu các phương diện khác nhau của
sự phát triển con người Việt Nam và đề xuất những giải pháp để phát huy nguồn lực con
người, từ giáo dục – đào tạo đến giải quyết việc làm, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm
phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Ngoài những công trình
đó còn rất nhiều tác giả với những công trình nghiên cứu khác đã dề cập đến vấn đề
nguồn nhân lực ở nước ta bằng nhiền cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên những công
trình đi sâu, phân tích nguồn nhân lực ngành du lịch trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế ở Quảng Ninh chưa được đề cập đến, đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng
cho việc nâng caochất lượng nguồn nhân lực Quảng Ninh. Những nội dung được đề cập
trong luận văn là cố gắng tìm tòi, nghiên cứu của tác giả trong những lĩnh vực đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi xác
định mục đích của đề tài là: Trên cơ sở phân tích thực trạng của nguồn nhân lực ngành du

4


lịch tỉnh Quảng Ninh hiện nay mà đề xuất một số giải pháp cấp bách nhằm xây dựng
nguồn nhân lực ngành du lịch Quảng Ninh trong thời kì hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng của chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch Quảng Ninh hiện

nay. Rút ra những điểm mạnh, điểm yếu của chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du
lịch Quảng Ninh.
Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của Nguồn
nhân lực ngành Du lịch Quảng Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Về nguồn nhân lực ngành du lịch Quảng Ninh trong thời
kì hội nhập.
- Phạm vi nghiên cứu: Nguồn nhân lực ngành Du lịch Quảng Ninh trong thời kì
hội nhập quốc tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các
quan điểm khoa học hiện đại về nguồn nhân lực.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và logic, quy nạp và diễn dịch, phân tích và
tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt
động quản lý nguồn nhân lực đối với ngành du lịch.
- Ý nghĩa thực tiễn: Cung cấp một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường chất lượng
hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh.
5


Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo có ích cho các
doanh nghiệp và cơ quan có chức năng trong việc xây dựng các kế hoạch, định hướng
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ở Quảng Ninh hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 2

chương và 6 tiết.
Chương 1: Tổng quan về nguồn nhân lực ngành du lịch
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành du lịch Quảng Ninh trong thời kì hiện nay

6


NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH
1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh
tế như: Tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học – công nghệ, con người...trong đó thì
nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù tài nguyên thiên
nhiên phong phú, khoa học kĩ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ
để khai thác các nguồn lực đó thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Thuật ngữ nguồn nhân lực (Human resources ) xuất hiện và thập niên 80 của thế kỉ
XX khi mà tính chủ động sáng tạo của người lao động được đề cao. Thay vì sử dụng
phương thức quản trị nhân viên coi người lao động là lực lượng thụ động, thừa hành –
phương thức quản trị nguồn nhân lực (Human resources management ) – coi trọng việc
tạo môi trường cho người lao động phát huy hả năng vốn có ở mức cao nhất thông qua
quá trình học tập, phát triển và cống hiến cho tổ chức. Phương thức quản trị nguồn nhân
lực cho thấy tính hiệu quả cao hơn và chính từ đó thuật ngữ nguồn nhân lực được biết
đến nhiều hơn. Có khá nhiều thuật ngữ khác nhau về nguồn nhân lực, chẳng hạn như:
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy
được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Begg, Fischer và Dornhusch, 2008).
Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người (Thể lực,

trí lực, kĩ năng, nghề nghiệp, v.v.) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được quá
trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt đọng nào đó.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (Với quy mô, loại hình,
chức năng hác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ
7


chức cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới. Cách hiểu
này về nguồn nhân lực xuất phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các
yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung
của các tổ chức.
Đây là những khái niệm thường gặp và chung nhất về nguồn nhân lực. Cách hiểu
này xuất phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh
thần tạo nên năng lực, sức mạh phục vụ cho tổ chức nói chung.
Trong báo cáo của Liên hợp quốc đánh giá những tác động của toàn cầu hóa đối
với nguồn nhân lực đã đưa ra định nghĩa: Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề và năng
lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế
- xã hội trong một cộng đồng. Nguồn nhân lực là toàn bộ những kĩ năng, kinh nghiệm,
năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và
đát nước. Quan niệm về nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận này có phần thiên về chất
lượng nguồn nhân lực. Trong quan niệm này, điểm được đánh giá cao là coi các tiềm
năng của con người cững là năng lực khả năng để từ đó có những cơ chế thích hợp trong
quản lí, sử dụng.
Ngoài ra một nghiên cứu khác do ngân hàng Thế giới (WB) tiến hành đã có nhận
định: Nguồn nhân lực là toàn vộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kĩ năng nghề
nghiệp...của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi là nguồn vốn
bên cạnh các loại vốn vật chất khác: Tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Ở nước ta nguồn nhân lực theo quy định pháp luật được hiểu là một bộ phận của
dân số bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định
của Bộ luật Lao động Việt Nam (Nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55 tuổi).

