Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

LUẬN VĂN: Vấn đề xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ (trong thời gian gần đây) – thực trạng và giải pháp pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.72 KB, 40 trang )













LUẬN VĂN:

Vấn đề xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam vào Mỹ (trong thời gian gần đây)
– thực trạng và giải pháp





























LỜI MỞ ĐẦU


Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và tự do hoá thương mại diễn
ra hết sức mạnh mẽ, chính đặc điểm này của nền kinh tế thế giới đã và đang làm
cho các nước đang phát triển gặp không ít khó khăn trong quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước nhất là về vốn, công nghệ và kỹ thuật Và Việt Nam
cũng nằm trong số các nước đang phát triển đó.Mặt khác toàn cầu hoá và tự do hoá
thương mại cũng tạo ra rất nhiều những thuận lợi cho các nước đang phát triển nhất
là về xuất nhập khẩu Do đó, để thực hiện mục tiêu của mình, trong chiến lược
phát triển kinh tế đất nước trong những năm tiếp theo Đảng và Nhà nước ta đã
khẳng định “Chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này là hướng
về xuất khẩu và thay thế dần nhập khẩu”.
Để thực hiện được chiến lược phát triển này chúng ta phải phát triển vững
chắc các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến có khả năng cạnh
tranh cao, đặc biệt là các ngành công nghiệp sử dụng vốn ít, thu hút nhiều lao động,

khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, trên cơ sở phát huy nội lực,
thực hiện nhất quán các chỉ tiêu, thu hút các nguồn lực bên ngoài, tích cực chủ
động, mở rộng thâm nhập thị trường quốc tế.
Là một ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế Quốc dân, sản xuất tăng trưởng nhanh, kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia
tăng với nhịp độ cao, thị trường luôn được mở rộng, tạo điều kiện cho kinh tế phát
triển,thu hút nhiều lao động góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu. Thuỷ sản là
ngành kinh tế đang được Nhà nước đầu tư phát triển mạnh
Xuất khẩu nói chung, xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ nói riêng, là một trong
những hoạt động quan trọng của đất nước và ngành thuỷ sản. Tuy nhiên xuất khẩu
thuỷ sản sang Mỹ trong thời gian qua còn nhiều bất cập và khó khăn. Để góp phần
giúp ngành thuỷ sản ngày càng phát triển vươn xa ra các nước trên thế giới và tháo
gỡ những khó khăn này: Đề tài “Vấn đề xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ
(trong thời gian gần đây) – thực trạng và giải pháp” đã được lựa chọn làm đề tài
nghiên cứu.



 Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản
của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
 Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản
của Việt Nam.
 Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
Phần I: ý nghĩa lý luận và thực tiễn của hoạt động xuất khẩu.
Phần II: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam và Mỹ.
Phần III: Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào
Mỹ.

PHẦN I: Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU


I.KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa ra khỏi biên giới một quốc gia nhắm thực
hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu
tiên của một doanh nghiệp . Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp
đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình .
Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau : Xuất khẩu hành
hoá hữu hình , hàng hoá vô hình (dịch vụ) ; xuất khẩu trực tiếp do chính các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận ; xuất khẩu gián tiếp (hay uỷ
thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh , tổ chức kinh doanh trung gian đảm
nhận . Gắn liền với xuất khẩu hàng hoá hữu hình , ngày nay xuất khẩu dịch vụ rất
phát triển.







2. Ý nghĩa của xuất khẩu.
2.1. Ý nghĩa lý luận.
- Xuất khẩu khai thác hiệu quả lợi thế tuỵêt đối , lợi thế tương đối của đất
nước và kích thích các ngành kinh tế phát triển , góp phần tăng tích luỹ vốn, mở
rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân
.
- Xuất khẩu cho phép tập trung năng lực sản xuất cho những mặt hàng truyền
thống được thế giới ưa chuộng hay những mặt hàng tận dụng được những nguyên
liệu có sẵn trong nước hay nước khác không làm được hoặc làm được nhưng giá
thành cao .

- Thông qua hoạt động xuất khẩu đã thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại với
tất cả các nước nhất là với các nước trong khu vực Đông Nam á , nâng cao uy tín
của Việt Nam trên trường Quốc tế .
-Thông qua hoạt động xuất khẩu, ban bè trên thế giới biết đến hàng hoá của
Việt Nam.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào giải quyết công ăn việc làm mới cho
người lao động đồng thời tác động tích cực đến trình độ tay nghề cũng như nhận
thức về công việc của công nhân làm hàng xuất khẩu .
-Xuất khẩu thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển nhất là các ngành có tiềm
năng về xuất khẩu
-Xuất khẩu làm tăng giữ trữ ngoại tệ cho Quốc gia, làm tăng tổng thu nhập
Quốc dân.
- Xuất khẩu cũng có thể cho các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi được kinh
nghiệm của quốc tế trong kinh doanh.

II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.

1.Nhân tố khách quan.
1.1. Chính sách của các nước nhập khẩu: Đây là một đặc điểm hết sức quan
trọng đối với việc xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước trên thế



giới. Để hàng hoá của chúng ta vào được thị trường của các nước thì đầu tiên chúng
ta phải nắm rõ luật pháp của các nước đó, các chính sách trong việc bảo hộ hàng
hoá trong nước của nước đó, hàng rào thuế quan của nước đó.
Đây là nhân tố mà doanh nghiệp tự quyết định cho mình trong việc xuất khẩu hàng
hoá của doanh nghiệp mình sang các nước khác. Cụ thể như là
-Tìm hiểu thị trường ngoài nước mà doanh nghiệp định xuất khẩu.

-Tìm hiểu luật pháp của nước đó trước khi xuất khẩu hàng hoá sang
-Nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã, bao bì để nâng cao sức cạnh tranh trên
thị trường.

1.2. Chính sách của Nhà nước
Nhà Nước có vai trò rất to lớn trong việc quyết định đến việc xuất khẩu của các
doanh nghiệp nước ta. Nhà Nước có thể thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu
Vai trò Nhà Nước trong việc thúc đẩy xuất khẩu:
- Nhà Nước phải thiết lập được một môi trường thuận lợi hơn cho việc xuất khẩu ,
với một chính sách tích cực chủ động , thu hẹp bộ máy quản lý hành chính giúp các
doanh nghiệp tốt hơn trong việc xuất khẩu.
- Nhà nước cung cấp thông tin yếu tố cần thiết như là thông tin những điều kiện thị
trường trong nước cũng như ngoài nước, cơ sở hạ tầng, vật chất kinh tế và xã hội để
hỗ chợ cho việc sản xuất và thúc đẩy nâng cao năng lực của doanh nghiệp

2. Nhân tố chủ quan
Các nhân tố thuộc về nhà sản xuất kinh doanh: vốn, công nghệ sản xuất, chủng
loại hàng hóa, chất lượng, số lượng tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp,
hình thức kinh doanh của doanh nghiệp, ý muốn của một số người ra quyết định của
doanh nghiệp đó…

IV. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ
CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.




