Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Phát triển kinh tế tri thức ở thành phố hồ chí minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.86 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


CÔNG THỊ PHƯƠNG NGA

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ cuối thế kỷ XX, sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ
làm xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực lao động chủ yếu dựa vào tri
thức. Tri thức có vai trò to lớn đối với việc tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm. Hàm lượng tri thức trong toàn bộ quá trình sản
xuất cũng như kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn, tri thức trở thành
động lực thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội…Từ đây, kinh tế tri
thức ra đời. Đó là nền kinh tế dựa vào tri thức khoa học nhiều hơn dựa vào
tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp.
Kinh tế tri thức là một hiện tượng mới xuất hiện từ cuối thế kỷ XX trở
lại đây, nhưng đã có những bước tiến khá nhanh ở các nước phát triển và
đang ảnh hưởng tới tất cả các quốc gia khác trên thế giới. Đây là thời cơ
nhưng cũng là thách thức đối với sự phát triển của mọi quốc gia trên thế
giới. Dù con đường đó không phải dễ dàng, nhưng đó là cơ hội để có


những sự phát triển bứt phá, rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Ngày nay,
nhiều quốc gia trên thế giới có chiến lược phát triển kinh tế tri thức theo
những cách thức riêng phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình. Các
nước phát triển tập hợp, thu hút lao động trí tuệ, thành tựu khoa học công
nghệ ở nhiều nước, nghiên cứu sâu vào lĩnh vực năng lượng mới, vật liệu
mới, hoá sinh học, khám phá vũ trụ… Để phát triển nền kinh tế, các nước
đang phát triển đứng trước hai khả năng: hoặc là tranh thủ được thời cơ và
có đường lối, chiến lược phát triển đúng, sáng tạo thì hoàn toàn có thể
vươn lên, sớm khắc phục tình trạng chậm phát triển để tiến kịp các nước đi
trước, còn nếu không nắm lấy thời cơ thì sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn.
Xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta chỉ rõ: “Con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình
độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học. Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn ở mức cao hơn và phổ biến


2

hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức” 1.
Qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, đã xây dựng được cơ sở
vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh; thu nhập
đầu người vượt khỏi ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi tình

trạng kém phát triển, trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình. Tuy
nhiên, hiệu quả, chất lượng, tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chưa
theo kịp các nước trong khu vực và chưa tương xứng với tiềm năng của đất
nước. Nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế vẫn còn đó. Vì vậy, đối với
nước ta hiện nay, để thực hiện thành công đường lối công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và có bước phát triển “rút ngắn”, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phát
huy những lợi thế vốn có của đất nước, tận dụng tối đa mọi cơ hội, mọi
khả năng có thể có để nhanh chóng đạt trình độ công nghệ tiên tiến; tranh
thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, “từng bước phát triển kinh tế tri
thức”. Có thể nói rằng kinh tế tri thức chính là thời cơ rất thuận lợi để Việt
Nam “đi tắt đón đầu”, từng bước thu hẹp khoảng cách, đuổi kịp các nước
phát triển trên thế giới. Chúng ta cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, gắn
với phát triển kinh tế tri thức, “hình thành những mũi nhọn phát triển theo
trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới” 2. Điều đó có nghĩa là
vừa phát triển nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ sức mạnh
của cả dân tộc với sức mạnh thời đại, tận dụng mọi nguồn lực bên trong và
bên ngoài, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người
Việt Nam; lấy phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm
nền tảng, động lực cho sự phát triển nhanh, có hiệu quả, bền vững.

1

Đảng cộng sản Việt Nam (2008): Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập. Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.456

2

Sđd, tr 295.



3

Trên con đường phát triển, thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những
thành tựu quan trọng và khá toàn diện. Vị thế, vai trò của thành phố đối
với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước ngày càng được khẳng
định. Sự phát triển của thành phố là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và
lan tỏa lớn của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như trong cả
nước. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và yêu cầu đặt ra
đối với thành phố, qui hoạch và quản lý đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, cản trở sự phát triển kinh tế. Chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn
nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển, hội nhập của thành phố;
khoa học - công nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội... Để thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển nhanh, bền vững
với chất lượng và tốc độ cao, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả
nước, chúng ta càng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa về phát triển kinh tế
tri thức. Thành phố cần sớm có một chiến lược, một định hướng phát triển
toàn diện kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Phát triển kinh tế tri thức
ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án:
Kinh tế tri thức mới xuất hiện trong những thập niên gần đây, nhưng
là chủ đề ngày càng được nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng như trong
nước quan tâm nghiên cứu.
Ở nước ngoài nhiều tác giả đã nghiên cứu và xuất bản các tác phẩm,
các công trình về kinh tế tri thức từ đầu những năm 90. Các chuyên gia nổi
tiếng thế giới đã bàn về sự xuất hiện của kinh tế tri thức và những tác động
của nó đối với sự phát triển của xã hội. Trong đó, các tác giả đã khẳng

định: tri thức là một sức mạnh kinh tế tạo ra tăng trưởng và thay đổi.
Ở trong nước, bắt đầu từ năm 2000, trước thềm Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, vấn đề kinh tế tri thức đã được nghiên cứu, tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tác giả đã khái quát lại theo 3 nhóm chủ đề
chính: một là, những công trình nghiên cứu về nền kinh tế mới - kinh tế tri
thức là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người, qua những nghiên


