Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƯƠNG MẠI TRONG SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.91 KB, 28 trang )

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƯƠNG MẠI TRONG SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM
Phần mở đầu
Phần nội dung


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế,
đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và đang trong quá trình đàm pháp gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), thì nhận thức về sở hữu trí tuệ nói chung và về
tên thương mại nói riêng của các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu
dùng ở nước ta ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những kết quả đã đạt được
trong việc bảo hộ tên thương mại, thì vấn đề vi phạm tên thương mại còn xảy ra
nhiều nơi trên đất nước ta, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của
doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy việc nghiên cứu việc bảo hộ tên thương mại là
điều cần nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về tên thương mại và giúp các doanh
nghiệp bảo vệ tài sản trí tuệ của mình phù hợp với xu hướng chung của quốc tế,
thúc đẩy kinh tế và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trên
trường quốc tế.
Việc nghiên cứu bảo hộ tên thương mại không chỉ trong pháp luật Việt Nam mà
còn trong pháp luật của một số quốc gia khác, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam hướng tới hội nhập hơn nữa và phát triển hơn nữa.


PHẦN NỘI DUNG

1. Khái quát chung
1.1 Khái niệm
Tên thương mại là tên của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh
để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong
cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.


Tên thương mại có thể là tên công ty, nó được sử dụng trên bảng hiệu doanh
nghiệp, song không nhất thiết phải đăng ký bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.
Theo điều 78. Khả năng phân biệt của tên thương mại
Tên thương mại được coi là có khả năng phân biệt nếu đáp ứng các điều kiện
sau đây:
-

Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng;

-

Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người
khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh;

-

Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác
hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử
dụng.
Một nhãn hiệu có thể bị từ chối bảo hộ nếu dấu hiệu này là dấu hiệu trùng
hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại đang được sử dụng của
người khác và ngược lại Tên thương mại cũng sẽ không có khả năng phân biệt
đồng nghĩa với việc không được bảo hộ dưới tên thương mại nếu tên thương mại
này trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ
trước ngày tên thương mại được sử dụng một cách hợp pháp.
Để đánh giá về khả năng trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn giữa nhãn hiệu với tên
thương mại thường được đánh giá bởi các tiêu chí sau đây:
Về mặt dấu hiệu: Thường được đánh giá trên cơ sở các tiêu chí như cấu
trúc, cách phát âm và cảm quan thị giác của nhãn hiệu và tên thương
mại.

+ Về mặt sản phẩm dịch vụ hoặc lĩnh vực hoạt động: Theo các quy định đã
dẫn chiếu nêu trên thì một nhãn hiệu có thể bị từ chối bởi một tên
+

3


thương mại nếu gây nhầm lẫn về nguồn gốc của hàng hóa bất kể sản
phẩm/dịch vụ được đăng ký theo nhãn hiệu này có trùng hoặc tương tự
với sản phẩm, dịch vụ được kinh doanh dưới tên thương mại hay không
và ngược lại một tên thương mại cũng sẽ bị từ chối bảo hộ với một nhãn
hiệu đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại được sử dụng bất kể
chúng có trùng nhau về sản phẩm/dịch vụ hay không.
về thành phần cấu tạo, tên thương mại và tên doanh nghiệp khá giống nhau.
Tuy nhiên, đối với tên thương mại không bắt buộc phải bao gồm loại hình doanh
nghiệp (công ty TNHH, công ty cổ phần…) mà thành phần phân biệt của tên thương
mại chỉ có vai trò phân biệt các lĩnh vực kinh doanh với nhau. nếu đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu về tên thương mại, tên thương mại sẽ được thừa nhận và tự động
được bảo hộ sau một quá trình sử dụng hợp pháp rộng rãi. Khác với tên thương
mại, tên doanh nghiệp được xác định rõ trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
(Điều 25 Luật Doanh nghiệp). Hay nói cách khác tên doanh nghiệp phải được xác
lập thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh.phạm vi bảo hộ của tên doanh nghiệp là
trên cả nước. Có nghĩa là, khi một doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh thì tên doanh nghiệp đó sẽ được bảo hộ trên phạm vi cả nước .Rõ ràng,
việc quy định về phạm vi bảo hộ đối với tên thương mại và tên doanh nghiệp đã có
những điểm khác biệt.
Tên thương mại được bảo hộ phải thỏa mãn các yếu tố sau:
-

Là tập hợp các chữ cái, chữ số phát âm được


-

Có khả năng phân biệt cho chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó.
Điều này có nghĩa là những tên gọi không có khả năng phân biệt do có quá
nhiều người sủ dụng sẽ không được bảo hộ dưới dạng tên thương mại.
1.2 Quyền sử dụng tên thương mại
Về cơ bản, do được sử dụng trong hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh
nghiệp, nên tên thương mại sẽ phải đáp ứng các yêu cầu mà pháp luật doanh
nghiệp dành cho tên doanh nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử
dụng hợp pháp tên thương mại đó
Chủ sở hữu tên thương mại là tổ chức, cá nhân sử dụng hợp pháp tên thương
mại đó trong hoạt động kinh doanh.
4


Một khi đã sở hữu hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương
mại, chủ thể sở hữu sẽ được quyền:
1

Sử dụng tên thương mại là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích thương mại bằng
cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện
tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì
hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo.
Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại
của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho
sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh,
hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối
với tên thương mại.


2

Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại
và người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi xâm phạm quyền của mình phải chấm
dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.

3

Chuyển giao tên thương mại theo hợp đồng hoặc thừa kế cho người khác với điều
kiện việc chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và
hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó; yêu cầu các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm tên thương mại.

4

Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có quyền chuyển giao
tên thương mại theo hợp đồng hoặc thừa kế cho người khác với điều kiện việc
chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động
kinh doanh dưới tên thương mại đó.
1.3 Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại
Theo luật sở hữu trí tuệ ở điều 77 có quy định về đối tượng không được bảo hộ với
danh nghĩa Tên thương mại.
“Điều 77. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại là tên của
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc chủ thể khác
không liên quan đến hoạt động kinh doanh thì không được bảo hộ với danh nghĩa
tên thương mại.”