1. Tổng kim nghạch xuất khẩu:
Nếu tổng kim nghạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước điều đó chứng tỏ
xuất khẩu của ta đã tăng so với năm trước về số lượng cũng có thể cả về chất lượng


2. Tốc độ tăng trưởng luỹ kế: Tốc độ tăng trưởng luỹ kế diễn biến tăng dần, điều
đó chứng tỏ xuất khẩu có xu hướng phát triển đều và đó là một dấu hiệu tốt cho
xuất khẩu và ngược lại thì không tốt cho xuất khẩu .

3. Cơ cấu hàng xuất khẩu: Càng nhiều các mặt hàng có thế mạnh của ta tham gia
xuất khẩu thì càng tốt, tập trung vào các ngành có thế mạnh về xuất khẩu .

4. Về thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu càng lớn thì càng thuận lợi cho
chúng ta xuất khẩu, trong việc lựa chọn thị trường xuất khẩu,khi đó chúng ta chủ
động hơn về mọi mặt nhất là chúng ta không bị ép gia và không phải cạnh tranh
quyết liệt.

5. So với các nước trong khu vực: Đánh giá hoạt động xuất khẩu so với các nước
trong khu vực để thấy được thị phần về các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, cũng
như việc tìm ra các thị trường tiềm năng, để có thể nắm bắt được cơ hội kinh
doanh, đầu tư đạt hiệu quả cao hơn.

PHẦN II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG
MỸ

I. TỔNG QUAN VỀ THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM

1. Vai trò của thuỷ sản và của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản.
Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam , có giá trị
ngoại tệ xuất khẩu đứng hàng thứ tư trong các ngành kinh tế quốc dân ( sau dầu mỏ,
gạo , và hàng may mặc ) trước năm 2001và đã vươn lên hàng thứ ba vào năm 2001
.




Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại .
Thực phẩm thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng cao rất cần thiết cho sự phát triển của con
người. Không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo công ăn việc làm cho
nhiều cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng nông thôn và ven biển . ở Việt Nam
, nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cung cấp công ăn việc làm thường xuyên
cho khoảng 1,1 triệu người , tương ứng với 2,9 % lực lượng lao động có công ăn
việc làm . Thuỷ sản cũng có những đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng
trưởng kinh tế nói chung của nhiều nước .
Không những là nguồn thực phẩm , thuỷ sản còn là nguồn thu nhập trực tiếp và
gián tiếp cho một bộ phận dân cư làm nghề khai thác , nuôi trồng , chế biến và tiêu
thụ cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá như : Cảng , bến , đóng sửa tàu thuyền
, sản xuất nước đá , cung cấp dầu nhớt, cung cấp các thiết bị nuôi , cung cấp bao bì
và sản xuất hàng tiêu dùng cho ngư dân . Theo ước tính có tới 150 triệu người
trên thế giới sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào ngành thuỷ sản .
Đồ trang sức được làm từ ngọc trai rất được ưa truộng trên thế giới với giá trị cũng
rất cao . Thậm chí từ những con ốc nhỏ người ta cũng có thể làm ra những món
hàng độc đáo ngộ nghĩnh thu hút sự quan tâm của mọi người .
Thuỷ sản là ngành xuất khẩu mạnh của Việt Nam . Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
hàng năm đã mang về cho ngân sách nhà nước một khoản ngoại tệ lớn , rất quan
trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước . Các sản phẩm được xuất khẩu ra
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam
nói chung và ngành thuỷ sản Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế .
Với những vai trò hết sức to lớn như trên và những thuận lợi , tiềm năng vô cùng
dồi dào của Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên và con người , phát triển nghề nuôi
trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản phục vụ tiêu dùng trong nước và hoạt động
xuất khẩu là một trong những mục tiêu sống còn của nền kinh tế Việt Nam .

2. Thực trạng nuôi trồng , khai thác và chế biến thuỷ sản của Việt Nam.
2.1. Phân bố ngư nghiệp

Vùng phát triển ngư nghiệp mạnh nhất ở Việt Nam là vùng ven biển từ Bình
Thuận trở vào ; trong đó mạnh hơn cả là các tỉnh : Bà Rịa – Vũng Tàu , Tiền Giang



, Bến Tre , Trà Vinh, Kiên Giang , Bạc Liêu , Cà Mau , với giá trị hàng năm trên 20
tỷ đồng .
Những vùng đánh cá biển mạnh nhất là Kiên Giang (trên 100 nghìn tấn / năm),
sau đó là Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận (50 – 60 nghìn tấn/ năm).
Nghề nuôi trồng và đánh bắt cá nước ngọt mạnh nhất là Bạc Liêu , Sóc
Trăng thành phố Hồ Chí Minh ( từ 10 – 20 nghìn tấn / năm ) . Riêng tôm thì tập
trung cao nhất ở Cà Mau với sản lượng hàng năm trên 25 nghìn tấn, chiếm 70 %
sản lượng tôm cả nước .
Các vùng trọng điểm ngư nghiệp là Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận,
Vũng Tàu , Kiên Giang , Cà Mau .

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngư nghiệp
 Nhóm các yếu tố tự nhiên
Nước ta có 3,2 nghìn km bờ biển với gần 1 triệu km2 thềm lục địa bao gồm
mặt nước trong vũng , vịnh ven bờ , hơn 3 nghìn đảo và quần đảo . Nhiệt độ vùng
biển tương đối ấm và ổn định quanh năm , thích hợp cho sự sinh trưởng của các loài
thuỷ sản nước mặn nước , nước lợ .
Biển Việt Nam có trữ lượng cá lớn và đặc sản biển phong phú : Hàng chục
vạn ha diện tích mặt nước trên đất liền ( bao gồm 39 vạn ha hồ lớn ; 54 vạn ha vùng
ngập nước ; 5,7 vạn ha ao và 44 vạn km sông và kênh rạch ) có thể nuôi tôm , cá và
các thuỷ sản khác . Do đó , ngành nuôi thuỷ sản của nước ta , kể cả thuỷ sản nước
mặn , nước lợ , nước ngọt có thể trở thành ngành sản xuất chính .
Vùng biển nước ta có nhiều loài cá và đặc sản quí với hàng nghìn loài cá
biển , 3 trăm loài cua biển , 40 loài tôm he , gần 3 trăm loài trai ốc hến , 1 trăm loài
tôm , trên 3 trăm loài rong biển . Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu

cao, được ưa chuộng trên thị trường quốc tế .
Tổng trữ lượng cá trong vùng biển Việt Nam khoảng 3 triệu tấn , trong đó
gần 1,6 triệu tấn cá đáy và 1,4 triệu tấn cá nổi . Với trữ lượng cá trên , có thể đánh
bắt từ 1,3 đến 1,4 triệu tấn / năm .
 Nhóm yếu tố kinh tế – xã hội



Tiềm năng của biển nước ta lớn , nhưng hiện nay sản lượng cá đánh bắt và
các đặc sản biển , sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản nước lợ , nước ngọt
còn thấp . Có nhiều nguyên nhân hạn chế khai thác tiềm năng của biển trong đó
nguyên nhân quan trọng là chưa đầu tư đúng mức lao động , nhất là lao động kỹ
thuật cho nghề đánh bắt nuôi trồng thuỷ và hải sản .
Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đã và đang được chú trọng phát triển .
Ngoài các xí nghiệp đánh bắt cá quốc doanh trung ương , hàng loạt cơ sở đánh bắt
cá quốc doanh địa phương , các hợp tác xã nghề cá đã và đang được xây dựng ở
các huyện , tỉnh ven biển , đi đôi với những cơ sở hậu cần , chế biến tạo điều kiện
cho ngành đánh bắt và chế biến cá biển nước ta phát triển mạnh mẽ. Đồng thời ,
nhiều cơ sở quốc doanh và tập thể , tư nhân đánh bắt cá nuôi trồng và chế biến thuỷ
sản nước mặn , nước lợ , nước ngọt được phát triển mở rộng ở nhiều vùng, khu vực
trên phạm vi cả nước Tuy nhiên , đội tàu đánh cá hiện nay với 32 nghìn chiếc hầu
hết là tàu thuyền nhỏ, chưa được trang bị hiện đại để đánh bắt ở những vùng biển
sâu và biển xa đã hạn chế sự phát triển của ngành.