4

cứu đó đã khẳng định kinh tế tri thức là con đường ngắn nhất giúp Việt
Nam đuổi kịp các nước phát triển; hai là, những công trình nghiên cứu liên
quan tới môi trường phát triển kinh tế tri thức và các yếu tố trụ cột để vận
hành nền kinh tế tri thức; ba là, các công trình liên quan đến phát triển
kinh tế, kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh
Có thể nói trong những công trình khoa học trên đã đề cập sâu sắc tới
các góc độ khác nhau về vai trò của tri thức, của khoa học và công nghệ
đối với sự phát triển của đất nước; về kinh tế tri thức - xu thế tất yếu của
sự phát triển xã hội; về giải pháp phát triển cho kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh...
Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu còn mới, nhiều vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn chưa có tiền lệ, đặc biệt là các công trình nghiên cứu này
đều chưa đề cập trực tiếp một cách có hệ thống dưới góc độ triết học về
vấn đề kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Do vậy, tác giả đã kế thừa những yếu tố
hợp lý từ thành quả của các công trình nghiên cứu khoa học đi trước, cố
gắng lý giải về lý luận và thực tiễn những vấn đề cần làm sáng tỏ thêm về
đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước để phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu: Đề tài làm rõ hơn lý luận về kinh tế tri thức,
những tiêu chí của kinh tế tri thức và sự cần thiết phải xây dựng nhanh các
yếu tố để phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ thực trạng phát triển của
kinh tế tri thức hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất các
giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
Nhiệm vụ nghiên cứu: luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, luận chứng, làm rõ hơn về khái niệm kinh tế tri
thức, những đặc điểm cơ bản, tiêu chí và những trụ cột để xây dựng kinh tế
tri thức
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố Hồ Chí Minh


5

Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực tiễn, đề xuất
định hướng và các giải pháp để phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ
Chí Minh
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh; Ngoài ra, luận án sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành kết hợp với phương pháp
nghiên cứu liên ngành, đồng thời còn sử dụng các phương pháp như: phân
tích và tổng hợp; logic và lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp
diễn dịch và qui nạp, phương pháp khái quát hóa.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án:
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án là

kinh tế tri thức, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và Thành phố
Hồ Chí Minh
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nghiên cứu đến kinh tế tri thức ở Việt nam nói chung
và chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Về thời gian, chủ yếu đề cập giai đoạn từ Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đến nay.
- Giới hạn của luận án: Luận án không nghiên cứu toàn diện về kinh tế
tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà chỉ nghiên cứu dưới góc độ
triết học về khái niệm, đặc điểm, tiêu chí của kinh tế tri thức, thực trạng
phát triển của kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh và phương hướng,
giải pháp phát triển kinh tế tri thức trong quá trình CNH, HĐH ở thành phố
Hồ Chí Minh
6. Cái mới của luận án:
Thứ nhất, luận án làm rõ thực trạng phát triển kinh tế tri thức ở thành
phố Hồ Chí Minh (thành tựu và những hạn chế, cùng những nguyên nhân
của chúng)


6

Thứ hai, luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp thúc đẩy sự
hình thành và phát triển của kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận về tri thức
và kinh tế tri thức, vai trò của tri thức và kinh tế tri thức trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời,
góp phần cụ thể hóa quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ

thành phố Hồ Chí Minh về việc phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Về ý nghĩa thực tiễn: Nội dung nghiên cứu và kết quả đạt được của
luận án nhất là những phương hướng và các nhóm giải pháp, có thể vận
dụng vào thực tiễn để phát triển kinh tế tri thức nhằm “rút ngắn” quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những kết quả của luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu phát triển kinh
tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án bao gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về kinh tế tri thức
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tri thức
Đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
tạo ra sự bùng nổ công nghệ, còn gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ
ba. Khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ ngày càng nhanh. Khoa
học và tri thức phát triển theo cấp số nhân; những điều kiện, phương tiện
để nghiên cứu khoa học cũng tăng theo cấp số nhân. Từ những phát kiến
trong khoa học đi tới sáng chế công nghệ và đưa vào sản xuất, thời gian rút
ngắn đi rất nhiều; hầu như giữa khoa học và sản xuất không còn khoảng


7

cách. Khoa học phát triển tác động ngay đến lực lượng sản xuất; lực lượng

sản xuất mới tạo điều kiện cho khoa học phát triển nhanh hơn. Sự liên kết
chặt chẽ giữa khoa học và sản xuất là một đặc trưng nổi bật của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, là tiền đề cho sự hình thành và phát
triển nền kinh tế dựa vào tri thức.
Nhiều nhà khoa học, chuyên gia kinh tế trên thế giới cũng như tổ chức
nghiên cứu kinh tế quốc tế đã đưa ra các định nghĩa về loại hình kinh tế
mới này, gọi đó là “kinh tế tri thức”. Kinh tế tri thức không còn là một
thuật ngữ có tính học thuật mà thật sự trở thành mục tiêu then chốt trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Trên cơ sở phân
tích cách tiếp cận khái niệm mới mẻ này của các nhà nghiên cứu, tác giả
đã đưa quan niệm riêng của mình về kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học và công
nghệ, trong đó việc sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức không chỉ là
động lực mà còn giữ vai trò quyết định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát
triển xã hội.
1.1.2. Những đặc trưng và tiêu chí cơ bản của kinh tế tri thức
Những đặc trưng và tiêu chí cơ bản của kinh tế tri thức.
Những đặc trưng của kinh tế tri thức
Qua tổng hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, từ thực tế
phát triển của nền kinh tế tri thức, chúng ta có thể chỉ ra tám đặc điểm cơ
bản của nền kinh tế tri thức, đó là:
Một là, nền kinh tế tri thức lấy tri thức làm cơ sở.
Hai là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các
ngành có giá trị gia tăng cao.
Ba là, nền kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và đổi mới
nhanh. Sáng tạo trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
Bốn là, kinh tế tri thức lấy thông tin làm chỗ dựa để phát triển.
Năm là, nền kinh tế tri thức gắn liền với toàn cầu hóa, tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội.
Sáu là, sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất đặc biệt quan

trọng. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi
mới và phát triển. Khu công nghệ cao là nơi biến các tri thức mới, các phát


