LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và rèn luyện tại khoa môi trường trường ĐH
Tài nguyên và môi trường Hà Nội. Tôi đã được tiếp cận và trang bị cho bản
thân kiến thức chuyênmôn của một nhân viên quản lý môi trường. Cùng
với bài giảng của thầy cô giáo về cácvấn đề cơ bản liên quan đến lĩnh vực
môi trường.Tuy nhiên để khỏi bỡ ngỡ sau khi ratrường, nhà trường đã tạo
điều kiện cho tất cả sinh viên được tiếp cận với thực tế bênngoài nhà
trường. Từ đó kết hợp lý thuyết và thực hành trong trường, bản thân tôi
nóiriêng và tất cả sinh viên nói chung có thể hiểu sâu sắc, toàn diện, khách
quan hơn về cácvấn đề xoay quanh kiến thức quản lý môi trường và các
lĩnh vực liên quan bước đầu làm quen với môi trường làm việc thực tế.
Trong khoảng thời gian thực tập tại Công ty cổ phần môi trường đô
thị và công nghiệp 10- URENCO 10. Ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sựgiúp đỡ của các thầy cô giáo, cơ quan, cán bộ của
công ty.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cán bộ của cong
ty cổ phần môi trường và đô thị 10 URENCO 10đã cung cấp số liệu và tạo
diều kiện cho thực hiện chuyên đề trong thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo Vũ Văn Doanh và các thầy cô
khoa Môi Trường, trường ĐH tài nguyên và môi trường Hà Nội đã dạy dỗ,
chỉ bảo tôi trong những năm qua. Và tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cho tôi ý
kiến trong suốt quá trình thực hiện vàhoàn thành bài báo cáo này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lớp CĐ9QM2, bạn bè,
người thân đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên khích lệ tôi trong suốt thời gian
học tập và rèn luyện tại trường.
Do thời gian và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên bài báo cáo này
không thể trách khỏi sai sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự chỉ bảo của
thầy cô để bài báo cáo của tôi hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày..... tháng….. năm 2012
1
CHƯƠNG 1.LÝLUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG,
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ VÀ GIỚI THIỆU CÔNG
TY CỒ PHẦN MÔI TRƯỜNG VÀ CÔNG NGHIỆP 10-UERENCO 10
1.1.Tổng quan chung về quản lý môi trường (QLMT)
QLMT là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội ,có tác động điều
chỉnh các hoạt động của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ
năng điều phối thông tin đối các vấn đề môi trường có liên quan đến con người
,xuất phát từ quan điểm định lượng ,hướng tới phát triển bền vững và sử dụnh
hợp lý tài nguyên
QLMT được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp luật pháp ,chính
sách ,kinh tế ,kỹ thuật ,công nghệ ,xã hội ,văn hoá ,giáo dục …Các biện pháp có
thể đan xen phối hợp tích hợp với nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể vấn đề đặt ra
.Việc quản lý môi trường được thực hiện ở mọi quy mô .toàn cầu ,khu vực ,quốc
gia ,tỉnh ,huyện ,cơ sở sản xuất, hộ gia đình ,…
QLMT phải hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:
- Thứ nhất: Phải khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường
phát sinh trong hoạt động sống của con người.
- Thứ hai là Phát triển bền vững Kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên
tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio- 92 đề xuất và được tuyên bố
Johannesburg- Nam Phi về PTBV tái khẳng định. Trong đó, với nội dung cơ bản
cần phải đạt được là phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện
môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học.
- Thứ ba là xây dựng các công cụ có hiệu lực QLMT quốc gia và các vùng
lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và
cộng đồng dân cư.
Đối tượng của công tác quản lý môi trường :
• Theo phạm vi quản lý có thể chia ra các loại :
-Quản lý môi trường khu vực :khu vực đô thị ,nông thôn ,..
-Quản lý môi trường theo ngành kinh tế như công nghiệp ,nông nghiệp
,năng lượng
2
-Quản lý tài nguyên :tài nguyên nước ,tài nguyên biển ,tài nguyên khí hậu ,
….
•
Theo tính chất của công tác quản lý môi trường có thể phân loại :
-Quản lý chất lượng môi trường như ban hành va kiểm tra các quy chuẩn
,tiêu chuẩn về chất lượng không khí ,nước mặt ,nước ngầm ,đất,khí thải ,nước
thải,chất thải rắn và chất thải nguy hại .
-Quản lý kỹ thuật môi trường :quản lý hệ thống quan trắc ,giám sát ,đánh
giá chất lượng các thành phần môi trường ,các trạm phân tích ,các phòng thí
nghiệm phân tích chất lượng môi trường …
-Quản lý kế hoạch môi trường :quản lý xây dựng và thực thi các kế
hoạch bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương ,…
Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường bao gồm:
- Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững
kinh tế xã hội đất nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng
dân cư trong việc quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ
tổng hợp thích hợp.
- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên
hơn việc phải xử lý, hồi phục môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường
gây ra và các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm.
1.2.Các công cụ QLMT
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp, các phương tiện, các
phương thức sử dụng nhằm giúp cho việc thực hiện những nội dung của QLMT
môi trường tốt hơn.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: Công
cụ điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ
mô là luật pháp và chính sách. Công cụ hành động là các công cụ có tác động
trực tiếp tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử
phạt v.v... và công cụ kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của
các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ môi trường.Công cụ hỗ trợ gồm có
3
các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm toán môi
trường, quan trắc môi trường.
1.2.1 Công cụ luật pháp và chính sách
Công cụ luật pháp và chính sách là các quy định, quy chế, nghị định, luật
pháp được ban hành của Nhà Nước để điều khiển các hành vi và giám sát đối với
những đối tượng gây ra những ảnh hưởng đến môi trường và buộc họ phải tuân
thủ theo quy định của luật pháp
1.2.2 Công cụ kinh tế
Các công cụ kinh tế là phương tiện chính sách có tác dụng làm thay đổi
chi phí và lợi ích của những hoạt động kinh tế thường xuyên tác động tới môi
trường nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại
môi trường .
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng trên các nguyên
tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP)
và nguyên tắc “Người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP)
- Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) đề ra 1972 cho rằng:
Những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng
chống ô nhiễm. Đồng thời nguyên tắc PPP “mở rộng” 1974 chủ trương rằng, các tác
nhân ngoài việc tuân thủ các chi phí tiêu chuẩn đối với việc gây ô nhiễm còn phải
bồi thường cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm gây ra.
- Nguyên tắc “Người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP) cho rằng những
người được hưởng lợi từ việc chất lượng môi trường được cải thiện cũng phải trả
một khoản tiền.
* Các công cụ kinh tế như :
- Thuế và phí môi trường
- Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm".
- Ký quỹ môi trường.
- Trợ cấp môi trường và nhãn sinh thái.