2.3.Nuôi trồng thuỷ sản
Nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Theo điều tra sơ bộ
của ngành thuỷ sản , riêng cá nước ngọt có 544 loài , cá nước lợ , nước mặn cũng có
186 loài. Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao , được ưa chuộng trên
thị trường quốc tế . Phương thức nuôi trồng cũng rất đa dạng tạo cho sản phẩm
thêm phong phú .

Nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua phát triển với tốc độ khá nhanh , thu được
hiệu quả kinh tế – xã hội đáng kể , từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở
các vùng ven biển , nông thôn và góp phần giải quyết việc làm , tăng thu nhập và
xoá đói , giảm nghèo .
Theo điều tra và quy hoạch của bộ thuỷ sản , đến tháng 8 năm 2001 tổng
diện tích nuôi trồng ở nước ta là 1,19 triệu ha .
 Nuôi thuỷ sản nước ngọt
Nuôi cá ao hồ nhỏ : Là một nghề có tính truyền thống gắn với nhà nông , từ
phong trào ao cá Bác Hồ đến phong trào VAC. Xu hướng diện tích ao đang bị thu



hẹp do nhu cầu phát triển xây dựng nhà ở . Đối tượng cá nuôi khá ổn định : trắm ,
chép , trôi , mè , trê lai , rô phi nguồn giống sinh sản hoàn toàn chủ động. Năng
suất cá nuôi đạt bình quân trên 3 tấn/ha.
Nghề nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ đã phát triển mạnh. Đặc biệt , tôm càng xanh
là một mũi nhọn để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước , nhất là ở các thành phố ,
trung tâm dịch vụ góp phần điều chỉnh cơ cấu canh tác ở các vùng ruộng trũng ,tăng
thu nhập và giá trị xuất khẩu .
Vấn đề khó khăn là sự phụ thuộc của năng suất vào điều kiện thời tiết , khí
hậu cộng với vấn đề trình độ của người nuôi chưa được giải quyết thích hợp đã dẫn
đến sự không ổn định của sản lượng nuôi . Các giống đã đưa vào nuôi là : lươn ,
ếch , ba ba , cá sấu Tuy nhiên , do thiếu quy hoạch , không chủ động nguồn giống
, thị trường không ổn định đã hạn chế khả năng phát triển .
Nuôi cá mặt nước lớn : Đối tượng nuôi thả chủ yếu là cá mè , ngoài ra còn
thả ghép cá trôi , cá rô phi Do khó khăn trong khâu bảo vệ và giá cá mè thấp nên
lượng cá thả vào hồ nuôi có xu hướng giảm .
Hình thức nuôi chủ yếu hiện nay là lồng bè kết hợp khai thác cá trên sông ,
trên hồ . Hình thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước , tạo ra việc làm tăng
thu nhập , góp phần ổn định đời sống của những người sống trên sông , ven hồ . ở

các tỉnh phía Bắc và miền Trung , đối tượng nuôi chủ yếu là trắm cỏ , qui mô lồng
nuôi khoảng 12 – 24 m3 , năng suất 400 – 600 kg / lồng . ở các tỉnh phía Nam , đối
tượng nuôi chủ yếu là cá ba sa , cá lóc, cá bống tượng , cá he . Quy mô lồng , bè
nuôi lớn , trung bình khoảng 100 – 150 m3 / bè , năng suất bình quân 15 – 20 tấn /
bè .
Nuôi cá ruộng trũng : Tổng diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo
mô hình cá - lúa khoảng 580.000 ha . Năm 1998 , diện tích nuôi cá khoảng 154.200
ha . Năng suất và hiệu quả nuôi cá ruộng trũng khá lớn . Đây là một hướng cho việc
chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp , tăng thu nhập cho người lao động , xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn .
 Nuôi tôm nước lợ



Nuôi thuỷ sản nước lợ được phát triển rất mạnh thời kỳ qua , đã có bước
chuyển từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá , mang lại giá trị ngoại tệ cao
cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động .
Những năm gần đây tôm được nuôi ở khắp các tỉnh ven biển trong cả nước ,
nhất là tôm sú , tôm he , tôm bạc thẻ , tôm nương , tôm rảo , song chủ yếu là tôm sú
. Tôm được nuôi trong ao đầm theo mô hình khép kín , nuôi trong ruộng và nuôi
trong rừng ngập mặn . Nhìn chung , khu vực miền Nam thuận lợi nhất cho viêc nuôi
tôm . Nghề nuôi tôm ở khu vực này phát triển mạnh , chủ yếu dựa vào việc đánh bắt
các giống tôm tự nhiên . Diện tích nuôi tôm ước tính có tới 200 nghìn ha , trong đó
25 % là nuôi kết hợp với trồng ( tôm – lúa , tôm – dừa , tôm – sản xuất muối , tôm -
đước ) .

 Nghề nuôi trồng thuỷ sản nước mặn
Nghề nuôi biển có tiềm năng phát triển tốt . Đến nay nghề nuôi trai lấy ngọc
, nuôi cá lồng , nuôi tôm hùm , nuôi thả nhuyễn thể hai mảnh vỏ , nuôi trồng rong
sụn có nhiều triển vọng tốt . Tuy nhiên do khó khăn về vốn , hạn chế về công nghệ,

chưa chủ động được nguồn giống nuôi nên nghề nuôi biển thời gian qua còn bị lệ
thuộc vào tự nhiên , chưa phát triển mạnh .
 Hệ thống sản xuất giống
Hệ thống sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt : Các loài cá nước ngọt truyền
thống hầu hết đã được sản xuất nhân tạo trong thời gian qua . Vấn đề cung cấp
giống cho nuôi trồng các đối tượng này tương đối ổn định . Số cơ sở sản xuất cá
giống nhân tạo trên toàn quốc hiện nay khoảng 354 cơ sở , hàng năm có khả năng
sản xuất khoảng trên 4 tỷ cá giống cung cấp kịp thời vụ cho nhu cầu nuôi trên cả
nước . Tuy nhiên , giá cá giống nhất là các loại đặc sản còn cao , chưa đảm bảo chất
lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ .
Hệ thống sản xuất giống tôm : Giống tôm về cơ bản đã cho đẻ thành công ở
cả 3 miền Bắc, Trung, Nam , nhưng sản lượng còn thấp . Vấn đề nuôi vỗ tôm bố mẹ
thành thục chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng dẫn đến tình
trạng khan hiếm nguồn tôm bố mẹ trên cả nước , đặc biệt là vào vụ sản xuất chính .
Đến nay trên toàn quốc đã có 2.125 trại sản xuất và ươm tôm giống , hàng năm sản