5


2. Bảo hộ tên thương mại
2.1 Điều kiện bảo hộ tên thương mại
Để tên thương mại được bảo hộ theo pháp luật Sở hữu trí tuệ, nhìn chung, tên
thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên đó với chủ
thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Ngoài ra, tên
thương mại còn phải đáp ứng một số yêu cầu khác, đó là:
-

Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi:



Một tên thương mại có thể là tên đầy đủ hoặc tên giao dịch (tên viết tắt để tiện cho
việc giao dịch) theo đăng ký kinh doanh hoặc tên thường dùng.
Ví dụ: Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk là tên thương mại đầy đủ, bên
cạnh đó, công ty có thể sử dụng tên giao dịch là Công ty Vinamilk. Từ “Vinamilk”
chính là tên riêng thành phần phân biệt.



Tuy nhiên, trong thực tế, có một số tên thương mại không chứa thành phần tên
riêng nhưng đã tồn tại trong thời gian lâu dài và được người tiêu dùng biết đến
rộng rãi. Đối với trường hợp này, tên thương mại đó đã đạt được khả năng phân
biệt qua quá trình sử dụng thực tế, người tiêu dùng vẫn phân biệt được chủ thể
kinh doanh đó với các chủ thể kinh doanh khác, vì vậy mà được chấp nhận bảo hộ.
Ví dụ như Công ty Rượu Bia Hà Nội, Công ty Bia Sài Gòn, Công ty Bánh mứt kẹo Hà
Nội.


-

Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người
khác đã sử dụng trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Điều này cũng có thể hiểu là nếu tên thương mại của hai chủ thể kinh doanh
trùng nhau hoặc tương tự nhưng hai chủ thể kinh doanh đó lại hoạt động trong hai
lĩnh vực kinh doanh khác nhau hoặc thuộc hai khu vực địa lý khác nhau thì vẫn
được chấp nhận bảo hộ.

-

Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc quyền của
người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó
được sử dụng.
Cũng do tên thương mại thường là tên doanh nghiệp hoặc được sử dụng
thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của mỗi chủ thể kinh doanh, nên quyền
6


sở hữu tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên
thương mại đó tương ứng với khu vực và lãnh thổ kinh doanh, mà không cần thực
hiện thủ tục đăng ký tên thương mại đó tại cục Sở hữu trí tuệ. Điều này khác với
việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với các chỉ dẫn đầu tư khác như nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý, những đối tượng này cần phải đăng ký mới được bảo hộ.
2.2 Đăng kí bảo hộ tên thương mại
Người thực hiện: Tổ chức.
Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Các bước thực hiện:
Bước 1: Tiếp nhận đơn: Đơn đăng ký có thể nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu

điện tới trụ sở Cục Sở hữu trí tuệ tại Hà Nội hoặc 2 Văn phòng đại diện của Cục tại
TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Đơn đăng ký bao gồm:
(i) Hồ sơ theo mẫu của Cục sở hữu trí tuệ,
(ii) Tên thương mại của doanh nghiệp;
(iii) Các giấy tờ khác của doanh nghiệp.
Bước 2: Thẩm định hình thức đơn: Kiểm tra việc tuân thủ các quy định về hình
thức đối với đơn, từ đó đưa ra kết luận đơn có được coi là hợp lệ hay không.
Bước 3: Ra thông báo chấp nhận/từ chối chấp nhận đơn:
• Trường hợp đơn hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra thông báo chấp nhận đơn;
• Trường hợp đơn không hợp lệ, Cục sẽ ra thông báo từ chối chấp nhận đơn.
Bước 4: Công bố đơn: Đơn được coi là hợp lệ sẽ được công bố trên Công báo sở
hữu công nghiệp.
Bước 5: Thẩm định nội dung đơn: Đánh giá khả năng được bảo hộ của đối
tượng nêu trong đơn theo các điều kiện bảo hộ, qua đó xác định phạm vi bảo hộ
tương ứng.
Bước 6: Ra quyết định cấp/từ chối cấp văn bằng bảo hộ:
• Nếu đối tượng nêu trong đơn không đáp ứng được các yêu cầu về bảo hộ, Cục
Sở hữu trí tuệ sẽ ra quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ;
7


• Nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng được các yêu cầu về bảo hộ, và người
nộp đơn nộp lệ phí đầy đủ thì Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra quyết định cấp văn bằng bảo
hộ, ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp, và công bố trên Công
báo Sở hữu trí tuệ.
-

Kết quả thực hiện thủ tục: Văn bằng bảo hộ tên thương mại.


-

Các văn bản áp dụng:
• Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005.
• Nghị định số 122/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
2.3 Bảo hộ tên thương mại
Mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại của
người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm dịch vụ hoặc cho sản
phẩm dịch vụ tương tự gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt
động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền với tên
thương mại.
Việc bảo hộ tên thương mại cũng giống như bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ
khác là bảo hộ quyền tài sản của các chủ thể và được hiểu dưới hai phương diện
sau đây:



Thứ nhất, theo phương diện khách quan: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
tên thương mại là tổng hợp các quy định của pháp luật công nhận chủ sở hữu tên
thương mại được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và các biện pháp xử lý hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được pháp luật thừa
nhận.



Thứ hai, theo phương diện chủ quan: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại là những biện pháp cụ thể được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm
quyền của chủ sở hữu tên thương mại tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm.