1.2.3. Công cụ kĩ thuật
Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà
nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất
ô nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các đánh giá
môi trường, monitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất
thải.Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền
4
kinh tế phát triển như thế nào.Công cụ kĩ thuật hỗ trợ cho việc thực hiện các công
cụ pháp lý và công cụ kinh tế và đây là công cụ không thể thiếu trong QLMT.
Tuy nhiên việc áp dụng công cụ kỹ thuật thường gặp phải trở ngại do chi
phí đầu tư tốn kém và đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao.
1.3 Quản lý môi trường làng nghề
1.3.1Giới thiệu chung về làng nghề
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Một làng được gọi là làng nghề khi hội tụ 2 điều kiện sau:
- Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề;
- Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
thu nhập của làng.
Chính sách đổi mới kinh tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho các ngành
nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Sau thời gian ngừng trệ, ì ạch, bế tắc,
trong vòng 10 năm trở lại đây, từ các nguồn ngân sách hỗ trợ của Nhà nước, kết
hợp với cơ chế thoáng mở cửa của nền kinh tế thị trường và sự năng động cũng
như tâm huyết với nghề của những người dân, các làng nghề thủ công không
ngừng thay da đổi thịt và đã tạo nên một diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam.
Theo số liệu gần đây nhất, hiện cả nước có 1450 làng nghề phân bố ở 58 tỉnh và
thành phố trong cả nước, riêng địa bàn Đồng bằng sông Hồng có khoảng 800
làng. Các tỉnh có số lượng làng nghề đông bao gồm: Hà Tây có 280 làng, Thái
Bình có 187 làng, Bắc Ninh có 59 làng, Nam Định có 90 làng, Thanh Hoá có 127
làng… ,Hà Nam có hơn 40 làng nghề truyền thống
Hàng năm giá trị kinh tế từ sản phẩm xuất khẩu của các làng nghề khoảng
600 triệu USD. Theo ước tính, trong vòng 10 năm qua, làng nghề nông thôn Việt
nam đã có tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình khoảng 8%/năm, tính theo giá trị
đầu ra. Các ngành nghề chủ yếu được phát triển ở làng nghề như tại bảng 1.1
5
Bảng 1.1 Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam
Tái chế
Ươm
tơ, dệt
nhuộm
, đồ da
Chế biến
nông sản,
thực
phẩm
Tái
Tái
chế
kim
loại
chế
giấ
Tái
chế
nhựa
Thủ
công
mỹ
nghệ
Vật liệu
xây
dựng,
gốm sứ
Nghề
khác
y
Miền Bắc
138
134
4
53
4
404
17
222
Miền
Trung
24
42
0
23
1
121
9
77
Miền Nam 11
21
0
5
0
93
5
42
Tổng
cộng
197
4
81
5
618
31
341
173
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
Hiện nay, do điều kiện thương mại phát triển, nhu cầu ngày càng gia tăng
cả trong nước và thế giới thì quy mô sản xuất của các làng nghề ngày càng phát
triển và được mở rộng, nhưng vẫn còn mang tính tự phát, chưa có quy hoạch, sản
xuất nhỏ là chủ yếu. Trong thời gian qua, các làng nghề đã tạo ra một lượng lớn
hàng hóa và đa dạng sản phẩm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nông dân,
góp phần đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
khu vực nông thôn.. Bên cạnh lợi ích về kinh tế, làng nghề còn là nơi lưu giữ, bảo
tồn các giá trị văn hóa dân tộc đặc trưng.
Quy mô của các cơ sở sản xuất ở các làng nghề rất linh động, từ hộ gia đình
đến các tổ hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tuy nhiên chủ yếu là quy mô hộ gia
đình (chiếm 80,1%). Trong mỗi tỉnh có thể có rất nhiều loại làng nghề.
6
1.3.2
Thực trạng môi trường tại các làng nghề
Do ô nhiễm môi trường, lao động không có dụng cụ bảo hiểm và sinh hoạt
hàng ngày chung với môi trường sản xuất, tình trạng sức khoẻ của người dân làng
nghề bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Kết quả nghiên cứu cả nước có trên 4200 cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhưng việc xử lý đạt ở mức thấp, trung
bình chỉ khoảng 26%. Thực tế này đã dẫn đến tỷ lệ người dân ở các làng nghề bị
mắc các bệnh thông thường và hiểm nghèo cao gấp 2-3 lần các làng xã thuần
nông. 51 làng xã thuộc 25 tỉnh thành được cho là “làng ung thư”, với tỷ lệ người
dân nghi ngờ mắc, chết do ung thư cao cũng là những làng nghề, hoặc làng nằm
gần khu công nghiệp, kho hóa chất, bãi rác bị ô nhiễm. Trong các làng nghề, tỷ lệ
mắc bệnh nhiều nhất liên quan đến hô hấp như viêm họng chiếm 30,56%, viêm
phế quản 25% hay đau dây thần kinh chiếm 9,72%.
Nguyên nhân của một số bệnh tật phổ biến trong nhân dân hiện nay, theo
đánh giá của Bộ Y tế là do suy thoái môi trường không khí, nước, đất, chất thải
công nghiệp và đô thị, chất thải y tế, ô nhiễm tiếng ồn...
1.3.2.1 Hiện trạng môi trường nước
Theo kết quả xét nghiệm của Viện khoa học và công nghệ môi trường
(trường Đại học Bách khoa Hà Nội) thì 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều
vượt quá tiêu chuẩn cho phép, nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Ô
nhiễm nước có thể được chia ra thành ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hóa chất,
ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý.Ô nhiễm hữu cơ thường gặp ở
các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm. Nước thải của các làng nghề này có
đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học. Ví dụ như nước thải
của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn có hàm lượng ô nhiễm rất cao (COD =
13.300 - 20.000mg/l; BOD5 = 5.500 - 125.000 mg/l). Ô nhiễm hóa chất thường
gặp ở các làng nghề dệt nhuộm. Do sản xuất có sử dụng nhiều nước, hoá chất,
thuốc nhuộm nên thành phần các chất ô nhiễm trong nước thải làng nghề dệt
nhuộm bao gồm: các tạp chất tự nhiên tách ra từ sợi vải: chất bẩn, dầu, sáp, hợp
chất chứa nitơ, pectin trong quá trình nấu tẩy, chuội tơ và các hoá chất sử dụng
trong quy trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH, H 2SO4, HCl, Na2CO3, các loại
thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10 - 30% lượng thuốc nhuộm và hoá chất sử
dụng bị thải ra ngoài cùng với nước thải.