xuất được khoảng 5 tỷ tôm P15 , bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu tôm giống
cho nhân dân .
Hạn chế chủ yếu trong sản xuất giống là sự phân bố không đồng đều của các
trại giống theo khu vực địa lý đã dẫn đến tình trạng phải vận chuyển con giống đi
xa , vừa làm tăng thêm giá thành vừa làm giảm chất lượng con giống , chưa có sự
phù hợp trong sản xuất giống theo mùa đối với các loài nuôi phổ biến nhất và thiếu
các công nghệ hoàn chỉnh để sản xuất giống sạch bệnh .
 Tình hình sản xuất thức ăn
Theo thống kê hiện nay trên toàn quốc có khoảng 24 cơ sở sản xuất thức ăn
nhân tạo với tổng công suất 47.640 tấn / năm, sản lượng thức ăn đạt được chưa đáp
ứng nhu cầu cả và số lượng lẫn chất lượng . Giá thành cao do chi phí đầu vào chưa
hợp lý ảnh hưởng đến sức tiêu thụ . Với một số mô hình nuôi bán thâm canh ( nuôi

tôm ) và thâm canh ( nuôi cá lồng ) thì thức ăn được nhập từ nước ngoài và phải chi
trả một lượng ngoại tệ tương đối lớn .

2.4. Khai thác thuỷ sản
Khai thác luôn giữ vai trò quan trọng trong ngành thủy sản và bảo vệ an ninh
chủ quyền trên biển . ở Việt Nam , khai thác thuỷ sản mang tính nhân dân rõ nét .
Nghề cá ở khu vực nhân dân chiếm 99 % số lượng lao động và 99,5 % sản lượng
khai thác thuỷ sản .
Tàu thuyền : Trong giai đoạn 1991 – 2000 số lượng tàu thuyền máy tăng
nhanh , ngược lại tàu thuyền thủ công giảm dần . Năm 1991 tàu thuyền máy có
44.347 chiếc , chiếm 59,6 %; thuyền thủ công 30.284 chiếc , chiếm 40,4 % , đến
cuối năm 1998 tổng số thuyền máy là 71.767 chiếc , chiếm 82,4 % , tổng số thuyền
thủ công là 15.337 chiếc chiếm 17,6 % tổng số thuyền đánh cá .
Cơ cấu nghề nghiệp khai thác : Nghề nghiệp khai thác thuỷ sản ở nước ta rất
đa dạng và phong phú về quy mô cũng như tên gọi , theo thống kê chưa đầy đủ đã
có trên 20 loại nghề khác nhau được xếp vào 6 họ nghề chủ yếu ; tỷ lệ các họ nghề
như sau :
+ Họ lưới kéo chiếm 26 % : Phù hợp với nguồn lợi ở vùng biển Đông Nam
Bộ .



+ Họ lưới vây chiếm 4,3 % .
+ Họ lưới rê chiếm 34,4 % : Phù hợp với nguồn lợi ở vịnh Bắc Bộ
+ Họ mành vó chiếm 5,6 % .
+ Họ câu chiếm 13,4 % .
+ Họ cố định chiếm 7,1 % .
+ Các nghề khác chiếm 9 % .
Lao động khai thác : Hiện nay lực lượng lao động khai thác còn khá dư thừa
kể cả lực lượng lao động kỹ thuật và lực lượng lao động đến tuổi được bổ sung

hàng năm . Nhìn chung lực lượng lao động thành thạo nghề nhưng trình độ văn
hoá thấp gây ảnh hưởng nhiều đến việc khai thác .
Do có sự phát triển về số lượng tàu thuyền , công cụ và kinh ngiệm khai thác
mà tổng sản lượng hải sản khai thác trong 10 năm gần đây tăng liên tục (khoảng 6,6
% / năm ) . Riêng trong giai đoạn 1991 - 1995 tăng với tốc độ 7,5 % / năm ; giai
đoạn 1996 – 2000 tăng bình quân 5,9 % / năm . Cơ cấu sản phẩm khai thác có nhiều
thay đổi : ngư dân đã chú trọng khai thác các sản phẩm có giá trị thương mại cao
như tôm , mực , cá mập , cá song , cá hồng , góp phần tăng kim nghạch xuất khẩu.
Cá nước ngọt cũng được chú ý khai thác . Việt Nam có trên 200.000 ha hồ
trong đó hồ tự nhiên trên 20.000 ha còn lại là hồ chứa
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều vùng trũng lớn , ví dụ :
- Vùng Đồng Tháp Mười :140.000 ha
- Vùng tứ giác Long Xuyên : 218.000 ha
Hàng năm cá ở hệ thống sông Cửu Long tràn vào đây trong mùa mưa để
kiếm ăn , đến mùa khô lại rút ra sông nên nông dân mỗi năm khai thác được khoảng
trên 20.000 tấn .
Nước ta có hàng ngàn sông . Trước đây nguồn lợi cá sông rất phong phú . Ví
dụ vào thập niên 70 trên sông Hồng có trên 70 hợp tác xã đánh cá sản lượng khai
thác hàng năm hàng ngàn tấn cá . Do khai thác quá mức nên nguồn cá sông cạn
kiệt, ngư dân phải chuyển sang kiếm sống bằng nghề khác . Các sông ngòi miền
Trung cũng diễn ra tình trạng tương tự . Hiện chỉ còn sông Cửu Long vẫn duy trì
được nghề khai thác với sản lượng xấp xỉ 30.000 tấn / năm , tạo công ăn việc làm



cho 40.000 lao động ở 249 xã ven sông . Hệ thống kênh rạch chằng chịt ở Nam Bộ
cung cấp một lượng cá đáng kể .