-

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại gồm việc xác định hành
vi, tính chất và mức độ xâm phạm quyền đối với tên thương mại, xác định thiệt hại,
yêu cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp
hành chính, kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ,
giám định sở hữu trí tuệ.
8


-

Các biện pháp bảo hộ:



Biện pháp dân sự:
Biện pháp dân sự được áp dụng để giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của chủ
thể quyền đối với tên thương mại hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi
tranh chấp gây ra, kể cả hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng các biện pháp hành
chính hoặc hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình
tự, thủ tục áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự.
Các tranh chấp sở hữu trí tuệ nói chung và tranh chấp liên quan đến tên
thương mại nói riêng là loại tranh chấp dân sự, bởi vậy, về nguyên tắc tranh chấp
này được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự do Bộ luật Tố tụng dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều đặc thù của vi
phạm, tranh chấp sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ quy định nhiều nội dung cụ thể
hơn so với Bộ luật Tố tụng dân sự với mục đích giải quyết tốt loại vi phạm, tranh

chấp này. Ví dụ, quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự (Điều
203), theo đó nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền có quyền và
nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và
theo quy định tại Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ. Trường hợp có yêu cầu bồi thường
thiệt hại thì chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại phải
chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt
hại theo quy định tại Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
Khi bị xâm phạm quyền đối với tên thương mại, thì chủ sở hữu tên thương mại
có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 29, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp này được xác định như sau: Nếu tranh chấp tên thương mại
thuần tuý là tranh chấp dân sự thì thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp
huyện; Nếu tranh chấp tên thương mại thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có
đương sự hoặc đối tượng sở hữu trí tuệ ở nước ngoài, thuộc thẩm quyền của toà
án nhân dân cấp tỉnh; Nếu tranh chấp tên thương mại giữa cá nhân, tổ chức với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh
và thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp tỉnh.
Thủ tục tố tụng dân sự cho phép chủ sở hữu tên thương mại được quyền khởi
kiện yêu cầu toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm
quyền đối với tên thương mại phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có
9


hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại… Theo biện pháp dân sự, toà án buộc
cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại phải
bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu tên thương mại đó.
Ở nước ta, trong nhiều năm gần đây, các hành vi xâm phạm quyền đối với tên
thương mại chủ yếu được giải quyết bằng biện pháp hành chính. Thực tế ở nước ta
cho thấy rằng, so với biện pháp hình sự và biện pháp dân sự, thì áp dụng biện pháp
hành chính để xử lý những hành vi xâm phạm đem lại hiệu quả cao do không tốn

thời gian, tiền bạc. Số vụ việc được giải quyết bằng biện pháp dân sự và đặc biệt là
biện pháp hình sự còn rất ít.


Biện pháp hành chính:
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu
của chủ sở hữu tên thương mại, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm
gây ra, tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm
quyền chủ động phát hiện. Biện pháp hành chính (khiếu kiện ra tòa) chỉ được áp
dụng khi biện pháp dân sự không mang lại kết quả.
Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ nói chung rất phong phú. Cụ thể bao gồm các biện pháp xử
phạt hành chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ
sung) và các biện pháp khắc phục hậu quả. Mỗi hành vi vi phạm hành chính chỉ bị
áp dụng một hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Bên cạnh đó, tuỳ
theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm còn có thể
bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Theo quy định tại Điều 11
Nghị định số 99/2013/NĐ-CP, thì hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: “Đình chỉ
hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm từ 01 tháng đến 03 tháng đối với
hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này”. Ngoài ra, còn có các
biện pháp khắc phục hậu quả như: “Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm và tiêu hủy yếu tố
vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này; Buộc
tiêu hủy tang vật, phương tiện vi phạm nếu không loại bỏ được yếu tố vi phạm;
tem, nhãn, bao bì, vật phẩm vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1
đến Khoản 15 Điều này; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hàng hóa quá cảnh
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1
đến Khoản 12 Điều này; Buộc thay đổi tên doanh nghiệp, loại bỏ yếu tố vi phạm
trong tên doanh nghiệp đối với hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15
Điều này; Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm
quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này”.

10


Để bảo đảm việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại
bằng các biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật Sở hữu trí tuệ cho phép các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử
phạt hành chính. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp
nhất định theo quy định tại khoản 1 Điều 215 Luật Sở hữu trí tuệ: Hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu
dùng hoặc cho xã hội; Tang vật vi phạm có nguy cơ tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức vi
phạm có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm; Và nhằm bảo đảm thi hành quyết định
xử phạt hành chính.


Biện pháp hình sự:
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa quy định tội danh đối với hành vi
xâm phạm tên thương mại. Tuy nhiên, trên thực tế thông qua những hành vi xâm
phạm đó có thể xác định các yếu tố cấu thành tội phạm như sau: Quyền đối với tên
thương mại là một khách thể được pháp luật bảo vệ, vì vậy khi khách thể này bị
xâm phạm mà hành vi xâm phạm đó là do lỗi của chủ thể thực hiện hành vi, gây ra
hậu quả nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn cho chủ sở hữu tên thương mại, cho người
tiêu dùng và cho xã hội thì chủ thể thực hiện hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Như vậy, hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại bị xử lý hình sự khi
hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự hoặc
người thực hiện hành vi đó đã bị xử phạt hành chính nay còn vi phạm.
Việc khởi tố vụ án hình sự xâm phạm tên thương mại không phụ thuộc vào ý chí
của chủ sở hữu tên thương mại (trừ khi pháp luật quy định). Khi xác định hành vi
xâm phạm quyền đối với tên thương mại có dấu hiệu tội phạm, các cơ quan tố tụng

có có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan đó có thể là cơ
quan điều tra, viện kiểm sát hoặc cơ quan hải quan.

11


3.