7
Bảng 1.2. Đặc trưng nước thải của một số làng nghề dệt nhuộm điển hình
Chỉ tiêu chất lượng nước thải
Lượng
nước thải
COD
BOD5 SS
(m3/ ngày) pH
TT
Tên làng nghề
1
Ươm tơ Cổ Chất - Nam
Định
100
-
6.076
2.400
764
4110
2
Ươm tơ Đông Yên- Quảng
Nam
20
7,2
632
241
517
69
3
Ươm tơ Bảo Lộc - Lâm
Đồng
50
7,8
1.020
780
215
466
14
Dệt nhuộm Phương La
-Thái Bình
960
8 - 9,7
320900
72-410
14
77-139
5
Dệt đũi Nam Cao - Thái
Bình
-
8,2
372
212
375
260
6
Dệt nhuộm Thái Phương-Thái
Bình
-
6,9
312
272
205
195
5,5 - 9
100
50
100
TCVN 5945 - 1995 (Nước
Loại B)
Độ
màu
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng.Đối với các
làng nghề tái chế giấy, ô nhiễm chủ yếu từ nước thải ở các công đoạn ngâm tẩm,
nấu và nghiền nguyên liệu cũng như công đoạn xeo giấy. Lượng nước thải này
còn chứa hoá chất dư, bột giấy và có hàm lượng chất hữu cơ cao, nên hàm lượng
ôxy hoà tan tại các nguồn tiếp nhận rất thấp, gần như bằng 0. Bột giấy, xơ sợi còn
sót trong nước thải gây bồi đắp lòng mương, ao hồ.Đối với các làng nghề tái chế
nhựa, do đặc thù nguyên liệu thu gom từ nhiều nguồn và đều là nhựa phế thải có
dính nhiều tạp chất, nên trong quá trình công nghệ sử dụng rất nhiều nước để rửa
phế liệu.Lượng nước này ước tính khoảng 20 - 25m 3/tấn nhựa phế liệu. Thành
phần của nước thải này rất phức tạp, vì chứa nhiều loại hợp chất vô cơ, hữu cơ
bám dính trên nhựa trong quá trình sử dụng, trong đó có cả các chất độc hại (từ
bình chứa thuốc trừ sâu, hoá chất,...), vi sinh vật gây bệnh. Tại các làng nghề tái
chế kim loại, lượng nước sử dụng không nhiều, chỉ dùng cho nước làm mát, vệ
sinh thiết bị, nhà xưởng và nước thải từ quá trình tẩy rửa và mạ kim loại nên có
8
hàm lượng các chất độc hại khá cao, đặc biệt là các kim loại nặng. Ô nhiễm nước
do kim loại cũng thường gặp tại các làng nghề chạm,mạ bạc.
1.3.2.2 Hiện trạng môi trường không khí
Đặc trưng nhất của làng nghề chế biến nông sản thực phẩm là mùi hôi thối do
sự phân hủy của các hợp chất hữu cơ có trong chất thải rắn và nước thải từ các cống
rãnh, kênh mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra các khí độc rất
ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề.Đặc biệt phải kể đến các làng nghề sản
xuất nước mắm, do phơi ngoài trời nên mùi hôi, tanh khắp cả làng rất khó chịu.
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng. Ô nhiễm
chủ yếu ở các làng nghề tái chế giấy là bụi, hơi kiềm, Cl 2 do dùng nước Javen để
tẩy trắng và hơi H2S. Tại một số vị trí sản xuất, hàm lượng Cl 2 vượt tiêu chuẩn cho
phép tới ba lần, hơi H2S tại các bãi rác, cống rãnh vượt tiêu chuẩn cho phép 1 - 3
lần.Trong công nghệ tái chế nhựa, khí ô nhiễm phát sinh từ công đoạn gia nhiệt trong
quá trình tạo hạt, đùn túi làm nhựa cháy sinh khí độc như HCl, HCN, CO, HC.
. Các tác động chủ yếu đến môi trường từ hoạt động của các làng nghề sản
xuất vật liệu xây dựng là ô nhiễm không khí do bụi và khói lò nung. Quy trình
nung vôi, gạch ở các làng nghề chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng
nhiên liệu là than. Khí thải từ các lò nung đốt than chứa bụi, các khí ô nhiễm.
Đặc biệt các lò nung thường không được thiết kế đúng quy cách, nên quá trình
cháy không hết, tạo ra các sản phẩm cháy nhiên liệu thiếu ôxy như CO,
SO2,...Bụi phát sinh từ khâu khai thác, gia công đất nguyên liệu, vận chuyển vào
ḷ, ra ḷ và bốc dỡ sản phẩm.
9
Bảng 1.3. Ước tính tải lượng ô nhiễm của một số làng nghề sản xuất gạch và nung vôi
TT
1
2
3
4
5
6
7
Lượng
SP/năm
Tên làng nghề
Khai Thái, Hà Tây
170
viên
triệu
Phước Lâm, Khánh Hòa
63,3
viên
triệu
Tân Yên, Bình Dương
967
viên
triệu
Các làng nghề Mang 310
Thít, Vĩnh Long
viên
triệu
Đồng Tân, Thanh Hóa
49.680
vôi
tấn
Kiện Khê, Hà Nam
19.000
vôi
tấn
Đáp Cầu, Bắc Ninh
50.000
vôi
tấn
Bụi
tấn/nă
m
CO
tấn/nă
m
SO2
tấn/nă
m
NO2
tấn/nă
m
3.774
477,7
72,93
339,16
1.405,3
177,9
42,55
176
21.467
2.717
691
2.688
6.822
871
221,7
861,8
131
216
162,7
122
598
985
556
556
182
300
226
170
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
1.3.2.3 Hiện trạng môi trường đất
Cùng với sự phát triển của làng nghề là sự phát sinh một lượng chất thải
lớn. Hầu hết các chất thải này đều đổ trực tiếp các nguồn nước (sông, kênh
mương) đất canh tác, để dự phòng... Điều này làm thay đổi thành phần lý hoá
tính của đất, ảnh hưởng đến mùa màng và hoa màu của nông dân tại làng nghề và
cả các vùng lân cận..Đồng thời các chất ô nhiễm có trong môi trường nước đã
ngấm vào môi trường đất khiến cho môi trường đất bị ô nhiễm trầm trọng.
1.3.3
Một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề môi trường làng nghề
. Hiện nay, đã có nhiều giải pháp được áp dụng đồng thời nhằm giải quyết
vấn để môi trường làng nghề. Nhưng có thể phân ra thành hai hướng giải pháp cơ
bản: Giải pháp về công nghệ và Giải pháp về quản lý.
1.3.3.1
Giải pháp về công nghệ
10
Các làng nghề thường sử dụng công nghệ thủ công, lạc hậu thường gây ô
nhiễm môi trường.Vì vậy, đổi mới công nghệ là một trong những giải pháp tối ưu
nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của làng nghề.Hiện nay, các nhà khoa học
rất chú trọng vào việc áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn vào sản xuất làng nghề.
*) Áp dụng các mô hình sản xuất làng nghề gắn với sản xuất sạch hơn
Mô hình này chú trọng vào các giải pháp công nghệ nhằm giảm thiểu lượng
phát thải bằng các biện pháp cải tiến công nghệ, nhằm sử dụng tiết kiệm và hợp lý
các nguồn nguyên nhiên liệu, tài nguyên; áp dụng các biện pháp quản lý và xử lý
chất thải phù hợp (chú trọng tới biện pháp tái chế, tái sử dụng) nhằm bảo vệ môi
trường hiệu quả.