Trên cơ sở đó một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định: nguồn nhân lực hay
nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó, lực
lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao

8


động có nhu cầu nhưng không có việc làm (Người thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm
học sinh trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động.
Như vậy, mặc dù có những biểu hiện khác nhau nhưng nguồn nhân lực một quốc
gia phản ánh khả năng lao động của một xã hội. Ngoài ra còn thấy ba điểm chung mà ta
có thể nhận thấy qua các quan niệm trên về nguồn nhân lực là:
- Số lượng nhân lực: Nói đến nguồn nhân của bất kỳ một quốc gia nào, một địa
phương, một tổ chức nào đó câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người và sẽ có thêm
bao nhiêu nữa trong tương lai. Đây là những câu hỏi cho việc xác định số lượng nguồn
nhân lực. Sự phát triển của số lượng nguồn nhân lực dựa trên hai nhóm: Yếu tố bên trong
(Nhu cầu mở rộng qui mô, mở rộng sản xuất ...), và những yếu tố bên ngoài (sự gia tăng
về dân số hay hiện tượng di dân).
- Chất lượng nhân lực: Chất lượng nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ
phận như: trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khỏe, thẩm mỹ... của người
lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc
xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
- Cơ cấu nhân lực: Cơ cấu nhân lực là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh giá
về nguồn nhân lực. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phương diện khác nhaunhuw cơ cấu
trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi...cơ cấu nguồn nhân lực của một quốc gia nói chung
được quyết định bởi cơ cấu đạo tạo, và cơ cấu kinh tế theo đó sẽ có một tỷ lệ nhất định
nhân lực. Chẳng hạn như cơ cấu nhân lực lao động trong khu vực kinh tế tư nhân của các
nước trên thế giói phổ biến là 5- 3- 1 ( 5 công nhân kỹ thuật, 3 trung cấp nghề và 1 kỹ
sư), đối với nước ta cơ cấu này có vẻ ngược lại tức là người cps trình độ đại học, trên đại
học nhiền hơn số công nhân kỹ thuật, hay cơ cấu nhân lực về giwois tính trong khu vực

công ở nước ta cũng có những biểu hiện mất cân đối.
Như vậy, nói tới nguồn lực con người là nói đến số lượng, chất lượng, và cơ cấu
nguồn nhân lực. Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một
cách chặt chẽ. Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho việc phân
9


công lao động xã hội và do vậy chất lượng lao động cuãng bị hạn chế. Chất lượng nguồn
lực con người nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một đơn vị
sản xuất, kinh doanh hay giảm số lượng người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng
thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể người trong lao động
sản xuất, hoạt động xã hội.
Nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm các yếu tố số lượng, chất
lượng và cơ cấu phát triển người lao động nói chung cả ở hiện tại và tương lai, tiềm năng
của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới.Để đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những người lao động phải được đào tạo,
phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một
quốc gia có lực lượng lao động đông đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các
ngành, các vùng, cơ cấu đạo tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao
động đó không những không trở thành nguồn lực để phát triển, mà nhiều khi còn là gánh
nặng cản trở sự phát triển của tổ chức.
Nguồn nhân lực xã hội là khái niệm gắn liền với khái niệm dân số và lao động.
thông qua đó mà người ta có thể xác định được cụ thể nguồn nhân lực toàn xã hội tại thời
điểm nhất định, nguồn nhân lực xã hội được coi là bộ phận quan trọng của dân số, là
nguồn lao động tiềm tàng của mỗi quốc gia.
Nguồn nhân lực trong tổ chức là nguồn lực con người, nhân tố con người trong
một tổ chức cụ thể (Cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện...) “Là tổng
số cán bộ, nhân viên có trong danh sách hoạt động theo các nhiệm vụ của tổ chức và
được tổ chức trả lương”.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Trong thời đai ngày nay, con người được coi là một tài nguyên đặc biệt, một nguồn
lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực
trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực của mỗi
10


quốc gia. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta xác định: chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố
đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đầu tư cho con người là yếu
tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia được quyết định bởi chất
lượng nguồn nhân lực của chính quốc gia ấy. Phát tiển kinh tế xã hội dựa trên nhiều
nguồn lực (nguồn lực con người), vật lực (nguồn lực vật chất), tài lực (nguồn lực về tài
chính, tiền tệ), vv...Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát
triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn
lực con người. Bởi chính con người tạo ra những máy móc, thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự
điều khiển, kiểm tra của con người thì chúng cũng chỉ là những vật vô tri vô giác. Chỉ có
tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào họt động theo mục đích
của con người.
Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các nhu cầu cơ bản của con người đã
được đáp ứng, lức này con người hướng đến những nhu cầu cao hơn, trong đó có nhu cầu
thỏa mãn về tinh thần như: giải trí, du lịch...
Khi đó chính con người cũng phải tìm cách để đáp ứng những nhu cầu đó của
mình, Vì vậy có thể nói con người nói chung có vai trò quyết định đến moi hoạt động
kinh tế - xã hội, trong đó có sự hình thành và phát triển của ngành du lịch.
Xuất phát từ nhu cầu được vui chơi, giả trí của con người, và những lý do khách
quan mà ngành du lịch ra đời và ngày càng phát triển bởi nhu cầu của con người ngày
một cao nên đòi hỏi cần có sự đáp ứng và phục hồi tốt hơn.
Để đáp ứng những nhu cầu và yêu cầu đó của con người hay nói cách khác là của
khách du lịch thì cần một lực lượng lao động có trình độ, chuyên môn và thái độ phục vụ
tốt. Đặc biệt trong quá trình hội nhập quốc tế như hiện nay, cộng với quy luật cạnh tranh

gay gắt của thị trường thì nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao càng thể hiện
rõ vai trò quyết định của mình đối với sự hình thành và phát triển của ngành du lịch mỗi
quốc gia.
11