2.5. Chế biến thuỷ sản
Chế biến thuỷ sản là khâu rất quan trọng trong quá trình sản xuất , kinh

doanh thuỷ sản bao gồm nuôi trồng – khai thác – chế biến và tiêu thụ . Những hoạt
động chế biến trong 15 năm qua được đánh giá là có hiệu quả , nó đã góp phần tạo
nên sự khởi sắc của ngành thuỷ sản .
Nguyên liệu thuỷ sản được cung cấp từ 2 nguồn chính là khai thác hải sản và
nuôi trồng thuỷ sản . Nguồn hải sản là chủ yếu trong cơ cấu nguyên liệu trong
những năm qua , chiếm 70 % tổng sản lượng thuỷ sản thu gom được ở Việt Nam ,
trung bình 10 năm từ 1985 – 1995 , sản lượng khai thác hàng năm là khoảng
700.000 tấn . Trong đó 40% sản lượng là cá đáy , 60 % là cá nổi , sản lượng khai
thác phía Bắc chiếm 4,2 % , miền Trung 39,4 % và miền Nam 56,4 % . Giai đoạn
1985 –1995 tốc độ tăng bình quân là 4,1 % / năm , riêng giai đoạn 1991 – 1995 là
6,8%/năm. Sau năm 1995 , do nghề cá xa bờ được đầu tư mạnh hơn nên sản lượng
khai thác hải sản tăng rất mạnh, vượt mức một triệu tấn ( 1.078.000 tấn ) vào năm
1997 , tăng 15,8 % so với năm 1996 , năm 1998 đạt 1.137.809 tấn tăng 12,2 % so
với năm 1997 , năm 1999 đạt 1.230.000 tấn tăng 8,6 % so với năm 1998 .
Nguồn nguyên liệu nuôi trồng từ khai thác nội đồng là khoảng 300.000 –
400.000 tấn / năm , nếu tính bình quân 10 năm từ 1985 – 1995 thì tốc độ tăng
trưởng là 6,4%/năm. Tuy nhiên cũng giống như khai thác hải sản , sản lượng nuôi
trồng thuỷ sản những năm gần đây cũng tăng mạnh , năm 1997 đạt 509.000 tấn ,
tăng 19,7 % so với năm 1996 và vượt mức 500.000 tấn ( 537.870 tấn ) vào năm
1998 .
Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến , thói quen tiêu
dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến ngày
càng nhiều. Năm 1991 chỉ có khoảng 130.000 tấn nguyên liệu được đưa vào chế
biến xuất khẩu chiếm khoảng 15 % và khoảng xấp xỉ 30 % lượng nguyên liệu được
đưa vào chế biến cho tiêu dùng nội địa còn lại dùng dưới dạng tươi sống thì đến
năm 1998 đã có khoảng 400.000 tấn nguyên liệu được đưa vào chế biến xuất khẩu ,



chiếm khoảng 24,3% tổng sản lượng thuỷ sản và khoảng 41 % nguyên liệu được

chế biến cho tiêu dùng nội địa và như vậy chỉ còn khoảng 35 % nguyên liệu được
dùng dưới dạng tươi sống .
Nguyên liệu hải sản được đánh bắt từ nhiều loại tàu và ngư cụ khác nhau do
đó sản phẩm đánh bắt được cũng có những đặc tính khác nhau . Đối với các tàu đi
dài ngày, sản phẩm đánh bắt thường được bảo quản bằng đá, cá tạp thì ướp muối ,
rất ít phương tiện có hầm bảo quản . Các loại tàu nhỏ thường đi về trong ngày nên
nguyên liệu hầu như không qua xử lý bảo quản .
Nguyên liệu hải sản thường bị xuống cấp chất lượng do phương tiện và đầu
tư cho khâu bảo quản còn quá ít , quá thô sơ . Sau khi hải sản được đánh bắt thông
qua 142 bến , cảng cá chưa được xây dựng hoàn chỉnh do đó về mùa nóng các loại
hải sản thường bị xuống cấp nhanh chóng , giá trị thất thoát sau thu hoạch lớn
(khoảng 30%).
Các loại nguyên liệu từ nuôi trồng nước ngọt , lợ do gần nơi tiêu thụ hoặc là
chủ động khai thác nên được đưa trực tiếp ra thị trường hoặc vào thẳng các nhà máy
chế biến , hầu như không qua xử lý bảo quản , chúng thường đảm bảo độ tươi , chất
lượng tốt .
Nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch đã được tiến hành song tác động của nó
không là bao , một phần do sản phẩm thị trường còn chấp nhận hay do những lý do
kinh tế , tài chính , kỹ thuật mà bản thân ngư dân chưa thể áp dụng được . Khi phân
phối lưu thông nguyên liệu phải trải qua nhiều khâu trung gian nên chất lượng cũng
bị giảm sút .
Các mặt hàng chế biến thuỷ sản :
Các mặt hàng đông lạnh ( HĐL ) :
Trong giai đoạn 1985 – 1995 , các mặt hàng này có tốc độ gia tăng trung
bình 25,77 % / năm , giai đoạn 1990 – 1995 , lượng HĐL tăng mạnh ( 31,78 % ) ,
giai đoạn 1996 - 1998 lượng HĐL vẫn tiếp tục tăng mạnh ( trên 20% ) . Trong các
sản phẩm thuỷ sản đông lạnh thì tôm đông lạnh vẫn chiếm vị trí độc tôn , thời kỳ
1990 – 1995 chiếm khoảng 56 % , năm 1997 chiếm 46 % và 1998 là 52,5 % . Mực
và các mặt hàng cá đông lạnh cũng có tốc độ tăng trưởng rất mạnh . Các loại đông
lạnh khác chủ yếu là các loại ghẹ , ốc , cua , sò , điệp có tốc độ tăng trưởng rất




nhanh cùng với sự tăng trưởng của các mặt hàng có giá trị gia tăng . Xu hướng tăng
của sản phẩm nay còn rất lớn .
Mặt hàng tươi sống : gần đây cũng rất phát triển , chủ yếu dùng cho xuất
khẩu , bao gồm các loại cua , cá , tôm còn sống hoặc còn tươi như cá ngừ đại dương
.
Mặt hàng khô : Dạng sản phẩm này được sản xuất khá phổ biến vì đơn giản
về thiết bị , công nghệ , các loại sản phẩm chính là mực khô , cá khô , tôm khô ,
rông câu khô , các loại khô tẩm gia vị .
Các mặt hàng khác : Bên cạnh các mặt hàng trên còn có các mặt hàng đồ
hộp, bột cá gia súc, các sản phẩm lên men và các sản phẩm dùng cho xuất khẩu như
vây , bong, cước cá hay dùng cho nội địa như ngọc trai , arga , dầu gan cá

II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG MỸ.

1. Cơ cấu mặt hàng.
Các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ rất phong phú đa dạng , bao
gồm các mặt hàng chủ yếu sau :
.Tôm đông lạnh là mặt hàng chính , đứng hàng thứ nhất.
Việt Nam là nước cung cấp thủy sản lớn thứ 5 cho thị trường Mỹ, đồng thời
cũng là nhà cung cấp tôm lớn thứ 5 ở thị trường này. Nguồn cung tôm cỡ lớn
của Việt Nam có vai trò quan trọng trên thị trường này.

Năm 2009, Việt Nam xuất gần 123.000 tấn thủy sản sang thị trường Mỹ, trị giá
trên 713 triệu USD, tăng 14.6% về khối lượng nhưng giảm 4,2% về giá trị.