Để thực hiện tốt hướng này, các cơ quan quản lý về khoa học công nghệ, tài
nguyên và môi trường các địa phương cần có kế hoạch trong việc hợp tác với các
cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ của Trung ương để giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể ở địa phương mình, trong đó chú trọng tới cải tiến công nghệ sản
xuất và áp dụng các công nghệ môi trường đơn giản, rẻ tiền, phù hợp với quy mô,
trình độ của các làng nghề và chú trọng tới các biện pháp tuyên truyền và quản lý
chặt chẽ, nhằm khuyến khích các hộ sản xuất tự nguyện sử dụng. Bên cạnh đó Nhà
Nước cần hỗ trợ cho các làng nghề khi áp dụng các công nghề và tạo điều kiện để
người dân tiếp cận với các công nghệ này.
Năm 2005, Liên minh HTX Việt Nam cũng đã bước đầu xây dựng mô hình
thử nghiệm về sản xuất sạch hơn cho một số làng nghề chế biến nông sản thực phẩm
1.3.3.2 Giải pháp về quản lý
Với đặc trưng của làng nghề thường sản xuất với quy mô hộ gia đình, các
cơ sở sản xuất không tập trung, thường phân bố trong khu vực làng, xã do đó đối
với quản lý làng nghề nên lấy quản lý cấp xã làm nòng cốt. Đồng thời tăng cường
và tổ chức hệ thống quản lý môi trường làng nghề từ quy mô cấp tỉnh, huyện, xã
tới thôn xóm. Ở cấp xã việc quản lý làng nghề có thể được triển khai cụ thể, phù
hợp nhất đối với điều kiện của địa phương mình.như việc quy định về đóng góp
cho quỹ môi trường, chế độ thưởng phạt, kể cả thuế môi trường đối với các hoạt
động phát sinh hoặc giảm thiểu ô nhiễm.
Trong quản lý làng nghề có thể bao gồm nhiều giải pháp như giải pháp quy
hoạch không gian làng nghề gắn bảo vệ môi trường, thực hiện quan trắc, giám sát
môi trường tại các làng nghề thường xuyên. Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục
môi trường giúp người dân trong các làng nghề nhận thức môi trường, đồng thời
11
qua đó hướng sự quan tâm của người dân vào nhiệm vụ bảo vệ môi trường và huy
động sự tham gia của cộng đồng vào công tác QLMT.
*) Giải pháp quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường
- Chuyển đổi làng nghề thành khu du lịch
Kết hợp phát triển làng nghề với hoạt động du lịch.Đây là mô hình được
nghiên cứu và nhân rộng trong chương trình phát triển ngành du lịch ở Việt Nam.
Để làng nghề phát triển được theo hướng này, thì điều quan trọng nhất là giữ gìn
bản sắc văn hoá của làng nghề, phát triển các sản phẩm mang tính đặc trưng văn
hoá và tính nghệ thuật cao. Giá trị sản phẩm không chỉ tính bằng giá nguyên liệu
và công lao động, mà chủ yếu được đánh giá bằng tính nghệ thuật và tính văn
hoá của sản phẩm. Điều thu hút khách du lịch sẽ không chỉ là sản phẩm của làng
nghề, mà chính là hoạt động sản xuất truyền thống ở làng nghề. Với các làng
nghề kết hợp với khu du lịch theo mô hình này, vấn đề vệ sinh môi trường sẽ
được đặt ra như là một tiêu chí quan trọng trong việc quy hoạch làng nghề. Điều
kiện môi trường cũng sẽ là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch. Việc
phát triển các làng nghề theo hướng này chủ yếu nên áp dụng với các làng nghề
truyền thống lâu đời, có các mặt hàng mang tính đặc thù văn hoá Việt Nam, đặc
biệt là các làng nghề thủ công mỹ nghệ, dệt nhuộm, gốm sứ… Hiện nay, những
làng nghề truyền thống như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), làng tranh Đông Hồ
(Bắc Ninh), lụa Vạn Phúc (Hà Tây),lụa Nha Xá (Hà Nam), đồ đá Non Nước
(Quảng Nam), nghề thêu ở Huế...đã trở thành những điểm du lịch hấp dẫn.
*) Xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ nông thôn:
Mô hình này sẽ thích hợp với các làng nghề tiểu thủ công nghiệp mới.Mô
hình sản xuất tập trung ở khu vực gần làng xã, thuận tiện cho việc quy hoạch
tổng thể mà vẫn giữ được những lợi thế đặc trưng của sản xuất tại các làng nghề.
Nhu cầu hình thành các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn hiện nay
đang rất bức xúc xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ áp lực lên môi trường sống của
người dân nông thôn và cũng phù hợp với chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, công nghiệp ở nông thôn nước ta cần
phải được tổ chức lại sao cho có hệ thống, trật tự và phát triển bền vững, tạo nhiều sản
phẩm cho xã hội và tránh gây ô nhiễm đến môi trường.
Những thế mạnh của các làng nghề tiểu thủ công truyền thống được phát huy
trong bối cảnh xã hội hiện đại, vừa tạo vị thế của ngành tiểu thủ công nghiệp trong
bối cảnh công nghiệp hoá nông thôn đang được đẩy mạnh thông qua việc phát triển
12
các khu công nghiệp vừa và nhỏ nông thôn, vừa góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá
dân tộc thông qua việc bảo tồn các làng nghề truyền thống.
Việc xây dựng các cụm điểm công nghiệp làng nghề cũng tạo thuận lợi
trong việc quy hoạch các làng nghề cách xa các khu vực tập trung dân cư, xây
dựng khu xử lý tập trung và thực hiện QLMT.
*) Giải pháp quan trắc môi trường làng nghề
Quan trắc môi trường nhằm theo dõi, đo đạc thường xuyên đối với một số
chỉ tiêu, chỉ thị thành phần môi trường có tính hệ thống, để cung cấp các thông
tin cần thiết về chất lượng của môi trường giúp cho công tác quản lý, bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên, để thực hiện công tác quan trắc thuận lợi cần có những đầu tư
vào trang thiết bị quan trắc hiện đại.Đây là yêu cầu khó khăn đối với cơ quan
quản lý cấp xã, do đó cần huy động sự đầu tư của Nhà Nước và các tổ chức trong
và ngoài nước.
*) Giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng
Để có thể thực hiện các biện pháp trên tốt và mang lại lợi ích cho làng
nghề, góp phần bảo vệ môi trường làng nghề cần nâng cao dân trí cho dân làng
nghề để họ hiểu được những tác hại của việc suy giảm chất lượng môi trường
sống do hoạt động sản xuất nghề. Trước tiên phải nói đến những thiệt hại do việc
suy giảm chất lượng môi trường gây ra mà chính người dân tại làng nghề phải
gánh chịu, và sau đó là thiệt hại đối với toàn xã hội, qua đó họ sẽ nhận thức được
và từ đó có ý thức bảo vệ môi trường làng nghề. Cần định hướng sự tham gia của
người dân làng nghề và của toàn thể cộng đồng vào công tác bảo vệ môi trường.