Pháp luật về bảo hộ tên thương mại ở việt nam

3.1 Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương
mại tại Việt Nam.
3.1.1 Xác lập quyền đối với tên thương mại.
Đối với việc bảo hộ tên thương mại, theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, việc
bảo hộ này là dựa trên việc sử dụng hợp pháp tên thương mại này. Tuy nhiên, thế
nào là sử dụng tên thương mại hợp pháp hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể và
rõ ràng bao gồm cả phạm vi sử dụng tên thương mại (chỉ tại Việt Nam, tại Việt
Nam và tại quốc gia khác) và việc sử dụng như thế nào mới được coi là hợp pháp.
Trên thực tế, đã có nhiều vụ việc được giải quyết nhưng với kết quả trái ngược
nhau hoàn toàn mặc dù chúng có cùng bản chất xuất phát từ việc xác định phạm vi
lãnh thổ sử dụng tên thương mại.
Thực trạng trong việc thiết lập quyền đối với tên thương mại cũng cần phải
được xem xét và nhìn nhận từ góc độ của cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy
định của Luật Doanh nghiệp hiện nay. Mặc dù Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định
nghiêm cấm việc doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu đang được bảo hộ của chủ thể
khác làm tên doanh nghiệp nhưng việc kiểm tra xem một tên doanh nghiệp có bị coi
là trùng với nhãn hiệu đang được bảo hộ hay không thì lại không phải là trách
nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh mà phụ thuộc hoàn toàn vào sự tự giác của
doanh nghiệp đi đăng ký kinh doanh. Để ngăn chặn tình trạng sử dụng nhãn hiệu
đã được bảo hộ làm tên doanh nghiệp Nghị định 43/2010/NĐ-CP chỉ đơn giản là

khuyến khích người đi đăng ký kinh doanh tham khảo cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu
của Cục sở hữu trí tuệ mà không có bất cứ quy định ràng buộc trách nhiệm cụ thể
nào đối với người đăng ký kinh doanh ngày từ lúc bắt đầu chuẩn bị hồ sơ đăng ký
kinh doanh.
3.1.2 Về vấn đề thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại.
Với những thực trạng về việc xác lập quyền đối với tên thương mại và nhãn
hiệu như đã nêu ở trên thì việc thực thi quyền trên thực tế cũng gặp nhiều khó
khăn.
Thứ nhất: Trong nhiều trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu, tên thương mại
không thể yêu cầu xâm phạm quyền chấm dứt hành vi xâm phạm cũng như yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành xử lý các hành vi xâm phạm quyền theo
quy định do trong nhiều trường hợp nhãn hiệu mặc dù tương tự gây nhầm lẫn với
12


tên thương mại nhưng vẫn được câp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu do quy
trình thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu vẫn còn chưa chặt chẽ như đã trình bày ở
trên. Dẫn tới tình trạng trên thị trường vừa tồn tại một nhãn hiệu vừa tồn tại tên
thương mại của hai chủ thể khác nhau khiến cho khách hàng có thể nhầm lẫn về
nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa được cung cấp bởi các chủ thể này.
Trong trường hợp nhãn hiệu đã được cấp nhưng chưa quá 5 năm thì vẫn còn
có khả năng bị hủy trên cơ sở đơn khiếu nại của chủ sở hữu tên thương mại hợp
pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp nhãn hiệu đã được cấp quá 5 năm tính từ ngày
cấp Giấy chúng nhận đăng ký nhãn hiệu thì việc hủy bỏ hiệu lực của Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu này là không thể được do theo quy định của Luật sở hữu
trí tuệ thi một Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu chỉ có thể hủy bỏ hiệu lực trong
vòng 5 năm tính từ ngày cấp văn bằng bảo hộ. Lúc này, việc khắc phục vấn đề gây
nhầm lẫn cho người tiêu dung gần như là không thể được.
Thứ hai: việc đặt tên doanh nghiệp hiện nay chưa có bất cứ quy định mang
tính chất bắt buộc nào đối với người đăng ký kinh doanh liên quan đến việc đảm

bảo không xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của chủ thể khác nên trong nhiều
trường hợp người đăng ký kinh doanh vẫn cố tình đặt tên doanh nghiệp trùng với
nhãn hiệu đang được bảo hộ của người khác. Tình trạng này đặc biệt phổ biến đối
với những nhãn hiệu nổi tiếng hay đã được sử dụng rộng rãi trên thị thường. Tuy
nhiên, hiện nay quy định về việc thay đổi tên doanh nghiệp trong những trường hợp
này lại không phải là quy định bắt buộc. Trên thực tế, theo quy định của thông tư số
37/2011/TT-BKHCN ngày 27/12/2011 thì trong trường hợp có kết luận về việc tên
doanh nghiệp xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của chủ thể khác thì cơ quan có
thẩm quyền vẫn không thể ra quyết định buộc thay đổi tên doanh nghiệp được mà
vẫn phải phụ thuộc vào sự tự nguyện của doanh nghiệp vi phạm. Thậm chí trong
trường hợp doanh nghiệp vi phạm không tự nguyện sửa đổi tên thì cơ quan đăng
ký kinh doanh cũng chỉ có thẩm quyền công bố thông tin về việc doanh nghiệp xâm
phạm quyền của chủ thể khác lên cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia
(Điểm b, khoản 3, điều 17).
Việc xử lý thực trạng này chỉ có thể được giải quyết triệt để trong trường hợp
cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
của doanh nghiệp vi phạm. Tuy nhiên, về vấn đề này cũng cần phải lưu ý rằng sở dĩ
có thực trạng nêu trên một phần cũng do có sự không phù hợp giữa Luật Doanh
nghiệp và Luật Sở hữu trí tuệ. Cụ thể, theo quy định của Luật Doanh nghiệp này vi
13


phạm các trương hợp được quy định tại khoản 2 điều 165 Luật Doanh nghiệp, tuy
nhiên các quy định tại khoản 2 điều 165 này hoàn toàn không có trường hợp nào có
quy định về việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với trường hợp
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể khác. Do đó, thông tư số 37/2011/TTBKHCN quy định như trên có thể coi là một trong những biện pháp chấp nhận được
để giải quyết sự xung đột giữa hai văn bản luật này.
3.1.3

Bảo hộ tên doanh nghiệp ảnh hưởng đến bảo hộ tên thương mại.