Nếu một quốc gia có những điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, những di
sản thiên nhiên và văn hóa nổi tiếng, nhưng lực lượng lao động (nguồn nhân lực) của
ngành du lịch lại có trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ kém hay tinh thần phục vụ
không tốt thì cũng không thu hút được khách đến tham quan, tìm hiểu. Hoặc sự quay trở
lại lần hai của các khách du lịch là rất thấp nếu chưa nói là không có.
Ngược lại một quốc gia tuy không có nhiều điều kiện thuận lợi về tài nguyên thiên
nhiên, các danh lam thắng cảnh. Nhưng ở đó có một nền văn hóa tiên tiến, con người văn
minh, mến khách, nguồn nhân lực và trình độ có chất lượng cao, luôn tận tình với công
việc thì vẫn có thể thu hút khách muôn phương đến thăm quan tìm hiểu về nền văn hóa
của đất nước mình. Điều này mang lại những lợi ích không nhỏ về kinh tế - xã hội cho
mỗ quốc gia.
Hội nghị lần thứ II (khóa VIII) của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam đã đưa ra những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển giáo dục – đào tạo
trong thời kỳ mới, có vai trò quan trọng đối với việc hình thành quy mô chất lượng nguồn
nhân lực của đất nước.
Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công của sự
nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội. Nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển hay
không, phần lớn đều phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực.
Mục tiêu của phát tiển nguồn nhân lực Việt Nam là đáp ứng sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã định hướng cho sự phát triển của nguồn nhân lực Việt
Nam: “Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được
đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa
học, công nghệ hiện đại”.

Như vậy, nguồn lực con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển
bền vững của xã hội. Con người được đào tạo, bồi dưỡng trong một môi trường giáo dục

12


tốt sẽ có khả năng giải quyết tốt công việc một cách sáng tạo và hiệu quả troang sự phát
triển của mỗi quốc gia.
1.2. Nguồn nhân lực ngành du lịch
1.2.1. Khái niệm du lịch
Thuật ngữ Du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý
nghĩa đi một vòng. Thuật ngữ này được La tinh hóa thành tornus và sau đó thành
tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh).
Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về Du lịch, có những tác giả tập
trung giải thích Du lịch như một hiện tượng di chuyển, lưu trú ngoài nơi cư trú thường
xuyên; nhóm khác lại tập trung và bản thân du khách và khía cạnh inh tế của Du lịch.
Vào đầu thế kỉ XX, Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và Giáo sư, tiến sĩ Krapf, hai người
được coi là đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: Du
lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong cuộc hành trình và lưu
trú của những người ngoài địa phương, nếu việc cư trú đó không thành cư trú thường
xuyên và không dính dáng đến hoạt động kiếm lời.
Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), đưa ra định nghĩa: “Du lịch bao gồm tất cả
mọi hoạt động của người du hành, tạm trú trong mục đích tham quan, khám phá và tìm
hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cững như mục đích
hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không qua một
năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng ngoại trừ các du hành mà có mục đích
là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác
hẳn nơi định cư”.
Trên cơ sở phân tích bản chất và thuộc tính của hoạt động du lịch các học giả
Trung Quốc đưa ra định nghĩa: Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội được nảy sinh

trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, là sự tổng hòa các mối quan hệ và hiện tượng do

13


việc các lữ hành tạo nên để thỏa mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí
và văn hóa nhưng lưu động chứ không cố định mà tạm thời cư trú của mọi người dẫn tới.
Hội nghị quốc tế về Du lịch và lữ hành được tổ chức ở Ottawa – Canada vào tháng
6/1991 đã thống nhất và đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch bao gồm tất cả
những hoạt động của người tu hành, tạm trú với mục đích tham quan, khám phá hoặc với
mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích kinh doanh và những mục đích
khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường
sống định cư”.
Ngành Du lịch Việt Nam có lịch sử phát triển 50 năm, nhưng chỉ thực sự phát thiển
nhanh vào những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước. Nếu so sánh với các ngành kinh tế
khác, Du lịch được xếp vào một trong những ngành mới. Do đó hệ thống các thuật ngữ,
khái niệm cơ bản của ngành du lịch chỉ mới được chuẩn hóa trong thời gian gần đây.
Ở Việt Nam, quan niệm về Du lịch được cụ thể hóa trong Pháp lệnh Du lịch được
Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 08/12/1999 và trong điều 4 Luật Du lịch
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005, khái
niệm “Du lịch” cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tùy thuộc cách tiếp cận của
mỗi tác giả.
Tại khoản 1 điều 4 Chương 1 Luật Du lịch năm 2005 nước ta nêu rõ: “Du lịch là
hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định” [2.tr1].
Đây là một định nghĩa xúc tích, mang tính khái quát, bao hàm được cả hai khía
cạnh cơ bản của du lịch là chuyến đi ngoài nơi cư trú với mục đích tham quan nghỉ dưỡng
và các hoạt động liên quan đến chuyến đi đó. Do vậy, đề tài chọn cách định nghĩa này
của Luật Du lịch.