9 tháng đầu năm 2010. XK thủy sản Việt Nam sang Mỹ đạt trên 108.000 tấn,
trị giá 666,66 triệu USD, tăng đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái, nhất là tốc

độ tăng giá trị (37,4%) bằng gần gấp rưỡi so với khối lượng (23,7%). Như vậy
thủy sản XK sang Mỹ đã có cải thiện đáng kể về giá và mức độ chế biến sâu.
Từ đầu những năm 2000, Mỹ đã trở thành một trong ba thị trường tiêu thụ
nhiều nhất thủy sản của Việt Nam, mặc dù có hai vụ kiện “chống bán phá giá”



(CBPG) đối với tôm và philê cá tra đông lạnh. Mấy năm gần đây, giá trị XK
sang Mỹ thường chiếm khoảng 16-22% tổng giá trị XK thủy sản của Việt
Nam; riêng 9 tháng đầu năm 2010 chiếm 19%, tăng đáng kể so với mức trên 16%
của cả năm 2009.
Các mặt hàng thủy sản XK chính gồm tôm, chiếm 26,4% tổng giá trị XK tôm
của Việt Nam; cá tra (11% tổng XK cá tra); cá ngừ (45,3%); nhuyễn thể (3,7%).


Trong đó, cá ngừ có được tốc độ tăng trưởng mạnh, tăng 62,5% về khối lượng
và 112,8% về giá trị (gần 100 triệu USD), ấn lượng nhất là cá ngừ đại dương
đông lạnh cao cấp và cá ngừ hộp. Tỷ lệ cá dạng nguyên liệu ngày càng giảm.
Dự đoán, XK cá ngừ của nước ta sẽ tiếp tục giữ vững nhịp độ trên trong những
tháng tới.

Sản phẩm của Việt Nam XK sang Mỹ đáng lo ngại nhất hiện nay là cá tra, mặc
dù theo thống kê, 9 tháng đầu năm nay giá trị XK đạt trên 113 triệu USD – mức
cao nhất tính theo thị trường đơn lẻ. Cả khối lượng và giá trị XK vẫn tăng
mạnh, tương ứng 20,9% và 17,1%,. Nhưng mới đây, nhiều nhà XK cá tra bị đe doạ
áp mức thuế CBPG (sơ bô) cho giai đoạn từ 1/8/2008 đến 31/7/2009 rất cao do
Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) cố tình thay đổi phương pháp tính biên độ phá
giá đối với cá tra Việt Nam.
XK tôm 9 tháng đầu năm nay có chuyển biến rất tích cực, từ mức giảm khá sâu
trong cả năm 2009, cả về khối lượng và giá trị (giảm 8,3% và 15,4% tương ứng).

Giá trị XK 9 tháng đầu 2010 đạt 376 triệu USD, chỉ thấp hơn không đáng kể so với
cả năm 2009.

Mặc dù thị trường tiêu thụ tôm của Mỹ thường biến động và cạnh tranh gay
gắt, nhưng tôm Việt Nam đã có uy tín tốt trên thị trường này. Có nhiều
triển vọng XK từ nay đến cuối năm vẫn thuận lợi và đạt giá trị cao hơn
đáng kể so với năm 2009.




- Đứng hàng thứ ba là cá biển đông lạnh các loại ( cá phi lê tươi đông lạnh , cá
ba sa phi lê đông , cá ngừ vây vàng tươi ) .
Ngoài ra còn có :
-Mực đông lạnh : gồm mực phi lê đông block , mực nguyên con IQF
-Nhóm hàng thuỷ đặc sản : yến sào , ngọc trai , cua huỳnh đế , ốc hương ,
sò huyết ,
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ năm 2010 và dự báo 2011


TT Hạng mục ĐVT 2010 Dự báo 2011
Xuất khẩu thủy sản Tỷ USD 5,03 5.0-5.2
1 Tôm Tỷ USD 2.08 2.0-2.2
2 Cá tra Tỷ USD 1.40 0.9-1.0
3 Khác Tỷ USD 1.55 1.8-2.0
Nguồn: Hiệp hội chế biến thủy sản (VASEP) và dự báo của tác giả

2. Thực trạng xuất khẩu
Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện nay , Mỹ
được đánh giá là thị trường đầy triển vọng , đứng hàng thứ hai sau Nhật Bản(trong

6 tháng đầu năm 2001, chiếm 25,3 % kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ) .
Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban
đầu còn thấp , chỉ có 6 triệu USD . Từ đó giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng liên
tục qua các năm . Năm 1997 , xuất khẩu bình quân vào Mỹ bình quân 3 triệu USD /
tháng , năm 1998 đã lên tới 82 triệu USD ( tăng 14 lần năm 1994 ) và đưa Việt Nam
lên vị trí 19 trong số các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ . Trong 7 tháng đầu năm
1999 , kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 70,5 triệu USD và cả năm 1999 đạt 130
triệu USD . Trong 8 tháng đầu năm 2000 , theo công bố của Mỹ , Việt Nam đã xuất



khẩu sang Mỹ 21.855 tấn sản phẩm thuỷ sản các loại trị giá trên 200 triệu USD ,
chiếm khoảng 3 % giá trị nhập khẩu thuỷ sản của họ , cả năm 2000 đã xuất khẩu đạt
giá trị 302,4 triệu USD (tăng so với năm 1999 là 114 % ) và trong 6 tháng đầu năm
2001 , xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về
khối lượng , với giá trị 210,4 triệu USD (tăng so với cùng kỳ năm trước tương ứng
là 94 % và 70,5 % ) , đến cuối năm 2001 , Mỹ lần đầu tiên đứng vào danh sách các
nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam với giá trị gần 500 triệu USD ( chiếm 28,4
% thị phần ) . Trong 9 tháng đầu năm 2002
Theo Hải quan Mỹ, mặc dù nền kinh tế đang trong thời kỳ khó khăn, đặc biệt
sau sự kiện ngày 11/9/2001, nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ trong 9 tháng đầu năm
2001vẫn tăng 1,45% so với cùng kỳ năm 2000và đạt 1.334 nghìn tấn. Sau đây là
các mặt hàng nhập khẩu chính.

Chỉ tiêu
Khối lượng
nhập khẩu
(1000T)
% tăng, gi
ảm so cùng

kỳ
Cá tươi và cá đông

- Cá ngừ tươi và đông 76,3 - 16,2
- Cá rô phi 38,8 + 21,2
- Cá biển tươi và đông 250,0 - 6,7
- Cá đông block 39,2 - 36,7
- Cá philê :
+ Cá catfish 6,05 + 142
+ Tổng cộng cá philê 267,2 + 9,5
Tổng cộng cá tươi và đông 616,9 - 1,5
Giáp xác, nhuyễn thể

- Tôm đông 262,4 + 8
- Cua đông 53,9 + 42
- Thịt cua 9,3 + 43



- Tôm hùm 33,1 - 5,5
- Mực ống 21,0 - 3,2
- Điệp 14,4 - 15,3
Tổng cộng giáp xác, nhuyễn thể 451 + 8,4
Hộp thuỷ sản

- Hộp cá ngừ 106,5 - 10,5
Tổng cộng hộp cá 143,7 - 9
Tổng cộng hộp thuỷ sản 187 - 5,6
Tổng cộng hàng thuỷ sản thực phẩm 1.292 + 1,4
Tổng cộng hàng thuỷ sản kỹ thuật 42 13,5