8

kiến khoa học mới thành công nghệ và sản phẩm. Đó là những hạt nhân
của kinh tế tri thức.
Tám là, kinh tế tri thức chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng
cao, thích nghi với sự phát triển.
Tiêu chí của kinh tế tri thức
Theo Giáo sư Đặng Hữu, kinh tế tri thức chỉ có thể được hình thành
trên bốn trụ cột: nguồn nhân lực chất lượng cao, năng động sáng tạo; thiết
lập được hệ thống đổi mới sáng tạo trên phạm vi quốc gia; phát triển và
ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực; hệ thống thể chế,
chính sách phù hợp, phát huy được mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng
sáng tạo. Tác giả luận án thống nhất với quan điểm này vì đây chính là
những yếu tố cơ bản nhất để phát huy được vai trò của tri thức vào phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội
1.2. Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp
nghèo, lạc hậu. Vì vậy việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao.
1.2.2. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát
triển kinh tế tri thức: Giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với cách mạng

khoa học công nghệ và kinh tế tri thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau, trong đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là giai đoạn xây dựng nền
tảng vật chất, là cơ sở cho kinh tế tri thức hình thành và phát triển. Kinh tế
tri thức phát triển sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn
ra với tốc độ nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Giữa hai quá trình phát triển này
có một yếu tố chung, nhờ đó mà có thể phát triển lồng ghép hai quá trình
này với nhau. Đó là đều dựa trên tri thức khoa học (hay có thể gọi tắt là
khoa học). Sự phát triển khoa học công nghệ là tiền đề, điều kiện để thúc
đẩy hai giai đoạn này phát triển (từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công


9

nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức). Đồng thời, chính
sự phát triển của khoa học công nghệ đã mang tới cơ hội cho các nước
phát triển sau, trong đó có Việt Nam, thực hiện được phát triển “rút ngắn”.
Chúng ta cần có chiến lược phát triển hợp lý, vừa có thể phát triển tuần tự,
vừa “đi tắt, đón đầu”, về thực chất là nhằm phát triển lực lượng sản xuất
với tính chất, trình độ ngày càng cao và năng suất, chất lượng hiệu quả sản
xuất ngày càng lớn.
Kết luận chương 1
Nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế tri
thức vẫn là một lĩnh vực còn mới mẻ và chưa phải đã được chấp nhận một
cách rộng rãi. Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu đều thống nhất về đặc điểm
nổi bật nhất, cơ bản của kinh tế tri thức, đó là tri thức đã trở thành vốn quý
nhất, động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế. Tri thức khoa học
đã thẩm thấu vào trong quá trình sản xuất, cả lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển sang một giai đoạn mới – giai đoạn
kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế được hình thành trên nền tảng khoa học

và công nghệ, trong đó việc sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức không
chỉ là động lực mà còn giữ vai trò quyết định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khác nhau, tác giả
đã chọn lọc, kế thừa và khái quát lại đưa ra tám đặc trưng cơ bản của kinh
tế tri thức và bốn tiêu chí quan trọng, quyết định nhất để hình thành được
nền kinh tế tri thức. Đây là cơ sở lý luận để tác giả đi sâu vào phân tích
thực trạng những yếu tố này ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình phát
triển kinh tế tri thức.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Điều kiện và những đặc điểm của TP. Hồ Chí Minh trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức


10

2.1.1. Điều kiện địa lý- tự nhiên, kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri
thức
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn nhất Việt Nam, một trung
tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế
quan trọng. Thành phố có nhiều thuận lợi về cả điều kiện tự nhiên cũng
như các điều kiện xã hội, các yếu tố văn hóa - giáo dục, khoa học - công
nghệ để phát triển nhanh kinh tế tri thức, đưa thành phố sớm trở thành một
đô thị hiện đại, một trung tâm kinh tế lớn và năng động ngang tầm các
nước trong khu vực.
2.1.2. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình phát triển kinh tế tri thức

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố có những đặc
điểm chung của ở Việt Nam, như: công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa; được thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; gắn liền với
việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế; khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng và động lực
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với những đặc điểm chung đó, Thành phố Hồ Chí Minh có
những đặc điểm, tiềm năng, thế mạnh riêng so với các địa phương khác
Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh được
thực hiện rất sớm, dựa trên nền tảng nền công nghiệp hiện sẵn có do lịch
sử để lại.
Hai là, nền kinh tế thành phố là kinh tế mở gắn kết với khu vực, quốc
tế.
Ba là, vốn cho phát triển kinh tế là một tiềm năng lớn của Thành phố.
Bốn là, chủ thể thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
thành phố Hồ Chí Minh rất năng động và sáng tạo.
Kinh tế - xã hội thành phố trong giai đoạn CNH, HĐH vừa qua đã
phát triển tạo ra những yếu tố, cơ sở, điều kiện quan trọng để xây dựng