Luật Du lịch cũng giải thích một số thuật ngữ khác liên quan khác của du lịch như
sau:
14


- Hoạt động du lịch: là hoạt động của khách du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch.
- Tài nguyên du lịch: Là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tụ nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người với các giá trị nhân văn khác có thể
được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du
lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
- Tham quan: Là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi có tài
nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài nguyên du lịch.
- Sản phẩm du lịch: Là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của
khách du lịch trong chuyến đi.
- Dịch vụ du lịch: Là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn
uống, vui chơi giả trí, thông tin hướng dẫn và những dịch vị khác nhằm đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch.
Như vậy, qua các quan niệm khác nhau về du lịch, có thể nói, về bản chất, “Du
lịch” là một phạm trù kinh tế, trước tiên phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, trong đó con người thưởng ngoạn vẻ đẹp của tự nhiên hoặc nhân tạo nhằm thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của bản thân. Song để đạt được mục đích đó, con người phải rời xa
nơi cư trú thường xuyên của mình, từ đó mà làm nảy sinh mối quan hệ lợi ích giữa người
sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Trong đó người tiêu dùng tối đa hóa lợi ích
về vật chất và tinh thần, con người kinh doanh tối đa hóa lợi nhuận dưới sự điều tiết của
các quy luật thị trường.
Từ bản chất của hoạt động này với các nhu cầu ngày càng đa dạng của con người,
nhất là trong giai đoàn phát triển cá tính trong tiêu dùng hiện nay, các nhà kinh doanh du
lịch đã không ngừng đa dạng hóa các loại hình du lịch cho phù hợp với từng lứa tuổi, sở
thích, thị hiếu và cá tính của du khách nhằm mục đích tối đa hóa các lợi ích có thể khai
thác trong kinh doanh du lịch. Có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch, mỗi cách


15


phân loại đều có ý nghĩa nhất định, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà có thể sử dụng
cách phân loại này hay phân loại khác. Dưới đây là một số loại hình chủ yếu:
Một là, căn cứ vào tính chất của sản phẩm du lịch hay tài nguyên du lịch thì có loại
hình du lịch sinh thái và du lịch văn hóa:
Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa
địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham
gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Hai là, căn cứ vào nhu cầu và mục đích của chuyến đi, du lịch được phân ra: Du
lịch nghỉ ngơi, du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch chữa bệnh, du
lịch thăm hỏi, du lịch tín ngưỡng...
Ba là, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ chuyến đi, du lịch được phân ra thành du lịch
quốc tế và du lịch nội địa. Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà điểm xuất phát và điểm
đến của du khách ở những quốc gia khác nhau, gồm du lịch quốc tế chủ động và thụ
động. du lịch quốc tể chủ động là việc nhận du khách quốc tế vào nước mình. Du lịch
quốc tế thụ động là việc đa du khách nước mình đến các nước khác. Còn du lịch nội địa
thì ngược lại, khách du lịch nội địa chỉ đi và đến các điểm du lịch trong phạm vi nước
mình.
Bốn là, căn cứ vào thành phần xã hội của du khách có du lịch cao cấp và du lịch
bình dân. Du lịch cao cấp là loại hình du lịch dành cho những người có khả năng thanh
toán cao. Ở thể loại này, các dịch vụ dành cho khách phải có chất lượng đặc biệt tốt và
với mức giá cao. Còn du lịch bình dân là loại hình du lịch dành cho những người có khả
năng thanh toán hạn chế, và do đó chất lượng dịch vụ ở loại hình này bình thường với
mức giá thấp.
Năm là, căn cứ vào phương tiện giao thông mà du khách đang sử dụng, du lịch
được phân thành: Du lịch xe đạp, du lịch mô tô, du lịch ô tô, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu

thủy, du lịch máy bay...
16


Sáu là, căn cứ vào thời gian và hình thức đi của khách du lịch có du lịch ngắn hạn,
du lịch dài hạn, du lịch cuối tuần, du lịch theo đoàn, du lịch cá nhân, du lịch gia đình...
Bảy là, căn cứ vào phương thức kí kết và thực hiện hợp đồng du lịch có hai loại du
lịch trọn gói và du lịch từng phần.
1.2.2. Nguồn nhân lực ngành du lịch
Trong hoạt động du lịch, từ khía “cung du lịch” có nhiều thành phần tham gia vào
hoạt động phục cụ khách du lịch là:
+ Tại các đầu mối giao thông: Một loạt các hoạt động phục vụ khách du lịch đi qua
bằng phương tiện đường hàng không, đường bộ, đường sắt, đường biển để đến diểm du
lịch của họ được tổ chức tại hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật đặc thù như: Sân bay, nhà ga,
mạng lưới đường xá, cảng, các kho nhiên liệu, các phương tiện máy móc và sửa chữa...
Các dịch vụ và phương tiện phục vụ khách du lịch bao gồm: Nhà hàng, quầy bar, cơ sở
lưu trú, ngân hàng, viễn thông, các cửa hàng bán lẻ, cửa hàng sách... và hoạt động của
một số cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến phục vụ khách du lịch như: biên phòng,
xuất nhập cảnh, hải quan cững được tổ chức tại đây.
+ Tại điểm đến du lịch:
a) Hoạt động của các doanh nghiệp phục vụ du lịch tuyến trước hay các doanh
nghiệp có giao dịch trực tiếp với khách bao gồm: Du lịch lưu trú – khách sạn, nhà nghỉ,
khu nghỉ mát; dịch vụ ăn uống – nhà hàng, quầy bar; dịch vụ vui chơi giải trí – các
phương tiện thể thao, rạp hát, sòng bạc, công viên giải trí, viện bảo tàng, các sự kiện và
hoạt động lễ hội; dịch vụ lễ hội, vận chuyển – các hãng lữ hành, phòng bán vé hàng
không, xe tuyến, tàu hỏa, tàu thủy, taxi, xe cho thuê.
b) Hoạt động của các doanh nghiệp và dịch vụ hỗ trợ du lịch tuyến sau bao gồm
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và hàng hóa cho các doanh nghiệp phục cụ du lịch
tuyến trước như: công ty xây dựng, kiến trúc, công ty quảng cáo, công ty bia rượu, nước


17


giải khát, công ty phát hành thẻ tín dụng, công ty vận tải, thương mại bán buôn, bán lẻ
hàng hóa, vệ sinh môi trường, cung cấp điện, nước, kĩ thuật, sức khỏe, y tế...
c) Hoạt động của các cơ qian quản lí nhà nước chuyên ngành có liên quan đến
hoạch định chính sách, điều hành, kiểm soát, quản lí các dịch vụ phục vụ du lịch như: cơ
quan cấp phép, đăng kinh doanh, cơ quan đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, cơ quan
quản lý rừng quốc gia, bảo tồn thiên nhiên, cơ quan quản lý văn hóa...
d) Hoạt động của cộng đồng dân cư liên quan đến phục vụ du lịch như: Các gia
đình, cá nhân, các tổ chức cộng đồng của đan tộc ít người tham gia quá trình phục vụ
khách du lịch một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
e) Hoạt động của các đơn vị đào tạo cung cấp nguồn nhân lực cho doanh nghiệp du
lịch tuyến trước và tuyến sau.
Như vậy, xét một cách tổng quát, nguồn nhân lực ngành du lịch bao gồm toàn bộ
lao động trực tiếp và gián tiếp liên quan đến quá trình phục vụ khách du lịch. Do đó, khi
đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực ngành Du lịch thì không chỉ đề cập đến các lao
động nghiệp vụ phục vụ khách một cách trực tiếp mà còn cả các lao động ở cấp độ quản
lý, lao động làm công tác đào tạo và các lao động gián tiếp khác phục vụ khách du lịch.
Căn cứ vào mối liên hệ với đối tượng lao động (khách du lịch), lao động du lịch được
chia thành hai nhóm: lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp bao gồm
những công việc trực tiếp phục vụ khách du lịch như trong khách sạn, nhà hành, lữ hành,
các cửa hàng bán lẻ phục vụ khách du lịch, cơ quan quản lý du lịch ... Lao động gián tiếp
bao gồm những công việc cung ứng, hỗ trợ cho các hoạt động trực tiếp phục vụ khách du
lịch như: cung ứng thực phẩm cho khách sạn nhà hàng, cung ứng hàng hóa cho các cửa
hàng bán lẻ phục vụ khách du lịch, xây dựng khách sạn nhà hàng, sản xuất máy bay, các
trang thiết bị phục vụ khách du lịch ...Tất nhiên các lao động trực tiếp phục vụ khách du
lịch bao giờ cũng có ảnh hưởng trực tiếp và lớn nhất đến chất lượng dịch vụ, từ đó đến
chất lượng sản phẩm du lịch.