Toàn bộ sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu

1.334 + 1,4

Nhìn chung, nhập khẩu các sản phẩm cá của Mỹ trong 9 tháng đầu năm có
giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2000 Tuy nhiên, các mặt hàng tăng trưởng rất nhanh
là cá philê ba sa và cá tra Việt Nam, cá rô phi. Nhập khẩu cá đông block giảm tới
36,7%.
Các mặt hàng cao cấp đều có nhiều biến động. Nhập khẩu tôm đông vẫn giữ
mức tăng cao là + 8%, cua đông là + 42%, thịt cua + 43%. Tôm hùm là mặt hàng
cao cấp nhất lại có mức nhập khẩu giảm 5,5%. Điệp đông lạnh giảm tới 15,3%.
Hộp cá ngừ giảm tới 10,5%.
Tình trạng khó khăn về kinh tế và sau sự kiện 11/9 đã ảnh hưởng rất lớn tới
mức nhập khẩu các sản phẩm thuỷ sản cao cấp của Mỹ. Tuy khối lượng nhập khẩu
các mặt hàng tôm, cua, cá philê có tăng, nhưng giá nhập khẩu lại giảm nhiều.
Theo Hải quan Việt Nam, xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong
năm2001 kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt giá trị 489 triệu UDS, chiếm 27% giá
trị xuất khẩu thuỷ sản và Mỹ là thị trường xuất khẩu đạt giá trị lớn nhất.
Theo Hải quan Mỹ xuất khẩu tôm đông của Việt Nam sang Mỹ 9 tháng đầu
năm 2001 như sau :



Tháng
Khối lượng tôm đông xuất khẩu (tấn)
1 1.118
2 703
3 1.032
4 1.113
5 1.775

6 2.966
7 3.733
8 4.607
9 3.724
Tổng cộng 20.771
Tôm đông Việt Nam chiếm 8% thị phần nhập khẩu tôm của Mỹ và đứng
hàng thứ 4 trong số các nước xuất khẩu tôm sang Mỹ. Điều đáng tiếc là giá trung
bình tôm đông nhập khẩu 9 tháng qua của Mỹ giảm sút chỉ còn 9,14 USD/kg, giảm
14,7% so với cùng kỳ năm 2001 Kết quả là khối lượng nhập khẩu tôm đông của Mỹ
tăng 8%, nhưng giá trị chỉ có 2,4 tỷ USD so với 2,6 tỷ USD cùng kỳ năm 2000.
Tính đến tháng 10 năm 2000 , tôm đông chiếm tỷ trọng áp đảo trong các mặt
hàng xuất khẩu của ta với 13.243 tấn, giá trị 201 triệu USD, chiếm 81% giá trị xuất
khẩu thuỷ sản nói chung . Rất ít quốc gia xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ lại có tỷ lệ
mặt hàng tôm đông lớn như của Việt Nam. Tôm đông Việt Nam chiếm 4,7% khối
lượng nhập khẩu tôm vào Mỹ và đứng hàng thứ 8 trong số các quốc gia xuất khẩu
mặt hàng này. Khác hẳn với thị trường Nhật Bản , tại Mỹ tôm đông Việt Nam có
giá rất cao, trung bình tới 15 USD/kg . Việt Nam cùng với Thái Lan, ấn Độ ,
Inđônêxia và Trung Quốc đã tăng nhanh mức xuất khẩu tôm đông sang Mỹ để lấp
khoản thiếu hụt do tôm nuôi của Ecuađo, Mêxicô, Panama, En Xanvanđo bị giảm
sản lượng nghiêm trọng vì dịch bệnh. Trong năm 2001 xuất khẩu sang Mỹ các mặt
hàng có khối lượng lớn như là:Tôm các loại(33.200 tấn), cá tra và cá basa(7.800
tấn), cá ngừ cá các loại(1.200 tấn) Mặt hàng trên là những thế mạnh của Việt Nam
ở thị trường Mỹ



Năm 2000 giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt khoảng 235 triệu USD,
chiếm vị trí thứ 3 trong số các nước xuất khẩu tôm vào Mỹ . Tuy nhiên , hàng tôm
đông Việt Nam vẫn chỉ giữ vị trí rất khiêm tốn trên thị trường Mỹ , chiếm 5,3 % sản
lượng tôm nhập khẩu , trong khi Thái Lan là 44,2 % , Mê hi cô là 10,2 %

Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 973 tấn , giá trị 9,3 triệu
USD trong 2 tháng đầu năm 2002 , tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 ( chỉ có
1,5 triệu), riêng cá ngừ vây vàng tươi đạt 710 tấn , giá trị 4,3 triệu USD . Cá biển
đông lạnh các loại có giá trị xuất khẩu đứng hàng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu USD
trong 2 tháng đầu năm 2002 , trong đó cá ba sa phi lê đông là mặt hàng Việt Nam
vẫn chiếm lĩnh thị trường Mỹ với giá trị xuất khẩu 1, 7 triệu USD, ( năm 2000 , cá
ba sa phi lê có mức xuất khẩu 2.045 tấn , giá trị 8, 3 triệu USD , là mặt hàng độc tôn
của Việt Nam tại thị trường Mỹ ) , cá biển phi lê đông đạt 536 tấn , giá trị 1,5 triệu
USD . Mặc dù xảy ra tranh chấp về thương hiệu cá ba sa , nhưng năm 2001 sản
lượng cá ba sa , cá tra chế biến xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp đôi năm 2000 ,
từ 14.000 tấn ( trị giá 42 triệu USD ) lên 31.000 tấn ( trị giá gần 75 triệu USD).
Mặt hàng cua biển cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ (
bao gồm cua sống , cua đông, cua luộc , thịt cua đông ) đạt giá trị xuất khẩu 1,8
triệu USD ( riêng thịt cua đông có giá trị 722 nghìn USD ) trong 2 tháng đầu năm
2002 .
Hộp thuỷ sản là sản phẩm được người Mỹ rất ưa chuộng với đủ các loại mặt
hàng như hộp cá, hộp tôm, hộp cua, hộp mực và hộp nhuyễn thể 2 vỏ . Mức nhập
khẩu 10 tháng đầu năm 2000 lên tới 220 nghìn tấn (riêng hộp cá ngừ là 130 nghìn
tấn) . Rất tiếc trong thị trường nhập khẩu hộp thủy sản rất sôi động này, sản phẩm
của Việt Nam còn gần như vắng bóng .
Trong năm 2002 do sự việc hiệp hội thuỷ sản Hoa Kỳ kiên các doanh nghiệp
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bán phá giá tại thị trướng Hoa Kỳ cho nên việc xuất
khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ gặp những khó khăn trong
việc xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng nhìn chung xuất khẩu thuỷ sản vẫn có triển
vọng phát triển mạnh tại thị trường Mỹ.