Để đảm bảo cho cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường, cần thiết phải có
sự kết hợp hiệu quả và sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa chính quyền địa
phương, cộng đồng và sự phối hợp với những nhà khoa học trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, trong đó cộng đồng phải tham gia đầy đủ từ khâu lập kế hoạch, thực
thi, giám sát và chia sẻ quyền lợi. Trên hết muốn huy động nguồn lực từ nhân dân
phải cho người dân thấy rõ lợi ích từ các mô hình mang lại.
13
1.4 GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ VÀ
CÔNG NGHIỆP URENCO 10
Công ty cổ phần môi trường đô thị và Công nghiệp 10- Urenco 10
tiền thân là Xí nghiệp xử lý chất Công nghiệp - Ytế được thành lập ngày
29/05/2002 trực thuộc Công ty môi trường đô thị Hà Nội. Sự ra đời của Công ty
Cổ phần Môi trường đô thị và công nghiệp 10 đánh dấu một bước phát triển
trong thời kỳ đổi mới.
* Các lĩnh vực hoạt động chính:
- Thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp,
thương mại, y tế và xây dựng
- Sản xuất kinh doanh các sản phẩm hàng hoá từ nguồn phế thải; tái
chế, tái sử dụng phế thải
- Tư vấn, dịch vụ lập các dự án đánh giá tác động môi trường, quan
trắc môi trường
- Nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ ngành môi trường đô
thị và công nghiệp
- Xây dựng chuyên dụng bao gồm: Phá dỡ và chuẩn bị các mặt bằng
thi công, thi công lắp đặt, quản lý, duy trì, vận hành, cải tạo, sửa chữa hệ thống
điện, hệ thống cấp thoát nước và lắp đặt xây dựng khác, hoàn thiện công trình
xây dựng và hoạt động chuyên dụng khác
- Lắp đặt quản lý, duy trì vận hành và sửa chữa hệ thống điện chiếu
sáng Xử lý ô nhiễm và hoạt động quản lý chất thải khác
- Mua, bán, đại lý mua, đại lý bán phế liệu, phế thải kim loại, phi kim,
máy móc, vật tư, thiết bị, vật liệu chuyên dùng ngành môi trường đô thị và Công
nghiệp
- Thiết kế, gia công, sửa chữa bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị
chuyên dùng ngành môi trường đô thị và Công nghiệp.
→ Đối với những sinh viên đang còn ngồi trên ghế của nhà trường
được thực tập tại những nơi như công ty cổ phần môi trường và đô thị và công
nghiệp – 10 URENCO 10 là một niềm vui,một điều đáng nhớ trong đời sinh viên
của em. Chuyên đề của em được thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của các
thầy cô đang làm việc tại công ty cổ phần đô thị và công nghiệp – 10 URENCO
10.
- Chuyên đề được thực hiệndưới sự giám sát của các thầy và các cô
trong công ty từ ngày 18 tháng 2 năm 2013 đến ngày 08 tháng 4 năm 2013.
14
CHƯƠNG 2 :THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG TẠI LÀNG NGHỀ LỤA NHA XÁ –XÃ MỘC NAM –HUYỆN DUY
TIÊN –TỈNH HÀ NAM
2.1.Giới thiệu chung về làng nghề ở huyện Duy Tiên –tỉnh Hà Nam
Duy Tiên là một huyện nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Nam , phía bắc giáp
Hà Nội phía đông đối diện với thành phố Hưng Yên và huyện Kim Động của
tỉnh Hưng Yênqua sông Hồng và huyện Lý Nhân , phía nam giáp huyện Bình
Lục và thành phố Phủ Lý , phía tây giáp Hà Nội và huyện Kim Bảng .Diện tích
chủ yếu của huyện là đồng bằng .Huyện Duy Tiên có dân số vào khoảng
150.000 người, bao gồm 21 xã, thị trấn.
Duy Tiên là một trong những huyện có thế mạnh về làng nghề truyền
thống với nhiều nghề thủ công đã có từ lâu đời như: ươm tơ, dệt lụa, mây giang
đan, thêu ren, bưng trống …Duy Tiên có 6 làng nghề, trong đó có 4 làng nghề
truyền thống là: làng nghề trống Đọi Tam, thêu ren Vũ Xá (Yên Bắc), dệt lụa
Nha Xá (Mộc Nam), mây giang đan Ngọc Động (Hoàng Đông) và 2 làng nghề
mới là: làng nghề ươm tơ kéo kén Từ Đài (Chuyên Ngoại) và Mây giang đan
Hoà Trung (Tiên Nội). Để khuyến khích khôi phục, phát triển làng nghề truyền
thống, UBND huyện đã chỉ đạo xây dựng Quỹ Khuyến công, triển khai nhiều
giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư đẩy mạnh phát
triển ngành nghề, khôi phục và nhân cấy nghề mới nhằm tạo việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động .Nhờ đó, các nghề truyền thống của huyện đã có bước
phát triển vững chắc đạt giá trị sản xuất lớn.Tiêu biểu là nghề mây giang đan
ngày càng được nhân rộng tới từng thôn, xóm. Nhiều mặt hàng đã chinh phục
được thị trường trong nước và quốc tế , trở thành những sản phẩm xuất khẩu chủ
lực của huyện như : lụa, đũi, bát đĩa mây, thêu ren, long nhãn, hạt sen … Số
lượng các doanh nghiệp sản xuất CN-TTCN tăng nhanh. Năm 2005 có 54 doanh
nghiệp hoạt động trên lĩnh vực sản xuất CN-TTCN, đến năm 2008 tăng lên 71
doanh nghiệp với tổng số vốn chủ sở hữu lên đến 1.185.250 triệu đồng.
15
2.2 Đặc thù của làng lụa Nha Xá - xã Mộc Nam –huyện Duy Tiên –tỉnh
Hà Nam .
2.2.1.Vị trí địa lý
Xã Mộc Nam là một xã đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng nằm ở vị trí
trung tâm huyện Duy Tiên , tỉnh Hà Nam, là địa bàn giáp ranh của 5 xã và 2 thị
trấn
Làng Nha Xá thuộc xã Mộc Nam huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam có vị trí
địa lý khá thuận lợi trong việc lưu thông hàng hoá: nằm gần trung tâm huyện
đường liên huyện chạy dọc theo chiều dài xã, cách đường Quốc lộ 1A 2 km và thị
xã Phủ Lý 5 km về phía Nam (trung tâm tỉnh Hà Nam) ..., Vì vậy rất có lợi thế để
phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là để tiêu thụ hàng hóa tiểu thủ công nghiệp.