18


Từ những phân tích trên, nguồn nhân lực ngành du lịch được hiểu là lực lượng lao
động tham gia vào quá trình phát triển du lịch, bao gồm lao động trực tiếp và lao động
gián tiếp.
Như vậy nguồn nhân lực trong ngành du lịch được chia thành 3 nhóm với những
vai trò và đặc điểm như sau:
- Một là: Nhóm lao động có chức năng quản lý nhà nước về du lịch. Nhóm này có
vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia và từng
địa phương, tham mưu hoạch định chính sách phát triển du lịch của quốc gia và từng địa
phương. Họ đại diện cho nhà nước để hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả, kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh.
- Hai là: Nhóm lao động có chức năng sự nghiệp ngành du lịch. Đây là bộ phận có
trình độ học vấn cao, có kiến thức chuyên sâu về ngành du lịch, có chức năng đào tạo,
nghiên cứu khoa học về du lịch và có vai trò to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch hiện tại và trong tương lai.
- Ba là: Nhóm lao động có chức năng kinh doanh. Nhóm lao động này chiếm số
lượng đông đảo nhất trong hoạt động kinh doanh của ngành du lịch và cần được nghiên
cứu kỹ lưỡng nhất.
Nhóm lao động chức năng kinh doanh có một số đặc điểm riêng là:
+ Cơ cấu độ tuổi trẻ, tỷ lệ lao động nữ cao hơn lao động nam: Xuất phát từ tính đặc
thù của ngành du lịch đòi hỏi phải có năng lực lao động có sức khỏe, trẻ trung và nhanh
nhẹn, nên hình thành lực lượng lao động có cơ cấu độ tuổi trẻ. Nhiều lĩnh vực phục vụ
khách du lịch như lễ tân, bàn, bả, buồng đòi hỏi có sự duyên dáng, cẩn thận và khéo léo
của người phụ nữ, vì vậy tỷ lệ lao động dự nữ thường cao hơn lao động nam.
+ Không đồng đều về chất lượng và cơ cấu: Có sự phân bố không đồng đều theo
lãnh thổ và các nghiệp vụ du lịch. Xuất phát từ tính định hướng tài nguyên rõ nét nhất của
ngành du lịch, các hoạt động du lịch thường diễn ra tại các khu, các điểm du lịch, những
nơi có nhiều tài nguyên du lịch và được đầu tư đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ

19


thuật ngành, vì vậy phần lớn lao động đã qua đào tạo đều làm việc tại những khu du lịch,
trung tâm du lịch lớn, ở những khu vực còn lại thường thiếu lao động.
Trong ngành du lịch có nhiều công việc với yêu cầu lao động giản đơn, không đòi
hỏi phải đào tạo ở trình độ cao mới thể hiện được, dẫn đến tình trạng lao động chưa tốt
nghiêp trung học phổ thông khá cao. Ngược lại ở những bộ phận tiếp xúc trực tiếp với
khách du lịch, đội ngũ lao động thường được trang bị đầy đủ các kỹ năng về chuyên môn
nghiệp vụ, giao tiếp và tỷ lệ thông thạo ngoại ngữ tương đối cao.
+ Có sự biến đông về lao động theo thời gian trong năm: Do ảnh hưởng của tính
thời vụ du lịch các hoạt động du lịch thường diễn ra sôi dộng trong một thời gian nhất
định của năm (Còn gọi là mùa cao điểm) vào thời điểm cao nhất của mùa du lịch các
doanh nghiệp du lịch thương tuyển thêm lao động thời vụ dể đáp ứng nhu cầu kinh
doanh, phục vụ khách của mình. Đến mùa thấp điểm, doanh nghiệp du lịch chấm dứt
hợp đồng lao động với những lao động thời vụ. Lực lượng lao động làm việc trực tiếp
trong các doanh nghiệp du lịch lại được chia thành 4 nhóm cơ bản với vai trò và đặc
trưng khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch:
a) Nhóm lao động có chức năng quản lý chung: Nhóm này gồm những người đứng
đầu những các đơn vị kinh tế cơ sở. Lao động của người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh
doanh du lịch có những điểm riêng biệt, bởi đối tượng, công cụ và sản phẩm lao động
của họ có tính đặc thù, thể hiện:
- Là loại lao động trí óc đặc biệt: Trong quá trình ra quyết định và chức thực hiện
rõ nét nhất đặc điểm lao động trí óc của người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh du
lịch.
- Là loại lao động tổng hợp: Với tư cách là một nhà chuyên môn, lao động của lãnh
đạo là lao động của người tìm kiếm nhân tài, sử dụng người giỏi, tổ chức và điều hành
công việc một cách trôi chảy cho mục đích kinh doanh có hiệu quả cao. Với tư cách là
nhà hoạt động xã hội, người lãnh đạo trong kinh doanh du lịch còn tham gia các hoạt