3. Giải pháp tháo gỡ khó khăn




Trên cơ sở nghiên cứu các khó khăn , thách thức đối với các doanh nghiệp Việt
Nam trong việc xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ có thể đề ra một số giải pháp
sau :
Việt Nam cần nhanh chóng đổi mới công nghệ , từ Bloock chuyển sang IQF
và hàng hoá đạt tiêu HACCP.
Với sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ kiểu mới , đặc biệt là việc đặt ra các
quy chế nghiêm nghặt trong vệ sinh an toàn thực phẩm , đòi hỏi các doanh nghiệp
Việt Nam phải hết sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm , thuỷ sản xuất khẩu của
Việt Nam phần lớn là mặt hàng để ăn uống nên vấn đề vệ sinh phải được đặt lên
hàng đầu .
Tiến hành xuất khẩu ra nước ngoài nói chung , xuất khẩu vào Mỹ nói riêng
thì việc đảm bảo uy tín là hết sức quan trọng . Để mối quan hệ làm ăn lâu dài cần
khắc phục kiểu làm ăn chụp giựt , có khi mang tính lừa đảo như cho đinh , chì
vào tôm để gian dối trọng lượng và kích cỡ, bơm agar vào tôm và lòng đỏ trứng gà
vào đầu tôm
Cần hết sức coi trọng hoạt động maketing , cần nhận thức rõ quảng cáo , giới
thiệu sản phẩm là rất quan trọng nhưng đó chỉ là một phần của hoạt động marketing
, có nhận thức đúng đắn về hoạt động marketing sẽ giúp các doanh ngiệp tăng
doanh số tiêu thụ sản phẩm.
Một vấn đề cần quan tâm nữa là vấn đề bao bì , bao gói sản phẩm. Bao bì
của Việt Nam hiện còn rất thiếu sức hút , hấp dẫn khách hàng . Vì vậy cùng với
việc nâng cao chất lượng sản phẩm cần chú trọng đổi mới mẫu mã bao bì , sao cho
thực sự “ bắt mắt ” với khách hàng , nhất là đối với những khách hàng có lối sống
hiện đại kiểu Mỹ .
Góp phần hỗ trợ cho các doanh ngiệp , không thể thiếu vai trò của nhà nước
trong việc đổi mới cơ chế chính sách , đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại,
nghiên cứu thị trường nhất là khi các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ trên
thị trường Mỹ , đào tạo cán bộ quản lý , cán bộ khoa học cho ngành thuỷ sản .
Sau sự kiện ngày 11 – 9 , với sự lo ngại của người dân Mỹ về nguy cơ khủng
bố sinh học , các doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng tạo ra sự tin tưởng an toàn




tuyệt đối các sản phẩm thuỷ sản của mình . Tạo được sự tin tưởng này sẽ có tác
động rất lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ .
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA
VIỆT NAM SANG MỸ, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT.
1. Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ.
Thị trường thuỷ sản Mỹ là một thị trường rất có tiềm năng nhưng Việt Nam
mới chỉ khai thác được một phần rất khiêm tốn. Nhìn chung là việc xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam sang Mỹ bên cạnh những thuận lợi thì cũng còn gặp rất nhiều khó
khăn như chúng ta đã đánh giá ở trên
2. Thành tựu
Năm 2001, Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ 70.931 tấn thuỷ sản các loại, trị
giá 489 triệu USD. So với tổng kim ngạch gần 1,8 tỷUSD với số lượng 538.833 tấn
thuỷ sản đã XK trong năm qua thì lượng XK vào thị trường Mỹ là rất đáng kể .
Bộ thuỷ sản đánh giá , Mỹ đang là thị trường thuỷ sản dẫn đầu của ngành
thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam. Thị trường Nhật tuy vẫn tăng về giá trị , nhưng tỷ
trọng đã giảm dần . Mỹ đã trở thành thị trường quan trọng chiếm vị trí dẫn đầu , với
thị phần tăng nhanh từ 6% năm 1998 lên 27,81% năm 2001. Thị trường Mỹ cần
được quan tâm, tiếp tục mở rộng do nhu cầu nhập khẩu hàng năm lớn tới khoảng 10
tỷ USD. Yêu cầu về chất lượng và an toàn cao nhưng không khắt khe như thị
trường EU. Giá bán thuỷ sản sang Mỹ lại cao hơn các thị trường khác. Mặt hàng
xuất khẩu vào thị trường Mỹ ngày càng mở rộng với các mặt hàng tươi sống như cá
ngừ , cá thu, cua.
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ gắn liền với sự tiến bộ trong
quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ , đặc biệt sau khi hiệp định thương
mại Việt – Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 . Sự kiện đó mở ra những cơ hội kinh
doanh lớn cần được chuẩn bị nắm bắt ngay từ bây giờ đối với các doanh nghiệp
Việt Nam

Việc không ngừng tăng kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ qua các
năm đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của ngành thuỷ sản Việt Nam , thể hiện sự
đúng đắn trong đường lối lãnh đạo mở cửa của Đảng .



Việt Nam đã có 77 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Bắc
Mỹ .
Nhật Bản – khách hàng tiêu thụ nhất nhì thế giới- lại chìm đắm trong khủng
hoảng , chính trị – xã hội thiếu ổn định, kinh tế hồi phục chậm , đồng tiền chao đảo
mất giá khiến sức mua của dân tiếp tục giảm sút . Nhập khẩu tôm của họ trong 6
tháng đầu năm 2001 giảm 10 % so với cùng kỳ năm ngoái , giá nhập khẩu trung
bình cũng giảm khoảng 20 % . Kết quả là lượng sản phẩm tôm tăng lên được dồn
sang thị trường Mỹ , nhà nhập khẩu tôm đầu bảng , thị trường này đã nhập tăng 11
% so với cùng kỳ năm ngoái , trong đó từ Việt Nam tăng 108 %. Đương nhiên , giá
nhập khẩu tôm của Mỹ cũng giảm theo giá của Nhật Bản . Trong tình hình trên ,
việc Việt Nam vẫn gia tăng thêm 25 % , đạt trên 37 nghìn tấn tôm xuất khẩu với giá
trung bình chỉ giảm khoảng 11 % đã đánh dấu những cố gắng vượt bậc của các nhà
chế biến – xuất khẩu nước nhà .
Trước đây , phái đoàn ICD ( Mỹ ) đến thăm Việt Nam và làm việc với Bộ
thuỷ sản , nghiên cứu sâu rộng , toàn diện ngành thủy sản Việt Nam , đánh giá cao
tiềm năng phát triển nghề cá nước ta , cũng như vị trí quan trọng của ngành này
trong nền kinh tế quốc dân của Việt Nam . Hoa Kỳ có số dân 266 triệu người với
GNP là 7080 tỷ USD , bình quân thu nhập đầu người là 26.000 USD . Hàng năm
Mỹ nhập khẩu khoảng 1,4 triệu tấn thuỷ sản các loại với kim nghạch 6,5 tỷ USD .
Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường này tuy còn rất
khiêm tốn . Mỹ thật sự coi Việt Nam là nguồn chính thức cung cấp thuỷ sản , đặc
biệt là tôm . Trong thời gian qua tôm nhập khẩu vào Mỹ tăng lên rất nhanh , nhất là
mặt hàng tôm nõn , tôm nõn rút gân , PTO , ngoài ra còn có một số loại cá nhiệt đới
cũng bán chạy ở Mỹ như cá hông phi lê, cá rô phi đỏ và đen phi lê .


3. Thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân.

3.1. Thuận lợi.
Thị trường thuỷ sản Mỹ là một thị trường rất có tiềm năng,giới tiêu dùng Mỹ
đã quen dùng các loại thuỷ sản của Việt Nam nhất là cá tra cá basa. Đây là một lợi
thế lớn đối với Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ.

×