2.2.2 .Đặc thù tự nhiên - xã hội
Làng nghề lụa Nha Xá là một trong 2 làng nghề được công nhận làng
nghề dệt lụa truyền thống với hơn 1.500 lao động lành nghề chiếm 91% tổng số
lao động trong làng, ngoài ra còn tạo ra được hơn 2.000 việc làm cho các lao
động lúc nông nhàn. Với lực lượng lao động dồi dào như vậy là điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của làng nghề ở hiện tại cũng như trong tương lai.
2.2.3.Đặc thù kinh tế
Thôn Nha Xá là trung tâm phát triển kinh tế của xã Mộc Nam , thu
nhập bình quân cao nhất xã: 660.000 đồng /người /tháng. Thôn có đầu mối
giao thông thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là tiêu thụ hàng hoá
tiểu thủ công nghiệp.
Tốc độ phát triển bình quân của ngành thương mại dịch vụ của xã trong
những năm gần đây đạt bình quân 12,5%. Lao động ngành này có thu nhập bình
quân cao so với lao động của các ngành khác
16
2.3. Biến động điều kiện tự nhiên và phát triển kinh tế -xã hội của làng nghề
lụa Nha Xá –Xã Mộc Nam .
2.3.1. Thay đổi về điều kiện tự nhiên của làng nghề
Khí hậu
Khí hậu xã Mộc Nam nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên có đầy
đủ các đặc trưng của khí hậu vùng đồng bằng sông Hồng, đó là nhiệt đới gió mùa
ẩm, có mùa đông lạnh.
Mùa đông lạnh bắt đầu từ tháng 11 năm trước kết thúc vào tháng 4 năm
sau, thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh, khô hanh. Hướng gió thịnh
hành là gió Đông Bắc và gió Đông Nam. Mùa hè bắt đầu từ tháng 5 kết thúc vào
tháng 10, số giờ nắng trong năm khoảng 1300 giờ nắng. Nhiệt độ trung bình năm 24 0C,
nhiệt độ cao nhất lên đến 39,8 0C. Chế độ mưa ở Hà Nam thay đổi nhiều trong năm,
mưa tập trung vào mùa hè (mùa mưa) bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 10, tổng
lượng mưa trung bình trong năm là 1582mm. Độ ẩm trung bình năm khoảng 82,42%.
Địa hình ,thổ nhưỡng
Xã Mộc Nam có địa hình bằng phẳng, thành phần đất chủ yếu là đất phù
sa, thành phần cơ giới nhẹ, đất tơi xốp. Nhìn chung đất đai của xã thuộc loại có
độ phì nhiêu cao. thích hợp cho trồng rau màu, cây ăn quả, có điều kiện phát triển
trang trại. Vùng đồng thích hợp cho cấy lúa và có thể phát triển một số cây ăn
quả như: cam canh, nhãn, vải ..
2.3.2.Phát triển kinh tế xã hội
Đặc điểm dân số và lao động
Nguồn lao động của xã tương đối dồi dào và chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, hiện nay toàn xã có 3039 hộ, với 13007 nhân khẩu, số hộ nông nghiệp là: 937
hộ (chiếm 30,83%), lao động nông nghiệp 2973 lao động (chiếm 24,84%). Hộ phi nông
nghiệp là 2102 hộ (chiếm 69,17 %), trong đó hộ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
(TTCN) là 1488 hộ (chiếm 70,79% số hộ phi nông nghiệp). Số lao động tham gia vào
các hoạt động ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao
động và có xu hướng tăng lên về tỷ trọng. Lao động CN - TTCN luôn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng cơ cấu lao động chiếm gần một nửa số lao động qua các năm, năm
2009 là 4585 lao động chiếm 71,81% lao động, và số lượng lao động này liên tục tăng
lên với tốc độ bình quân khoảng gần 700 lao động trên năm. Lao động làm dịch vụ chỉ
17
tăng lên từ 2008, tuy nhiên lực lượng lao động này chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong số lao
động phi nông nghiệp (khoảng 2,88% năm).
Số lao động nông nghiệp có xu hướng giảm, năm 2009 là 3814 lao động nhưng đến
2011 chỉ còn 2973 lao động giảm 841 lao động. Điều này cho thấy số lao động làm nông
nghiệp đã chuyển dần sang các lĩnh vực khác, chủ yếu là TTCN. Tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp ngày càng tăng, tỷ trọng ngành TTCN đã
chiếm ưu thế cùng với thương mại - dịch vụ. Theo chiến lược phát triển kinh tế của xã,
trong những năm tới phấn đấu ngành CN - TTCN đóng góp 60% GDP của xã, đồng thời
đưa xã Mộc Nam trở thành trung tâm TTCN của huyện Duy Tiên ..
Đất đai và tình hình sử dụng đất đai
Qua các năm tình hình sử dụng đất đai của xã có sự thay đổi, được thể
hiện qua bảng 2.1
BẢNG 2.1: BIẾN ĐỘNG DIỆN TÍCH ĐẤT THEO MỤC ĐÍCH SỬ
DỤNG NĂM 2011 SO VỚI NĂM 2010 VÀ NĂM 2008
(Đơn vị tính: ha)
Thứ
tự
Mục đích sử dụng đất
Mã
Diện
tích
năm
2008
(1)
(2)
(3)
(4)
Tổng diện tích tự nhiên
So với
2010
(5)
Diện
tích
năm So với năm
2008
Tăng
Tăng
Diện
(+)
(+)
tích
giảm
giảm
(-)
(-)
(6)
(7)
(8)
811,11 811,11
1
Đất nông nghiệp
NNP
577,31 595,00 -17,69
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
SXN
531,67 547,71 -16,04
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
CHN
500,32 516,36 -16,04
1.1.1. Đất trồng lúa§
11.1.1. Đất cỏ dùng vào chăn nuôi§
21.1.1. Đất trồng cây hàng năm khác§
LUA
475,32 491,36 -16,04
COC
2,21
2,21
HNK
22,79
22,79
3
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
CLN
31,35
31,35
1.2
Đất nuôi trồng thuỷ sản
NTS
45,64
47,29
2
Đất phi nông nghiệp
PNN
2.1
Đất ở
OTC
231,70 214,01 +17,6
60,57 60,57 9
18
-1,65
811,
07
617,
+0,04
54
569,
12
529,
-37,45
58
512,
36
2,21
-37,04
15,0
139,5
+7,78
448,4
2191,
-2,78
40
61,5
2
-0,95
-40,23
-29,26
-8,19
+40,30
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
ONT
60,57
2.2
Đất chuyên dùng
CDG
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự CTS
nghiệp
Đất
quốc phòng
CQP
143,79 126,57 +17,2
2-0,65
1,53
2,18
2.2.2
2.2.3
2.2.4
2.2.5
2.3
2.4
2.5
2.6
3
3.1
60,57
61,5
2105,
-0,95
29
1,56
-0,03
+38,50
0,28
0,28
0,28
0,35
0,35
0,35
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông
CSK
nghiệp
10,74
10,74
3,39
+7,35
Đất có mục đích công cộng
CCC
130.89 113.02 +17,87
99,7
1
+31,88
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
TTN
2,66
2,66
2,66
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
NTD
8,67
8,67
8,70
-0,03
13,2
3
+0,29
Đất an ninhw
CAN
Đất sông suối và mặt nước
SMN 13,52
chuyên dùng
13,05
Đất phi nông nghiệp khác
PNK
2,49
2,49
Đất chưa sử dụng
CSD
2,10
2,10
2,13
-0,03
Đất bằng chưa sử dụng
BCS
2,10
2,10
2,13
-0,03
+0,47
+2,49
(nguồn: thống kê 25-2-2011 của sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà
Nam)
19
Qua bảng 2.1 ta thấy năm 2011 so với năm 2010 cơ cấu đất tự nhiên theo
mục đích sử dụng của xã Mộc Nam như sau:
Tổng diện tích đất tự nhiên là: 811,11 ha, trong đó đất nông nghiệp là:
577, 31 ha chiếm trên 71% tổng diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp giảm so
với năm 2005 là 40,23 ha (do quá trình đô thị hóa chuyển mục đích đất nông
nghiệp sang đất chuyên dùng). Đất thổ cư là 60, 57 ha chiếm 7,4% tổng diện tích
đất tự nhiên.