20


động kinh tế - xã hội khác trong đơn vị và theo yêu cầu của địa phương, ngành và đất
nước.
Những đặc điểm trên đoih hỏi người lãnh đạo phải được đào tạo chu đáo, bài bản
có bằn cấp quản lý và quản lý du lịch.
b) Nhóm lao động có chức năng quản lý theo các nghiệp vụ kinh tế: Nhóm này bao
gồm lao động thuộc phòng kế hoạch đầu tư và phát triển; lao động thuộc phòng tài chính
kế toán; lao động thuộc phòng vật tư thiết bị; phòng tổng hợp; phòng quản lý nhân
sự...Nhiệm vụ chính của lao động thuộc các bộ phận này là tổ chức hạch toán kinh doanh,
tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, tổ chức lao động, tổ chức các hoạt động kinh
doanh hoạch định quy mô và tốc độ phát triển doanh nghiệp. Lao đôngh thuộc nhóm này
có khả năng phân tích vấn đề đang hoặc sắp xảy ra trong doanh nghiệp của mình, các tác
động của các biến số vĩ mô của nền kinh tế, ảnh hưởng tới nhiệm vụ của mình hoặc
doanh nhiệp. Họ có khả năng “tổng hợp” tốt việc “phân tích” tình hình và nghiệp vụ của
mỗi lao động không giống nhau, nhưng kết quả cuối cùng của việc “phân tích” phải cung
cấp được “thông tin” cho lãnh đạo xử lý và đề ra được quyết định quản lý đúng đắn trong
kinh doanh. Do đó để có được những thông tin này, mỗi lao động thuộc cac bộ phận quản
lý đồng thời phải có khả năng biết “tổng hợp” vấn đề. Bản tổng hợp vấn đề đòi hỏi phải
chính xác, có giá trị thực tiễn và có thể dùng để tham mưu cho lãnh đạo. Lao động quản
lý chức năng phải được đào tạo theo đúng chuyên ngành và có những kiến thức, hiểu biết
về các lĩnh vực kinh doanh du lịch.
c) Nhóm lao đông chức năng đảm bảo điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp du
lịch: Lao động thuộc nhóm này gồm nhân viên thường trực bảo vệ; nhân viên làm vệ sinh
môi trường; nhân viên phụ trách sửa chữa điện nước; nhân viên cung ứng hàng hóa; nhân
viên tạp vụ...trong các công ty, khách sạn hoặc các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Họ
không trực tiếp cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho khách. Nhiệm vụ chính của họ là cung
cấp những nhu yếu phẩm, phương tiện làm việc cho những lao động thuộc các bộ phận
khác của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đòi hỏi bộ phận lao động này pahir luôn trong tình

21


trạng sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ; có những quyết định kịp thời; giải quyết tốt
mọi công việc hàng ngày cũng như những việc đột xuất; năng động và linh hoạt trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ.
d) Nhóm lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách: Đây là những lao động
trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh du lịch, trực tiếp cung cấp dịch vụ và phục vụ
cho khách. Nhóm lao động này rất đông đảo, thuộc nhiều ngành nghề khác nhau và đòi
hỏi phải tinh thông nghề nghiệp. Trong khách sạn có lao động thuộc nghề lễ tân; nghề
buồng; nghề chế biến món ăn; nghề bàn và pha chế đồ uống; trong kinh doanh lữ hành có
lao động làm công tác điều hành du lịch; marketing du lịch và đặc biệt có lao động thuộc
nghề hướng dẫn du lịch...Trong ngành vận chuyển khách du lịch có lao động thuộc nghề
điều khiển phương tiện vận chuyển du lịch...Các nghề trên lại được chi tiết hóa thành
từng việc cụ thể, phân công cho từng chức danh nghề nghiệp khác nhau và số lượng tùy
theo quy mô cảu các doanh nghiệp mà có thể thêm bớt lao động ở các vị trí, hoặc bố trí
một người kiêm nhiều việc.
Kinh doanh du lịch là chủ yếu nhằm cung cấp các dịch vụ và giải quyết các mối
quan hệ giữa con người với con người, nên đòi hỏi nhân viên phải có kỹ năng giao tiếp,
sự thân thiện và hình thức hấp dẫn...Đặc biệt một số công việc trong ngành khách sạn và
nhà hàng tương tự như các hoạt động nội trợ trong gia đình. Do các đặc điểm này, lực
lượng phụ nữ tham gia lao động trong ngành du lịch thường chiếm tỷ trọng cao.
Ngoài ra, kinh doanh du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của du khách về
nhiều loại hàng hóa, dịch vụ mang tính chất đơn lẻ hoặc tổng hợp, ở bất cứ địa điểm nào
và bất cứ thời gian nào. Các đặc điểm sản phẩm và tiêu dùng du lịch này tạo ra nhiều loại
công việc có thể thu hút sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều loại, nhiều bộ phận
lao động trong xã hội. Do đó càng làm tăng khả năng cung (về số lượng) lao động du lịch
trên thị trường và sự tham gia lao động trong ngành du lịch là rất cao. Vấn đề này có ý
nghĩa rất lớn đối với các nước kém phát triển, vì các nước này có nguồn lao động dồi dào
và dân số trong độ tuổi lao động nhưng lại có trình độ chuyên môn thấp.

22


Tóm lại, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử, vai trò
sáng tạo ra lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn. Phát huy vai trò chủ thể con người là nhằm
phát huy tối đa nguồn lực con người, tạo ra động lực mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, cộng với quá trình hội nhập
quốc tế nên đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch phải ngày càng được nâng
cao để phục vụ tốt hơn nhu cầu của du khách. Đồng thời chất lượng nguồn nhân lực
ngành du lịch phải ngày càng được nâng cao để phục vụ tốt hơn nhu cầu của du khách.
Đồng thời chất lượng ngành du lịch được nâng cao, chất lượng phục vụ tốt sẽ thu hút
được khách du lịch, thu hút được sự đầu tư của nước ngoài.
Chính vì vậy mà ở Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng phải đi vào
nghiên cứu đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch, phân tích điểm mạnh,
điểm yếu, thuận lợi và khó khăn, từ đó làm rõ sự cần thiết và cấp bách về việc nâng cao
chất lương nguồn nhân lực ngành du lịch trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