Luật không rõ.
Theo Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, Luật Sửa đổi, Bổ sung một số điều của Luật Sở
hữu Trí tuệ 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành, tên thương mại là “tên gọi
của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh
doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực
kinh doanh”. Một tên sẽ được bảo hộ như tên thương mại nếu tên này “không trùng
hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử
dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Mặc dù Luật SHTT đã đưa
ra một loạt các tiêu chí để xác định yếu tố “trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm
lẫn” của một dấu hiệu, Luật SHTT đã không xác định được “khu vực kinh doanh” là
gì. Trong Luật SHTT, “khu vực kinh doanh” được định nghĩa là “khu vực địa lý nơi
chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”, nhưng định nghĩa
này là không rõ ràng. Liệu theo định nghĩa này thì “khu vực kinh doanh” có thể
được hiểu là bất kỳ khu vực địa lý nào mà doanh nghiệp phân phối sản phẩm đến?
Hay “khu vực kinh doanh” là nơi doanh nghiệp đó đặt trụ sở chính, chi nhánh hay
thậm chí chỉ là nơi doanh nghiệp đặt văn phòng giao dịch? Ví dụ, liệu một doanh
nghiệp sản xuất nước mắm có được bảo hộ tên doanh nghiệp của mình như tên
thương mại tại tỉnh Y trong lúc một doanh nghiệp khác cùng ngành đang sử dụng
cùng tên đó cho sản phẩm của mình tại tỉnh Z?
Quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên
thương mại đó trong hoạt động kinh doanh và trên cơ sở sử dụng trước.Luật không
yêu cầu phải đăng ký bảo hộ tên thương mại. Chủ sở hữu tên thương mại được
quyền sử dụng tên thương mại trong các hoạt động kinh doanh của mình, như thể
hiện tên thương mại đó trên các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, bao bì, v.v…
Vì thế, nếu “X” được sử dụng trên các bao bì sản phẩm, hàng hóa, quảng cáo của
một doanh nghiệp, về nguyên tắc “X” sẽ được xem là tên thương mại (nếu tên này
thỏa mãn các điều khác của Luật SHTT như đã nói) và doanh nghiệp này sẽ được
14



coi là chủ sở hữu của tên thương mại “X”.
Cản trở của Luật Doanh nghiệp 2005 đối với việc bảo hộ tên thương mại.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, tên của
doanh nghiệp bao gồm hai thành tố: (1) loại hình doanh nghiệp, như công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, v.v…, và (2) tên riêng của
doanh nghiệp.Nghĩa là, ví dụ như, nếu X là tên riêng của doanh nghiệp, tên của
doanh nghiệp sẽ là “Công ty TNHH X”. Ngoài ra, “doanh nghiệp có thể sử dụng
ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư hay yếu tố phụ trợ khác để cấu thành tên
riêng của doanh nghiệp […]”.Ví dụ, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể chấp nhận
tên “Công ty TNHH Nước mắm X” là tên doanh nghiệp.
Quyền đối với tên doanh nghiệp được xác lập khi doanh nghiệp đăng ký tên này
trong quá trình đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh tại tỉnh, thành
phố nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính. Doanh nghiệp, sau đó, phải (và có
quyền) viết hoặc gắn tên doanh nghiệp tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại
diện của doanh nghiệp và in hoặc viết tên doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch,
hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành. Do đó, nếu căn cứ theo định
nghĩa về tên thương mại (là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh
doanh khác trong cùng lĩnh vực và “khu vực kinh doanh”), việc sử dụng tên doanh
nghiệp theo những cách này có thể khiến tên doanh nghiệp trở thành tên thương
mại. Tuy nhiên, tên doanh nghiệp không nhất thiết luôn luôn là tên thương mại. Vì
hai lý do sau. Thứ nhất, như đã nói ở phần trên của bài viết, khái niệm “khu vực
kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại là không rõ ràng và gần như không
giúp xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Thứ hai, phạm vi bảo hộ của tên
thương mại khác phạm vi bảo hộ của tên doanh nghiệp.
Theo Luật DN, tên của một doanh nghiệp có thành phần tên riêng trùng với tên
riêng của doanh nghiệp đã đăng ký sẽ không được cơ quan đăng ký kinh doanh
chấp nhận. Nghĩa là, về mặt nguyên tắc, nếu tên “Công ty TNHH X” đã được đăng
ký, các doanh nghiệp khác sẽ không thể sử dụng tên có thành phần tên riêng là “X”

để tiến hành đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ này chỉ giới hạn trong
phạm vi tỉnh, thành phố, mà cụ thể là tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp liên quan
tiến hành đăng ký kinh doanh. Do đó, nếu “Công ty TNHH X” được đăng ký tại tỉnh
Y, Luật DN không cấm doanh nghiệp khác đăng ký tên “Công ty TNHH X” tại tỉnh Z.
Quy định như vậy, Luật DN rõ ràng đã tạo ra nhiều khó khăn, phức tạp khi áp dụng
15