11

môi trường cho một xã hội tri thức dựa trên nền tảng của kinh tế tri thức,
đưa thành phố vững bước hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
2.2. Thực trạng xây dựng những yếu tố trụ cột của kinh tế tri thức ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
Trong quá trình công nghiệp hóa, chính quyền thành phố đã có nhiều

nỗ lực xây dựng các yếu tố trụ cột của kinh tế tri thức như: phát triển và
ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông; đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao; thiết lập hệ thống sáng tạo hiệu quả và đổi mới hệ
thống thiết chế mạnh mẽ.
2.1.1. Xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng khoa học - công
nghệ
Công nghệ thông tin và truyền thông là công cụ quan trọng hàng đầu
để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, được ví như huyết mạch của nền
KTTT, vì vậy được chính quyền thành phố rất quan tâm, ưu tiên phát triển
và đưa vào phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong các hoạt động của
chính quyền thành phố và phục vụ nhu cầu người dân: Thương mại điện tử
trở thành ứng dụng quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp.
Nhiều website TMĐT của thành phố đã bước đầu xây dựng thương hiệu
thành công, được người tiêu dùng cả nước biết đến như: Thegioididong,
Lazada, Tiki, Vinabook, 5giay…3; Chính phủ điện tử được đầu tư phát triển
mạnh mẽ để kết nối giữa các cơ quan hành chính với nhau và giữa cơ quan
hành chính với người dân; Bưu chính viễn thông là ngành phát triển mạnh
mẽ nhất trong các ngành cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi thu
hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào TP.HCM.
Công nghiệp công nghệ thông tin Thành phố phát triển nhanh
Thành phố đã thực hiện những mục tiêu, chương trình, đề án ứng dụng
và phát triển CNTT cho tương lai. Đến nay, thành phố đã có 3 khu công
nghiệp phần mềm khai thác có hiệu quả công suất thiết bị và kết cấu hạ
tầng cao nhất, đó là: Công ty Saigon software park (SSP); Công viên phần
3

Sở Công Thương (2014) , Báo cáo sơ kết tình hình phát triển thương mại điện tử trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, tr 10,11



12

mềm Quang Trung ; Khu E- Town. Các khu công viên phần mềm này
không chỉ sản xuất, gia công phần mềm mà còn đào tạo nhân lực công
nghệ thông tin cho thành phố, góp phần tạo ra các sản phẩm của kinh tế tri
thức. Đó là những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Chính việc đầu
tư các công viên phần mềm này đã đưa thành phố phát triển nhanh theo
hướng tri thức.
Các khu công nghệ cao
Thành phố đã rất chú trọng tới việc xây dựng mô hình công nghệ phù
hợp trong việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thành phố hướng vào
kinh tế tri thức đầu tư, phát triển các khu công nghệ cao - nơi tạo ra các
sáng chế, phát minh và sản phẩm có hàm lượng chất xám cao có thể coi là
thuộc khu vực kinh tế tri thức, như: Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí
Minh (Sai gon Hitech Park – SHTP); Khu nông nghiệp công nghệ cao của
thành phố Hồ Chí Minh
Để tạo cơ sở vật chất vững chắc cho nền kinh tế trong thời kỳ quá độ,
phát triển kinh tế tri thức, thành phố đã phát triển và ứng dụng nhiều lĩnh
vực: công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu; phát triển công nghệ năng
lượng; công nghệ chế tạo máy. Đây chính là những cột trụ công nghệ của
kinh tế tri thức.
Trong quá trình phát triển các công nghệ cột trụ cho kinh tế tri thức ở
TPHCM còn những hạn chế, như: ngành công nghiệp công nghệ thông tin
phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng; việc phát triển thương mại
điện tử hiện còn mang tính tự phát, chưa được định hướng đầy đủ từ các
sở, ban, ngành của thành phố; sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của thành phố; trình độ trang thiết bị, máy móc, đầu tư
để đổi mới công nghệ còn chậm, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của kinh tế
tri thức. Tuy nhiên, bước đầu thành phố đã xây dựng được những kết cấu

hạ tầng, những trụ cột công nghệ hướng tới nền kinh tế tri thức.
2.1.2. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Hồ
Chí Minh để phát triển kinh tế tri thức
Nguồn nhân lực CLC là bộ phận tinh tuý và quan trọng nhất của
nguồn nhân lực, đó chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ


13

chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi; những người lao động lành nghề;
các cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn
Nguồn nhân lực thành phố liên tục phát triển về số lượng và không
ngừng tăng trưởng về chất lượng. Năm 2009, tổng dân số của thành phố là
7.201.550 người, trong đó, lực lượng lao động của thành phố là 5.785.785
người. Với cơ cấu đó, thành phố đã bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số
vàng”.
Công nhân trí thức, nông dân trí thức ngày càng đông đảo trong lực
lượng lao động của thành phố là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế
tri thức.
Đội ngũ trí thức trên địa bàn thành phố không ngừng phát triển. Thành
phố Hồ Chí Minh là chiếc nôi sản sinh ra một lực lượng tương đối lớn các
nhà khoa học để đáp ứng nhu cầu đối với sự phát triển khoa học và công
nghệ của thành phố và của các địa phương khác trên cả nước. Đến năm
2014, chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ của thành phố đã tuyển chọn,
đào tạo được 792 trí thức (có 81 tiến sĩ và 711 thạc sĩ) 4.
Với lực lượng hùng hậu này, trí thức thành phố có thể đóng góp
mạnh mẽ vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri
thức.
Đội ngũ doanh nhân được lãnh đạo thành phố quan tâm, nâng cao
trình độ để đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội

Cơ cấu lao động trong lực lượng lao động của thành phố đã có Sự
chuyển dịch theo hướng tri thức. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao
của thành phố hiện giờ chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tế cả về chất lượng
và số lượng. Để kinh tế tri thức phát triển, thành phố phải nhanh chóng xây
dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, bắt đầu từ đổi mới một cách
toàn diện nền giáo dục, đào tạo.
2.1.3. Phát triển khoa học công nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh
Trong quá trình phát triển, khoa học – công nghệ ở thành phố Hồ
Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhằm xây dựng cơ sở
4

Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014), Báo cáo số 212/BC UBND về Sơ kết 03 năm
(2011 - 2013) thực hiện chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố Hồ Chí
Minh và phương hướng thực hiện giai đoạn 2014 – 2015