Diện tích đất chuyên dùng tăng mạnh từ 105, 2 ha năm 2005 lên 143, 79
ha năm 2011, diện tích đất chuyên dùng tăng chủ yếu vào mục đích đất sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp.
Như vậy tình hình sử dụng đất của địa phương trong thời gian qua rất phù
hợp với chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng từ nông
nghiệp sang phi nông nghiệp.
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi địa
phương, cơ sở hạ tầng cũng phản ánh trình độ phát triển của mỗi địa phương.
- Đường giao thông : xã có vị trí địa lý khá thuận lợi trong việc lưu thông
hàng hoá: nằm sát trung tâm huyện, đường liên huyện chạy dọc theo chiều dài
xã, xã cách đường Quốc lộ 1A 1km , thị xã Phủ Lý khoảng 7 km về phía Nam.
Hệ thống giao thông trong xã có khoảng 35 km,; 5 Km trục liên huyện đều
đã được giải nhựa Apphan. Hệ thống giao thông nông thôn 100% được bê tông
hoá. Tuy nhiên do tốc độ công nghiệp hóa của khu vực, lưu lượng xe ô tô trọng
tải lớn càng ngày càng cao (khoảng 800 lượt xe mỗi ngày) đã gây ra tình trạng ùn
tắc. Đồng thời những đoạn đường có mật độ xe chạy qua nhiều đã bị xuống cấp
nghiêm trọng.
- Năng lượng điện : hiện tại toàn xã có 4 trạm biến áp với công suất 4.790
KVA, mỗi năm được cung cấp 15, 7 triệu KW. Hệ thống điện đã được đầu tư cải
tạo liên tục nhưng vào những thời điểm, cao điểm lượng tiêu thụ trên địa bàn lớn
nên thường xảy ra tình trạng quá tải.
- Đầu tư, phát triển đời sống dân sinh khác : Các công trình phúc lợi của
xã đã và đang góp những phần tích cực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của
địa phương. Các trường học đã được đầu tư mở rộng đảm bảo đầy đủ những điều
kiện học hành tốt nhất cho học sinh. Trạm y tế xã ở gần trung tâm xã tạo điều
20
kiện tốt nhất để mọi người dân đến khám chữa bệnh được thuận lợi nhất. Do có
công ăn việc làm và thu nhập thường xuyên nên đời sống về vật chất và tinh thần
của nhân dân trong làng được nâng cao. Số hộ có nhà cao tầng, nhà mái bằng
chiếm tỷ lệ 56%, số hộ có điện thoại chiếm tỷ lệ 35% số hộ dân trong thôn. 100%
số hộ dân có tivi, radiocassette. Trong làng có gần 200 xe máy. Không còn hộ đói
và nhà tranh tre vách đất, số hộ nghèo giảm còn 7%. Xã có một trạm phát thanh
trung tâm, và ở mỗi xóm đều có một loa phóng thanh. Trạm phát tranh có nhiệm
vụ phát thanh các tin tức liên quan tới các nghị quyết của đảng, chính sách của
chính phủ, các quy định của tỉnh, huyện, xã và các thông tin về tình hình sản xuất
..., đến nhân dân trong xã.
- Hệ thống thuỷ lợi : Hệ thống tưới tiêu của xã đã được đổ bê tông với
chiều dài là 16 km. Hệ thống thoát nước, cống rãnh được xây dựng kiên cố từ 3
năm trước đây, nhưng hiện nay do sự phát triển quy mô sản xuất với quy mô lớn
hơn nhiều nên tình trạng ùn tắc, ứ đọng xảy ra thường xuyên, nhiều khi tràn lên
mặt đường, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra việc đầu tư cho hệ thống này
không được đồng bộ, mang tính chất chắp vá đã làm cho hệ thống bị xuống cấp
nhanh chóng. Đây chính là điểm cần quan tâm giải quyết vì nó có sự ảnh hưởng
rất lớn tới vấn đề môi trường trong xã.
Kết quả sản xuất kinh doanh của xã
Mộc Nam là xã đứng thứ ba về phát triển kinh tế của huyện Duy Tiên .
Với bản chất cần cù, chịu khó, không ngừng học hỏi, vươn lên của người dân,
nền kinh tế xã đã phát triển mạnh với việc duy trì và phát triển nghề lụa Nha Xá .
Nền kinh tế xã đang phát triển với sự gia tăng giá trị tất cả các ngành, cơ cấu
kinh tế, thay đổi dần theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần các
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ, được thể hiện qua
bảng 2.2
21
BẢNG 2.2 : KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA XÃ MỘC NAM QUA 3 NĂM 2009-2011
Năm 2009
Ngành
Giá trị
(triệu đ)
1. Tổng thu nhập
- Công nghiệp - TTCN
- Thương mại - dịch vụ
- Nông nghiệp
Năm 2010
Cơ cấu
(%)
Giá trị
(triệu đ)
Cơ cấu
(%)
96.884,0
0
78.787,38
Năm 2011
So với 2006 tăng
(+), giảm (-)
Giá trị (triệu
đ)
+ 18.096,62
103.043,83
Cơ cấu
(%)
So với năm 2007
tăng (+), giảm
(-)
+ 6.159,83
36.642,38
46,51
48.823,4
0
50,39
+ 12.181,02
53.677,93
52,09
+ 4.854,53
16.540,00
20,99
23.453,1
0
24,21
+ 6.913,10
27.068,40
26,27
+ 3.615,30
25.605,00
32,50
24.607,5
0
25,40
-997,50
22.297,50
21,64
-2.310,00
2. Thu nhập BQ /LĐ/năm
7,73
8,53
+ 0,81
8,61
+ 0,07
3. Thu nhập BQ /người /năm
6,01
7,44
+ 1,43
7,92
+ 0,48
29,61
33,84
+ 4,23
33,91
+ 0,07
4. Thu nhập BQ /hộ/năm
(nguồn: phòng thống kê huyện Duy Tiên )
22
Qua bảng 2.2 ta thấy nghề dệt lụa Nha Xá của xã luôn là một thế mạnh phát triển kinh tế. Năm 2011 giá trị ngành CN - TTCN
của xã đạt trên 53, 67 tỷ đồng, tăng 4,85 Ở đồng so với năm 2010. Thu nhập bình quân một lao động CN - TTCN là 8, 428 triệu
23
động/năm. Đã giải quyết việc làm cho 6369 lao động địa phương và 30004500 lao động địa phương khác. Thu nhập bình quân một hộ CN - TTCN khoảng
33, 91 triệu đồng/năm, đóng góp ngân sách Nhà nước hơn 36 triệu đồng (Báo cáo
sở công nghiệp năm 2011).