Luật trong thực tế. Không những làm xuất hiện một số lượng lớn các doanh nghiệp
trùng tên trên toàn quốc, quy định này còn gây khó khăn cho chế định bảo hộ tên
thương mại theo Luật SHTT.
Rõ ràng rằng doanh nghiệp sẽ sử dụng tên doanh nghiệp trên bao bì hàng hóa,
sản phẩm của mình, ví dụ như bao bì sản phẩm sẽ ghi “sản phẩm của Công ty TNHH
X”. Bằng cách này, tên doanh nghiệp có thể được xem là tên thương mại theo Luật
SHTT. Tuy nhiên, theo Luật DN, một doanh nghiệp khác (“doanh nghiệp thứ hai”) lại
hoàn toàn có quyền đóng gói sản phẩm của mình với cùng một cách tương tự như
doanh nghiệp kia (“doanh nghiệp thứ nhất”), do doanh nghiệp thứ hai này đã đăng
ký kinh doanh với cùng tên doanh nghiệp tại một tỉnh, thành phố khác. Do đó, tên
của doanh nghiệp thứ hai cũng có thể được xem là tên thương mại. Câu hỏi đặt ra ở
đây sẽ là, (1) doanh nghiệp nào sẽ được bảo hộ theo Luật SHTT, và (2) cơ chế bảo
hộ sẽ như thế nào?
(1) Như đã nói ở phần đầu của bài viết, tên thương mại được bảo hộ trên cơ sở
sử dụng trước. Do đó, về mặt nguyên tắc, trong trường hợp nêu ở trên về hai doanh
nghiệp trùng tên, sử dụng tên doanh nghiệp của mình trong hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp nào sử dụng tên đó trước sẽ được công nhận là chủ sở hữu hợp pháp
của tên thương mại đó.
Tuy nhiên, vấn đề thực tế không đơn giản chút nào. Như đã nói, thành tố để xác
định một tên thương mại bao gồm “lĩnh vực kinh doanh” và “khu vực kinh doanh”.
Trong khi “lĩnh vực kinh doanh” thì quá rõ ràng, “khu vực kinh doanh” gần như
không thể xác định được.

Lấy lại ví dụ vừa rồi về hai doanh nghiệp trùng tên – doanh nghiệp thứ nhất và
doanh nghiệp thứ hai. Nếu doanh nghiệp thứ nhất đóng gói bao bì sản phẩm với
tên của doanh nghiệp và phân phối sản phẩm tại tỉnh Y. Sau đó, doanh nghiệp thứ
hai cũng đóng gói sản phẩm của mình với tên doanh nghiệp mình và phân phối sản
phẩm tại tỉnh Z. Hai doanh nghiệp này không những trùng tên mà, giả sử, còn hoạt
động trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Vậy, liệu hành vi đóng gói sản phẩm dưới tên
doanh nghiệp của doanh nghiệp thứ nhất có được xem là “sử dụng trước” hay
không? Nếu câu trả lời là “Có”, có nghĩa là “khu vực kinh doanh” trong trường hợp
này phải được hiểu là toàn lãnh thổ Việt Nam[18] do doanh nghiệp thứ nhất sử
dụng tên doanh nghiệp (như là tên thương mại) trước nhưng lại chỉ trong giới hạn
địa lý của tỉnh Y, và doanh nghiệp thứ hai sử dụng tên đó sau nhưng cũng chỉ trong
giới hạn của tỉnh Z. Ngược lại nếu câu trả lời là “Không”, có nghĩa là “khu vực kinh
16


doanh” phải được diễn giải riêng lẻ là tỉnh Y và tỉnh Z, tức là khu vực địa lý nơi
doanh nghiệp phân phối sản phẩm và do đó “có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh
tiếng”.
(2) Luật DN quy định “trường hợp tên của doanh nghiệp vi phạm các quy định
của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại thì
doanh nghiệp có tên vi phạm phải đăng ký đổi tên”. Nếu áp dụng quy định này vào
ví dụ vừa rồi, một trong hai doanh nghiệp, nếu bị cho là vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, sẽ phải đổi tên doanh nghiệp của mình mặc dù cả hai doanh nghiệp đều đã
hoàn toàn tuân thủ quy định của Luật DN trong quá trình các doanh nghiệp này
tiến hành đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, vấn đề đổi tên doanh nghiệp bắt buộc - nói thì dễ như thực tế thực
hiện được hay không là một vấn đề khác. Hãy cứ tưởng tượng làm thế nào mà 722
doanh nghiệp trùng tên ở Hà Nội tiến hành đổi tên?
3.2 Một số trường hợp xâm phạm tên thương mại điển hình
Tình huống 1

Liên quan đến việc 2 công ty bất động sản ở Tp. Hồ Chí Minh có cùng tên Nam
Tiến, Cục sở hữu trí tuệ cho rằng, công ty Nam Tiến (quận 1) có dấu hiệu xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp đối với tên nhãn hiệu và tên thương mại.
Ông Trần Việt Hùng, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học – Công nghệ
đã có công văn trả lời về việc tranh chấp tên thương hiệu của 2 công ty bất động
sản tại Tp. Hồ Chí Minh là công ty cổ phần Dịch vụ đầu tư xây dựng bất động sản
Nam Tiến (trụ sở tại B5-B6 khu dân cư Kim Sơn, đường Nguyễn Hữu Thọ, P. Tân
Phong, Q.7, gọi tắt Nam Tiến quận 7) và sàn giao dịch bất động sản Nam Tiến thuộc
công ty Cổ phần Nam Tiến (số 95 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, gọi tắt Nam Tiến quận
1).
Theo Cục sở hữu trí tuệ, Nam Tiến quận 7 đã được cấp giấy chứng nhận đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu “Nam Tiến và hình” cho dịch vụ: “Dịch vụ đầu tư, quản lý, mua
bán, tư vấn, môi giới bất động sản” và dịch vụ: “Xây dựng công trình dân dụng”. Do
vậy, kể từ ngày cấp, Nam Tiến quận 7 được độc quyền sử dụng nhãn hiệu đã nêu
trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, việc xuất hiện sàn giao dịch bất động sản Nam
Tiến quận 1 có tên thương mại “Nam Tiến” tương tự về kết cấu từ và phát âm với
phần chữ tương ứng trong nhãn hiệu được bảo hộ của Nam Tiến quận 7 là cấu
thành hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được quy
17


định tại điều 129.1 Luật Sở hữu trí tuệ.
Việc Nam Tiến quận 1 lại có cùng dịch vụ buôn bán, môi giới bất động sản như
Nam Tiến quận 7 (đã được bảo hộ) dễ cấu thành hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với tên thương mại. Hành vi đăng ký cùng tên, hoạt động cùng
ngành nghề này của Nam Tiến quận 1 dễ gây nhầm lẫn cho người tiên dung về chủ
thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh và cơ sở kinh doanh. Do đó, ông Trần Việt
Hùng, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ nêu rõ: “ Theo quy định của pháp luật, Nam
Tiến quận 7 có thể yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp.HCM yêu cầu Nam Tiến quận
1 đổi tên sàn giao dịch bất động sản”.