14

vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế tri thức. Các giải pháp quản lý khoa học công nghệ làm rõ nhiều yếu tố và định hướng cơ bản của cơ chế hoạt động
khoa học - công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường và điều kiện phát
triển của nền kinh tế. Bước đầu hình thành thị trường công nghệ ở thành
phố và sự liên kết giữa doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước và các
trường đại học, viện nghiên cứu. Xây dựng và đưa vào khai thác mạng
thông tin khoa học và công nghệ của Thành phố. Hoạt động nghiên cứu
khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp tiếp tục được định
hướng và gắn kết rõ rệt vào sản xuất kinh doanh, giải quyết những vấn đề
thực tế, đáp ứng yêu cầu của sản xuất trong cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, trong hoạt động khoa học và công nghệ Thành phố vẫn còn
những hạn chế. Để đi vào nền kinh tế tri thức, thành phố đang rất cần những
nhà khoa học có tầm cỡ quốc tế có khả năng tổ chức thực hiện các chương

trình, đề án mang tính đột phá vào các mũi nhọn công nghệ cao hiện đại.
Trong thời gian tới cần tập trung đào tạo chuyên gia trên một số lĩnh vực
công nghệ cao mang tính chiến lược lâu dài như : công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, tự động hóa, công nghệ sinh học…
2.1.4. Hệ thống thể chế - pháp luật để phát triển thị trường tri
thức khoa học ở thành phố Hồ Chí Minh
Chính quyền thành phố quan tâm, đầu tư phát triển thị trường tri thức
khoa học ở thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều phong trào được hình thành để
tìm kiếm, khơi nguồn khả năng sáng tạo của lực lượng lao động trên địa
bàn thành phố như Phong trào sáng tạo kỹ thuật thành phố; Chương trình
“Vườn ươm sáng tạo Khoa học & Công nghệ trẻ”
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả nước đưa
hoạt động đào tạo quản trị viên tài sản trí tuệ vào thành một trong nhiều
đầu việc phục vụ Chương trình đột phá về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của Thành phố giai đoạn 2011-2015. Chính quyền thành phố đã
có sự đầu tư nhằm thúc đẩy cho việc triển khai một cách rộng rãi Luật Sở
hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho kinh tế tri thức phát triển.
Chính quyền thành phố cũng đưa ra các chính sách khuyến khích sử
dụng nguồn dữ liệu quý trong kho sáng chế của các nước phát triển
Tuy nhiên, sự hình thành phát triển thị trường tri thức khoa học ở


15

thành phố Hồ Chí Minh, như việc khai thác, tiếp cận, sử dụng dữ liệu sáng
chế và phi sáng chế vẫn còn hạn chế, số lượng sáng chế được ghi nhận là
quá ít so với nhu cầu phát triển của thành phố hiện nay. Cần nhiều hơn các
sáng chế có hàm lượng giá trị gia tăng cao, thay thế dần việc nhập máy
móc và linh kiện từ nước ngoài. Tình trạng vi phạm bản quyền, vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ vẫn chưa thực sự được kiểm soát.

2.3. Những thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
2.3.1. Những thành tựu đạt được
Thành phố đã có những cơ sở vật chất ban đầu của một nền công
nghiệp, trong đó có những yếu tố đã tiếp cận với công nghệ hiện đại; công
nghệ thông tin và lĩnh vực viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; việc đầu
tư cho phát triển nguồn nhân lực đã được cả xã hội coi trọng. Xã hội đang
vận động theo hướng là một xã hội học tập, trong đó những người lớn tuổi
luôn là tấm gương cho thế hệ trẻ. Trong dân cư, nhiều gia đình đã chú ý
đầu tư cho học tập rất sớm, cho con dự học theo các dự án đào tạo nước
ngoài. Như vậy là người dân thành phố cũng đã có dự báo, phân tích xu
thế phát triển và đầu tư cho việc học tập hiện tại. Đây cũng là một biểu
hiện của phát triển kinh tế tri thức trong đào tạo nguồn nhân lực.
Cơ cấu kinh tế thành phố đã được chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh
phát triển các ngành dịch vụ cao cấp, công nghiệp công nghệ cao, nông
nghiệp công nghệ cao, tạo những tiền đề đưa thành phố tiếp cận vào nền
KTTT.
Thành phố đã tạo lập, đưa ra những thể chế xã hội tạo thuận lợi thị
trường tri thức hình thành và phát triển. Song song cùng với việc ban hành
các chính sách phát triển KH & CN, thực thi luật Sở hữu trí tuệ, thành phố
đã đẩy mạnh mối liên kết giữa 3 nhà (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp), sớm đưa những sản phẩm khoa học trở thành công nghệ để lưu
thông trên thị trường. Thành phố đã xúc tiến việc phát triển thị trường
khoa học & công nghệ, nơi diễn ra các giao dịch mua bán các sản phẩm
khoa học và công nghệ (bản quyền, patent, bí quyết, sáng kiến và các dịch
vụ liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ). Thị trường khoa học
và công nghệ có 5 yếu tố cơ bản để hình thành bao gồm: Khung pháp lý