Ngành thương mại dịch vụ của xã trong những năm gần đây có xu hướng
tăng nhanh hơn các ngành khác cả về giá trị và tỷ trọng cơ cấu kinh tế chung.
2.2.4. NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ SẢN XUẤT CỦA LÀNG
NGHỀ LỤA
NHA XÁ
2.2.4.1. Lịch sử làng nghề:
Theo các cụ già nói lại, làng nghề bắt đầu từ khi Nhân vệ Vương Trần Khánh
Dư về tu ở chùa Nha Xá.Ông đào ao, thả cá, rồi nghĩ ra cách ươm tơ để làm vợt vớt cá.
Từ đó Nha Xá theo nghề này.
Từ những năm 1954, người dân chuyên dệt tơ bóng (gia công) cho Nhà nước,
tất cả được thu gom về trạm gia công Hà Nam Ninh (nay là Hà Nam). Sau đó làng
thành lập Hợp tác xã (HTX) gia công tơ lụa từ năm 1959 đến năm 1981.Trong khoảng
thời gian đó, làng nghề phát triển mạnh.
Khi nhu cầu nhân công cho việc dệt tăng cao thì làng để cho những làng
xung quanh làm công việc ươm tơ và chuyển sang chuyên dệt. Những người như:
cụ Khiển, cụ Tiến, cụ Cựu… đặc biệt là cụ Khiển là những người có công đóng
góp cho thời hoàng kim của làng dệt này, nên công việc làm ăn thịnh vượng
trong nhiều năm, nghề được lan sang nhiều xã của huyện Duy Tiên.
Đến những năm 1981, làng nghề chùng xuống do thời thế thay đổi. Sự
thịnh suy của làng nghề phụ thuộc nhiều vào thời thế.Khi đó, người ta bỏ làm dệt
vì lụa làm ra không ai mua. Dân nghèo túng không đủ ăn, nhiều gia đình chuyển
sang buôn bán, làm thuê làm mướn. Trước thời buổi khó khăn đó, sự khủng
hoảng của nghề khiến những nghệ nhân của làng hết sức lo lắng. Nghệ nhân Lê
Văn Khiển cố gắng trấn an bà con.
Nhưng trước sự khó khăn trầm trọng ấy, dù có cố gắng đến mấy thì người
dân vẫn cứ bỏ cái nghề không kiếm ra tiền.Đời sống nhân dân lâm vào tình cảnh
khó khăn. Nhiều người đã phải mang bị đi ăn xin. Mãi đến năm 1986 mở cửa,
cách quản lý thoáng phá bung cách quản lý cũ, cụ Khiển lại đi vận động bà con
khôi phục làng nghề để phát triển kinh tế.
24
Để làm được việc đó cụ phải lặn lội đi nhiều nơi để tìm thị trường, học hỏi
kinh nghiệm của một số làng nghề khác, rồi vận động bà con ở xã Chuyên Ngoại
ươm tơ mang về Nha Xá để bán cho bà con nơi đây. Nguy cơ mất nghề, sự đói
kém của bà con dân làng thôi thúc những nghệ nhân.Họ đoàn kết, họp thôn,
quyết đưa đời sống nhân dân đi lên, chẳng cách nào khác hơn là khôi phục
nghề.Bởi làng rất ít ruộng, không có đất màu, chẳng tiện buôn bán.
Đến năm 1989 về cơ bản những khó khăn đã được giải quyết. Bà con tìm
được thị trường cả trong nước và nước ngoài, đời sống khá dần lên. Cũng chính
nghệ nhân Lê Văn Khiển là người đã cải tiến công cụ máy móc của dân làng, để
tăng năng suất lao động, người dân đỡ vất vả hơn. Năm 2004, với sự phát triển
rực rỡ của làng nghề, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã về thăm và nói chuyện
với các nghệ nhân, khuyến khích phát triển kinh tế làng.
2.4.2.Tình hình hoạt động sản xuất của làng nghề lụa Nha Xá
2.4.2.1. Sản phẩm làng nghề
Trải qua hàng nhiều thế kỷ, thương hiệu lụa Nha Xá ngày càng được phát
triển không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước.
ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trương, nghề dệt lụa của
Nha Xá ngày càng có điều kiện phát triển. Hiện nay, sản lượng lụa hàng năm từ
2,5 đến 3 triệu mét lụa các loại. Với những mặt hàng tơ tằm như: Vân, Sa, Quế,
Lụa sa tanh hoa các loại đủ màu sắc, mẫu mã phong phú được tiêu tụ rộng rãi
trong cả nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tiến tới sự phát triển lâu
dài Nha Xá đang đầu tư xây dựng khu vực sản xuất tập trung trên diện tích 15ha
để có cơ sở đầy tư, cải tiến đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn hơn nữa với người tiêu dùng và tiến tới thị
trường xuất khẩu, đồng thời tạo ra một mô hình cảnh quan của một làng nghề,
làng du lịch.
Xét chung về làng nghề có hai loại sản phẩm chính là lụa và sa tanh. Giá
thành sản phẩm lụa dao động từ 50.000- 80.000đồng/mét; giá sản phẩm sa tanh
từ 70.000 – 100.000đồng/mét tùy thuộc vào chất lượng sản phẩm.
2.4.2.2. Tình hình công nghệ sản xuất và môi trường lao động
Trước đây,lụa Nha Xá chỉ dệt bằng khung dệt thủ công với chưa đầy 40
khung dệt, nay đã tăng lên trên 400 khung dệt và đã được cơ giới hoá 100. Khảo
sát thực tế tại các cơ sở sản xuất và tiến hành phỏng vấn 15 hộ dân cư không làm
nghề hoặc làm ở mức độ rất nhỏ của làng nghề lụa Nha Xá cho thấy toàn bộ các
25