Trước đó, Nam Tiến quận 7 được Sở Kế hoạch – Đầu tư Tp.HCM cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh ngày 4/9/2009. Ngành nghề hoạt động chính là tư vấn
BĐS, vận tải hang hóa bằng đường bộ. Ngày 22/2/2010, Nam Tiến quận 7 đã được
Sở Xây dựng Tp.HCM cấp phép thành lập, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Cục Sở hữu
trí tuệ (Bộ Khoa học – Công nghệ). Thế nhưng, ngày 19/7 Nam Tiến quận 1 xuất
hiện, Cho rằng, Nam Tiến quận 1 đã “xài ké” tên thương mại, ảnh hưởng tiêu cực
tới thương hiệu, hình ảnh và uy tín nên Nam Tiến quận 7 đã gửi đơn kiện khiếu nại
lên Sở Xây dựng Tp.HCM.

Tình huống 2
Vụ kiện dân sự của Công ty Cổ phần Vincom đối với Công ty Cổ phần Tài chính
và Bất động sản Vincon vào cuối năm 2010 vì hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
đối với tên thương mại là một ví dụ điển hình. Theo Thanh tra Bộ Khoa học và Công
nghệ, Vincon đã có hành vi sử dụng dấu hiệu “Vincon” trên biển hiệu, giấy tờ giao
dịch, phương tiện kinh doanh, phương tiện quảng cáo và trên tên công ty, tên chi
nhánh của công ty này tại Đà Nẵng và Thừa Thiên – Huế, xâm phạm quyền đối với
tên thương mại “Vincom” đang được bảo hộ tại Việt Nam của Vincom.
Luật Doanh nghiệp quy định: “Tên của doanh nghiệp phải đảm bảo yếu tố kỹ
thuật, không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký
kinh doanh; phải viết rõ loại hình doanh nghiệp”.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật, đặc biệt là Nghị định số 97/2010/NĐCP về “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp” có hiệu lực
vào ngày 9/11/2010; đồng thời căn cứ vào các nội dung, tính chất và mức độ vi
phạm hành chính của công ty Vincon tại các biên bản vi phạm hành chính được lập
18


bởi cơ quan Thanh tra của Bộ Khoa học và Công nghệ tại Hà Nội, Huế và Đà Nẵng,
ông Trần Minh Dũng, Chánh thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra quyết định
xử phạt Vincon. Cụ thể, Vin con sẽ bị phạt tiền với mức phạt 14.000.000 đồng đối
với hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại Vincom. Công ty Vincon cũng

đã được yêu cầu loại bỏ yếu tố vi phạm “Vincon” trên biển hiệu, giấy tờ giao dịch,
phương tiện kinh doanh, phương tiện quảng cáo và trên tên công ty, tên chi nhánh
của công ty tại Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế.
3.3 Một số giải pháp đối với vấn đề bảo hộ tên thương mại ở Việt Nam.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ và xử lý
vi phạm sở hữu trí tuệ cho phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực tế hiện nay.
Hiện nay, các quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫ còn các điểm
yếu, dẫn đến hiệu quả thực thi còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ. Đây là một trong những bất lợi của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và phát huy sức
mạnh toàn dân tích cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống sản xuất, buôn
bán hàng giả, xâm phạm nhãn hiệu tên thương mại dưới mọi hình thức, đưa nội
dung giáo dục vào nhà trường, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về sở hữu trí
tuệ trong các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể, đồng thời kết hợp các phương tiện
thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chức năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện tội
phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng để toàn dân được biết. Nâng cao hơn nữa vai trò của tòa án trong việc
xét xử nghiêm minh các hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền đối với nhãn hiệu,
tên thương mại. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng chuyên trách về sở hữu trí
tuệ, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường cơ sở vật chất
kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
4. Pháp luật về bảo hộ tên thương mại trên thế giới
Suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, tri thức luôn là một
trong các yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Sự bùng nổ công nghệ thông tin
và công nghệ kỹ thuật số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi mặt của đời
19



sống xã hội hằng ngày đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, tài sản trí tuệ là tài sản vô
hình, vì vậy, sự hình thành, chuyển dịch và chấm dứt cũng như bảo hộ các quyền
phát sinh từ tài sản vô hình có những điểm khác biệt so với tài sản hữu hình. Vấn đề
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ lâu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của
các tác giả sáng tạo ra các đối tượng sở hữu công nghiệp, của các chủ sở hữu đối
tượng đó mà còn là mối quan tâm lớn của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở
những nơi, những khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển. Do đó, hầu hết các
nước trên thế giới đều ban hành những quy định pháp luật riêng biệt để điều chỉnh
các quan hệ liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp.
Ở đây, trước tiên cần đề cập tới việc bảo hộ tên thương mại với tư cách là đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp thông qua tìm hiểu những nét khái quát nhất của
hệ thống pháp luật bảo hộ tên thương mại ở một số quốc gia, tìm hiểu tên thương
mại theo Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (được sửa
đổi năm 1979) – Là công ước quốc tế đa phương duy nhất đề cập trực tiếp tới vấn
đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại với số lượng thành
viên tham gia là trên 150 quốc gia.
4.1 Khái quát pháp luật về bảo hộ tên thương mại trên thế giới.
Điều khoản về bảo hộ tên thương mại đã tồn tại ngay từ văn bản đầu tiên của
Công ước Paris vào năm 1883. Tại hội nghị La hay năm 1952 đã sửa đổi nội dung
của điều khoản cho phù hợp hơn với các điều khoản khác của công ước.
Theo Điều 8 Công ước Paris thì tên thương mại được bảo hộ tại tất cả các nước
thành viên. Tuy nhiên, Công ước này không đưa ra quy định cụ thể về việc tên
thương mại phải được bảo hộ dưới hình thức nào. Do vậy, chế độ pháp lý đối với
tên thương mại tại các quốc gia khác nhau rất đa dạng. Tuy có những khác biệt
nhất định nhưng ở tất cả các nước có pháp luật về bảo hộ tên thương mại đều tập
trung điều chỉnh các vấn đề sau: những dấu hiệu nào có thể được sử dụng với tư
cách là tên thương mại; trình tự xác lập quyền đối với tên thương mại; quyền và
nghĩa vụ của người có tên thương mại; vấn đề bảo vệ và chấm dứt quyền đối với
tên thương mại. Vấn đề xác định quyền đối với tên thương mại ở nước ngoài theo