16


cho các giao dịch trên thị trường, bên mua, bên bán, cơ sở hình thành giá
cả và các hoạt động hỗ trợ dịch vụ xúc tác giữa người mua và người bán.
Đây là một thị trường đặc biệt mà khi phát triển sẽ góp phần quan trọng
thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế tri thức trên địa bàn thành phố.
2.3.2. Những hạn chế của sự phát triển kinh tế tri thức ở thành phố
Một là, nền kinh tế và công nghiệp Thành phố về cơ bản vẫn còn tình
trạng lạc hậu, các ngành công nghiệp truyền thống vẫn còn là chủ yếu.
Hai là, ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và tư duy bao
cấp còn khá nặng nề.
Ba là, đầu tư các nguồn lực cho phát triển kinh tế tri thức vẫn chưa
tương xứng với yêu cầu phát triển kinh tế.
Bốn là, còn một số vấn đề chưa được giải quyết tốt, là lực cản đối với
sự phát triển kinh tế tri thức. Những thế mạnh của thành phố chưa được
khai thác và sử dụng có hiệu quả. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt
trong công nghiệp và dịch vụ còn chậm. Các ngành công nghiệp mũi nhọn,
có hàm lượng khoa học công nghệ cao và các dịch vụ tài chính, ngân hàng,
tư vấn, chuyển giao công nghệ… chưa thực sự phát triển. Đặc biệt, việc
hoàn thiện thể chế, luật pháp, mà trực tiếp là Luật Sở hữu trí tuệ - điều
kiện quan trọng để đưa thành phố chuyển sang kinh tế tri thức chưa được
thực hiện đầy đủ. Các yếu tố để đi vào nền kinh tế tri thức đã được hình
thành nhưng còn rất ít. Thành phố cần nghiên cứu những thuận lợi cũng
như những khó khăn để tìm ra những giải pháp cụ thể để đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế tri thức.
Nhìn chung, năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế thành phố và các
sản phẩm còn yếu do các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp. Ngoài ra, thành
phố chưa hình thành và phát triển những sản phẩm mang tính biểu tượng
độc đáo của mình, sự phát triển các ngành và lĩnh vực hướng tới kinh tế tri
thức còn mờ nhạt. Kết quả cho thấy so với các tỉnh, thành của cả nước,
năng lực cạnh tranh của Thành phố Hồ Chí Minh tăng ba bậc so với năm

trước, xếp thứ 10, nằm trong top 10 tỉnh thành có CPI cao nhất cả nước
nhưng cũng chỉ ở nhóm tốt, chưa lên được nhóm rất tốt trong bảng xếp
hạng. Trong năm 2014, thành phố đã lên được nhóm rất tốt nhưng cũng
mới chỉ đứng thứ 4 trong các tỉnh thành


17

2.3.3. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển kinh tế tri thức ở
thành phố
Xuất phát từ những thực trạng cơ bản trên, để xây dựng nhanh hơn
nữa những yếu tố của kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thành phố cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Một là, cần phải thay đổi mạnh mẽ về nhận thức, nhất là đối với đội
ngũ lãnh đạo quản lý của thành phố, phát huy vai trò của người đứng đầu.
Hai là, tập trung phát triển khoa học và công nghệ, thực sự coi đó là
quốc sách hàng đầu.
Ba là, tiềm năng, thế mạnh của thành phố chưa được phát huy mạnh
mẽ để phát triển kinh tế tri thức, phát triển thành phố cho tương xứng.
Thành phố cần sự hỗ trợ của Trung ương, đề xuất ban hành những cơ chế,
chính sách đặc thù để phát triển kinh tế tri thức, đặc biệt trong các lĩnh
vực: phát triển khu công nghệ cao, chất lượng cao, các ngành, lĩnh vực
trình độ cao, chất lượng cao, các mô hình doanh nghiệp tri thức; đào tạo,
thu hút, sử dụng nguồn nhân lực, tri thức. Huy động sự tham gia tích cực,
mạnh mẽ của các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ
Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát
triển của thành phố. Thành phố cần phát triển nhanh nguồn nhân lực chất
lượng cao làm nòng cốt để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội

Năm là, hệ thống thể chế, cơ chế còn nhiều bất cập, đặc biệt là Luật
Sở hữu trí tuệ, cần hoàn thiện để tạo môi trường xã hội thuận lợi cho kinh
tế tri thức phát triển.
Thành phố cần quan tâm đặc biệt đến việc khuyến khích đổi mới, sáng
tạo để phát huy khả năng tư duy tích cực của người lao động, của đội ngũ
lãnh đạo quản lý. Sự phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của người
lao động thúc đẩy trực tiếp việc nâng cao năng suất lao động, phát triển
kinh tế tri thức, phát huy vai trò của cá nhân
Kết luận chương 2
Phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay tập trung
vào việc chuyển dịch cơ cấu một cách hợp lý, phát triển những ngành có


18

giá trị gia tăng cao, các ngành công nghiệp mũi nhọn và chuyển dịch cơ
cấu lao động tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm mục đích tạo
ra năng suất lao động xã hội cao, tăng trưởng GDP cao và bảo đảm quá
trình phát triển bền vững. Chúng ta cần tích cực kế thừa những thành tựu
công nghệ tiên tiến trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hiện nay, KTTT mới hình thành và định hình rõ nét trên một số lĩnh
vực chủ yếu của thành phố như: công nghệ thông tin và truyền thông; công
nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; công nghệ năng lượng. Đây cũng là
một trong những trụ cột công nghệ của kinh tế tri thức mà thành phố đang
nỗ lực phát triển.
Có thể nói rằng kinh tế tri thức bước đầu đã hình thành ở thành phố
Hồ Chí Minh với những đặc điểm mang tính đặc thù. Kết quả đó là nền
tảng quan trọng, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo.
Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, thành phố có những thuận
lợi cơ bản nhưng cũng còn gặp phải rất nhiều khó khăn. Để phát triển được

kinh tế tri thức, thành phố cần có những nỗ lực rất lớn để xây dựng được
những tiền đề quan trọng và “rút ngắn” được quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo ra một sự phát triển nhảy vọt về chất của lực lượng sản
xuất hiện tại và cần hết sức nỗ lực, tập trung giải quyết tốt những vấn đề
mà thực tiễn đặt ra.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3.1. Định hướng phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.1.1. Phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho sự phát triển
nhanh và bền vững
“Phát triển bền vững” là một trào lưu đã trở thành yêu cầu quan trọng
cần thỏa mãn của qúa trình phát triển trên toàn thế giới cũng như ở mỗi
quốc gia. Phát triển kinh tế tri thức là nhằm mục tiêu phát triển nhanh và
bền vững, chỉ có phát triển kinh tế tri thức mới giải quyết được mâu thuẫn