23


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH QUẢNG NINH HIỆN NAY
2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Trên bản đồ Việt Nam, dọc theo dải ven bờ, chuyển tiếp từ đất liền ra biển của bờ
Tây Thái Bình Dương, trên Vịnh Bắc Bộ, nằm kề phía Nam Trung Quốc, nổi bật trên một
không gian biển bạc là một hệ thống chi chít những đảo xanh – gần 2000 hòn đảo cả có
tên và chưa có tên – với mật độ lớn ít gặp ở miền biển Việt Nam đó chính là vùng biển
nối liền với phần đất liền thuộc địa giới hành chính của tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh là một tỉnh duyên hải ở đầu phía Đông Bắc Việt Nam, diện tích 6110
đất liền, 619,9
Với vị trí từ

diện tích đảo, 6000
sang

mặt nước biển.

kinh Đông và từ

lên

vĩ Bắc với chiều ngang

từ Đông sang Tây 195 km và chiều dọc từ Bắc xuống Nam 102 km, có 250 km đường bờ
biển. Đặc biệt phía bắc tỉnh Quảng Ninh có 132 km đường biên giới Việt – Trung với 3
cửa khẩu quốc tế, tiếp giáp với vùng duyên hải rộng lớn của miền nam Trung Hoa. Tỉnh
Quảng Ninh trở thành đơn vị hành chính – kinh tế trọng điểm của phía bắc nước ta nằm
trên đường giao lưu đường biển – trục hành chính từ Trung Quốc đến vịnh Bắc Bộ, vào
các cảng lớn phía bắc của Việt Nam và vào phần phía nam biển Đông đến các quốc gia
lân cận vùng Đông Nam Á.
Sự hội tụ giữa vị trí địa lý và cấu trúc cảnh quan cả trên đất liền và trên biển tạo
cho Quảng Ninh sức thu hút du khách thập phương về đây thưởng ngoạn, tham thú những
nét hấp dẫn của thắng cảnh trên một vùng thiên nhiên độc đáo, đưa Quảng Ninh vào vị
thế phát triển kinh tế du lịch vào bậc nhất quốc gia cũng như trong khu vực.
Khí hậu Quảng Ninh là nhiệt đới gió mùa có hai mùa rõ rệt. Mùa khô được được
phân định từ tháng 10 đến tháng 4 với nhiệt độ trung bình từ
24


C đến

C. Vùng núi


có xuất hiện sương giá, hướng gió chủ yếu là Bắc và Đông Bắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 9 chiếm tới 80% lượng mưa cả năm, nhiệt độ trung bình từ
nhất

C đến

C (cao

C) hướng gió chủ yếu là Tây – Nam. Khí hậu Quảng Ninh tương đối thích hợp

với khách du lịch biển và các hoạt động phục vụ khách du lịch.
Quảng Ninh có nguồn nước ngọt phong phú, trử lượng tĩnh nguồn mặt nước Quảng
Ninh (lượng nước trữ trong các sông hồ ứng với mực nước thống nhất) được tính khoảng
350 triệu

và tổng trữ lượng tĩnh các sông là 175

. Ngoài nguồn nước mặt, Quảng

Ninh còn có nguồn nước ngầm với trũ lượng tĩnh khoảng 21.100

/ngày trong toàn tỉnh.

Đặc biệt Quảng Ninh có nguồn nước khoáng phong phú: Mỏ nước khoáng nóng Tam
Hợp (độ sâu 35 – 37 m) và mỏ nước khoáng Quang Hanh (độ sâu 150 – 200m) có nhiệt

độ trung bình từ

C đến

C, lưu lượng dưới 1000

/ngày là những mỏ nước khoáng

có giá trị hoàn toàn có thể trở thành những trung tâm chữa bệnh, bồi bổ sức khỏe và phục
vụ khách du lịch nghỉ dưỡng.
Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh có khả năng khai thác phục vụ kinh
doanh du lịch:
- Các di tích lịch sử và danh thắng: Nổi bật là dãy núi Yên Tử (Thị xã Uông Bí),
khu di tích nhà Trần (Đông Triều); Cụm di tích chiếm thắng Bạch Đằng là vùng nước
lịch sử ghi lại nghệ thuật quân sự và chiến lược chiến tranh nhân dân của các triều đại
phong kiến Việt Nam chống lại các tập đoàn phong kiến phương Bắc, được thể hiện ở ba
lần đại thắng quân xâm lược của Ngô Quyền (năm 938), Lê Hoàn (năm 918), Trần Hưng
Đạo (năm 1288), di tích thương cảng Vân Đồn và cụm di tích tịch lịch sử và danh thắng
núi bài thơ (Thành phố Hạ long); đền Cửa Ông (Thị xã Cẩm Phả); Miếu Tiên Công
(Huyện Yên Hưng).
- Các di tích kiến trúc nghệ thuật: Chùa Quỳnh Lâm được triều nhà Lý xây dựng
vào năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057), đình Phong Cốc được xây dựng vào cuối
thế kỉ XVII xếp hạng di tích quốc gia (1988), chùa Nam Thọ (Trà Cổ - Móng Cái), chùa
25


×