19

giữa công nghiệp hóa và suy thoái môi trường, bảo đảm phát triển nhanh
về bền vững.
3.1.2. Vận dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới vào
hiện đại hóa tất cả các yếu tố của quá trình sản xuất xã hội
Đầu tư thích đáng phát triển nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức
và công nghệ mới nhất, nhằm tạo những bước nhảy vọt của toàn bộ nền
kinh tế. Phát triển mạng xa lộ thông tin quốc gia, ứng dụng công nghệ
thông tin rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, phát triển công nghệ thông tin
nhất là công nghệ phần mềm, để hiện đại hóa nâng cao năng lực cạnh tranh
của các ngành kinh tế trong hội nhập kinh tế toàn cầu có hiệu quả. Phát

triển nhanh các ngành công nghệ cao như công nghệ sinh học, các ngành
công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng, tăng nhanh các ngành công
nghiệp dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Trong từng ngành từng lĩnh vực
cũng cần chọn những khâu, những đơn vị đi trước, đi thẳng vào công nghệ
mới nhất để thúc đẩy sự đổi mới của toàn ngành, toàn lĩnh vực, sử dụng
công nghệ mới nhất. Mục tiêu của phát triển kinh tế tri thức trong giai
đoạn hiện nay trước hết là để phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo
hướng hiện đại hóa.
3.1.3. Phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
Bước vào thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ hiện đại phát triển
mạnh mẽ là căn cứ thực tiễn quan trọng để Đảng ta xác định con đường
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện CNH, HĐH gắn
với kinh tế tri thức. Tức là tiếp thu những thành tựu của khoa học và công
nghệ, của kinh tế tri thức ngay trong quá trình CNH để đẩy nhanh tốc độ
phát triển và rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước. Thực chất của
đường lối này là phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở vừa phải tuân thủ
những quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời phải đảm bảo các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Định hướng phát triển kinh tế tri thức
của Việt Nam đã thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ giữa định hướng kinh tế
(kinh tế thị trường, CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức), với
định hướng chính trị (theo định hướng XHCN) và mục tiêu nhân văn, xã
hội (phát triển vì con người và bảo vệ tài nguyên, môi trường), hướng tới


20

xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tri thức ở thành

phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh và các
nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững. Thành phố
phát triển thế mạnh các dịch vụ thương mại, tài chính, ngân hàng, bưu
chính viễn thông, du lịch, vận tải; phát triển và quản lý tốt thị trường hàng
hóa, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ để từng bước
xây dựng thành phố thành trung tâm thương mại, tài chính, khoa học công nghệ lớn của cả nước và khu vực Đông nam Á.
3.2.2. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên
cơ sở đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Để đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao - những con người có
phẩm chất, bản lĩnh, có trách nhiệm với xã hội, dám nghĩ, dám làm, có tư
duy độc lập, năng lực sáng tạo, năng lực tiếp thu, làm chủ tri thức mới, vận
dụng vào thực tiễn, thành phố cần phải gấp rút đổi mới giáo dục một cách
triệt để. Với những điều kiện thuận lợi của mình, ngay từ bây giờ, thành
phố Hồ Chí Minh cần tiến hành một cuộc đổi mới giáo dục toàn diện và
sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống giáo dục,
phương thức tổ chức quản lý giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo theo kịp trình độ các nước tiên tiến trên thế giới; gắn
chặt giáo dục, đào tạo với thực tiễn sản xuất và đời sống; hướng tới xã hội
học tập, tạo cơ hội cho mọi người đều được học tập, học tập suốt đời, đủ
năng lực để tự tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ hiện đại và khả năng
tư duy độc lập, năng lực sáng tạo, có nhân cách con người xã hội chủ
nghĩa.
3.2.3. Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và
truyền thông như mũi nhọn đột phá vào kinh tế tri thức , trước hết là ưu
tiên cho phát triển Chính phủ điện tử. Hình thành môi trường thuận lợi để
Thành phố Hồ Chí Minh trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của
các đối tác quốc tế, đặc biệt là các tập đoàn lớn.



21

3.2.4. Tăng cường năng lực khoa học công nghệ nhằm đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức
Khoa học - công nghệ tập trung vào những hướng mũi nhọn như: công
nghệ thông tin và truyền thông; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu
mới; công nghệ tự động hóa; cơ khí chế tạo máy; khoa học và công nghệ
phục vụ các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm chủ lực; khoa học - công
nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; bảo
vệ môi trường và phòng tránh thiên tai, điều tra cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng công nghệ biển; khoa học - công nghệ phục vụ chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe cộng đồng, áp dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, thay thế
hàng nhập ngoại, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, phát triển
công nghệ cao được xem là một trong những hướng đi hợp lý để nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, thành
phố đã xác định cần phải tập trung vào mũi nhọn công nghệ cao.
3.2.5. Thực hiện cải cách hành chính gắn với mục tiêu là xây dựng
mô hình chính quyền đô thị trong sạch, vững mạnh và chuyên nghiệp.
Đây có thể coi là giải pháp quan trọng nhất để thực hiện được tốt toàn bộ
các giải pháp nêu trên.
Mỗi giải pháp nói trên có vị trí, vai trò và tác dụng khác nhau, nhưng
chúng là một thể thống nhất hữu cơ hướng đến việc thúc đẩy nhanh hơn
quá trình phát triển kinh tế tri thức của thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy,
cần vận dụng các giải pháp này một cách đồng bộ, với các bước đi cụ thể
và biện pháp thích hợp đối với từng lĩnh vực, từng ngành riêng biệt.
Kết luận chương 3
Để phát triển kinh tế tri thức nhanh trong giai đoạn hiện nay ở thành
phố Hồ Chí Minh, trước hết, cần quán triệt những định hướng cơ bản sau:

Một là, phát triển kinh tế tri thức chính là để thực hiện phát triển nhanh và
bền vững ở Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng; Hai
là,vận dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới nhất để hiện đại


22

hóa các yếu tố của sản xuất xã hội; ba là, phát triển kinh tế tri thức để đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh .
Trên cơ sở những định hướng trên đây, cần thực hiện một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp
hóa ở thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra 5 giải pháp
gắn với việc xây dựng những trụ cột phát triển kinh tế tri thức trong giai
đoạn hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh. Trước hết là phải “khai thác tối
đa các tiềm năng và các thế mạnh của thành phố để phát triển kinh tế với
tốc độ nhanh, bền vững, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao”. Giải pháp
này cần được tiến hành đồng thời với các giải pháp khác là, “xây dựng
nguồn nhân lực chất lượng cao và đổi mới giáo dục đào tạo”; “phát triển,
ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông như mũi nhọn đột
phá vào kinh tế tri thức”; “tăng cường năng lượng và khoa học công
nghệ”; “chủ động hội nhập quốc tế” và “thực hiện cải cách hành chính
gắn với mục tiêu xây dựng mô hình chính quyền đô thị trong sạch, vững
mạnh”.
Mỗi giải pháp nói trên có vị trí, vai trò và tác dụng khác nhau, nhưng
chúng là một thể thống nhất hữu cơ hướng đến việc thúc đẩy nhanh hơn
quá trình phát triển kinh tế tri thức của thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy,
cần vận dụng các giải pháp này một cách đồng bộ, với các bước đi cụ thể
và biện pháp thích hợp đối với từng lĩnh vực, từng ngành riêng biệt.



23

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài “Phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, luận
án đã rút ra được một số kết luận sau đây:
1. Kinh tế tri thức đang được xác định là một xu thế phát triển mới,
mang tính bước ngoặt của nền kinh tế thế giới. Không còn đơn thuần là
một vấn đề lý luận, phát triển kinh tế dựa trên tri thức đang thể hiện ngày
càng rõ ở nhiều quốc gia và đang là mối quan tâm của nhiều nhà hoạch
định chiến lược và chính sách phát triển của các quốc gia.
2. Kinh tế tri thức - nền kinh tế mà tri thức là nhân tố chủ yếu quyết
định sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống - là bậc thang
phát triển của mọi lực lượng sản xuất, xu thế phát triển tất yếu của xã hội
loài người, không nằm ngoài dự đoán của các nhà kinh điển Mác - xít.
3. Quá trình phát triển kinh tế tri thức không tách rời khỏi quá trình
toàn cầu hóa, đang dẫn tới nền kinh tế toàn cầu nối mạng, là cơ hội cho
những nước đi sau hội nhập vào kinh tế toàn cầu, vừa để chia sẻ kho tri
thức toàn cầu, phát triển nhanh sức mạnh kinh tế của mình, vừa tham gia
đấu tranh cho một thế giới dân chủ, bình đẳng, những nước không tham
gia hội nhập sẽ bị gạt ra ngoài lề quá trình phát triển.
4. Trong quá trình phát triển, thành phố Hồ Chí Minh có những thuận
lợi rất căn bản, cùng với những thành tựu 30 năm đổi mới trên tất cả các
lĩnh vực đã tạo ra những tiền đề vững chắc cho bước phát triển tiếp theo
của kinh tế tri thức. Có thể thấy được rằng, những đặc trưng của kinh tế tri
thức đang được hình thành ngày càng rõ nét hơn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh.
5. Từ sự phân tích thực trạng nền kinh tế thành phố trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
luận án đã nêu ra những định hướng chính và một số giải pháp cơ bản để

thành phố tiếp tục phát triển nhanh và nhiều hơn nữa những yếu tố cho sự
ra đời của kinh tế tri thức. Thực chất của phát triển kinh tế tri thức ở thành
phố Hồ Chí Minh cũng giống như các tỉnh thành khác trên toàn quốc, đó
chính là thực hiện chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên tri thức.
Thành phố cần sớm xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể cho việc phát triển


24

kinh tế tri thức dựa trên bốn trụ cột của kinh tế tri thức (giáo dục, phát
minh, sáng chế; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hệ
thống thể chế các chính sách kinh tế), các trụ cột công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực và đảm bảo một thể chế, chính sách thực thi có hiệu
quả.Thành phố cần thực hiện quá trình tiến hành cuộc chuyển đổi “ kép”,
vừa tiến hành cải cách đổi mới vừa chủ động hội nhập kinh tế thế giới
hướng tới mục tiêu dựa vào tri thức để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế, từng bước tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức. Quá
trình này là một chặng đường dài và gian truân, đòi hỏi sự nỗ lực không
chỉ của thành phố Hồ Chí Minh mà còn là của cả nước. Với vị trí “đầu tàu”
của nền kinh tế Việt Nam, với những cơ hội lớn do nền kinh tế tri thức
toàn cầu đem lại, với một chiến lược phát triển kinh tế phù hợp theo hướng
tiếp cận dần nền kinh tế tri thức, thành phố Hồ Chí Minh nhất định sẽ vượt
qua mọi trở ngại để cùng cả nước tiến vào nền kinh tế tri thức.


×