công ước có một số điểm đáng chú ý như sau:
Điều 8 Công ước Paris năm 1979 quy định: “Tên thương mại được bảo hộ ở tất
cả các nước thành viên của Liên hiệp mà không bị bắt buộc phải nộp đơn hoặc
đăng ký, bất kể tên thương mại đó có hay không là một phần của một nhãn hiệu.”

20


Theo nguyên tắc “chế độ quốc gia” được quy định tại Điều 2 Công ước thì tên
thương mại của nước ngoài được bảo hộ như những tên thương mại của công dân
nước sở tại.
Ngoài ra, việc bảo hộ tên thương mại ở các nước trên thế giới còn phải đề cập
đến trường hợp khi pháp luật của một quốc gia quy định các chế độ bảo hộ khác
nhau cho tên thương mại có đăng ký và tên thương mại không đăng ký (nhằm
khuyến khích việc đăng ký) thì tên thương mại của người nước ngoài không đăng
ký cũng chỉ được bảo hộ như tên thương mại không đăng ký của công dân nước sở
tại.
Nếu như pháp luật ở nước thành viên của Công ước Paris coi dấu hiệu có khả
năng làm cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn là một trong những điều kiện không
được bảo hộ của tên thương mại, thì nước thành viên đó có thể đưa ra yêu cầu rằng
tên thương mại nước ngoài được bảo hộ nếu như nó đã được sử dụng trên thực tế
hoặc có được biết đến ở mức độ nhất định tại các nước là thành viên của Công ước
Paris. Những quy định như vậy có trong pháp luật của Đức, Pháp, Áo, Thụy Sỹ và
một loạt các nước khác. Tuy nhiên, tại nhiều nước thì tên thương mại nước ngoài
lại được bảo hộ không phụ thuộc vào việc nó đã được sử dụng hoặc được biết đến ở
mức độ nhất định tại nước sở tại; sự kiện mang ý nghĩa quyết định ở đây lại là việc
tên thương mại đó đã được bảo hộ ở một trong các nước thành viên của Công ước
Paris. Ví dụ điển hình về thực tiễn trên là: Quyết định của Tòa án thành phố
Trônkheim (Na Uy) giải quyết vụ việc một công ty mỹ phẩm Na Uy mang tên
thương mại “ERR A/C” (đã được đăng ký tại thành phố nói trên vào năm 1945)

kiện yêu cầu cấm công ty Thụy Điển “ERR A/C” sử dụng tên thương mại này cho
một cửa hàng buôn bán nước hoa của công ty được mở tại Trônkheim vào năm
1967. Tòa án đã không thừa nhận đơn kiện của công ty Na Uy vì cho rằng, tại Thụy
Sỹ, bị đơn mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên lãnh thổ Na Uy và mới đăng
ký nhãn hiệu đó tại thành phố Oxlô (Na Uy) là không có ý nghĩa đối với việc công
nhận sự bảo hộ tên thương mại trên tại Na Uy. Theo Điều 8 Công ước Paris, công ty
Thụy Sỹ có quyền trước đối với tên thương mại nói trên.
4.2 Hệ thống pháp luật bảo hộ tên thương mại ở một số quốc gia trên thế
giới
Ở các nước, pháp luật điều chỉnh tên thương mại thường dựa vào đạo luật
riêng về bảo hộ tên thương mại hoặc các văn bản luật dân sự, luật thương mại, luật
về chống cạnh tranh không lành mạnh, luật về nhãn hiệu… hoặc được quy định bởi
các án lệ tại các nước với hệ thống thông luật.
21


Ví dụ: Thụy Điển là một trong số ít các nước có luật riêng về tên thương mại;
Luật về nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ của Philippines (Phần 3 Bộ luật Sở
hữu trí tuệ) có một điều riêng về tên thương mại và nhiều điều khoản áp dụng
chung cho cả ba đối tượng, nhiều điều khoản về nhãn hiệu áp dụng tương tự cho
tên thương mại; Luật Sở hữu công nghiệp (sở hữu trí tuệ) của các nước Tây Ban
Nha, Mexico, các nước Mỹ La tinh, Srilanca có phần riêng về tên thương mại; tại
Liên bang Nga, tên thương mại được bảo hộ trong khuôn khổ Bộ luật Dân sự, Luật
về cạnh tranh và hạn chế độc quyền trên thị trường hàng hoá (Điều 10 Luật Liên
bang Nga về cạnh tranh và hạn chế độc quyền trên thị trường hàng hoá), Luật Bảo
vệ người tiêu dùng (Điều 9 Luật Liên bang Nga về bảo vệ người tiêu dùng)…
Việc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tên thương mại ở các nước cũng
không đồng nhất. Sự khác biệt không chỉ tồn tại giữa các hệ thống pháp luật quốc
gia về bảo hộ tên thương mại mà còn thể hiện cả ở trong hệ thống pháp luật của
từng nước, nhất là các nước với hình thức cấu trúc liên bang. Ví dụ, tại Mỹ việc điều

chỉnh các quan hệ này không thuộc thẩm quyền của chính quyền liên bang mà được
xác định bởi pháp luật của từng bang.
Nguyên tắc lựa chọn tên thương mại: Pháp luật nhiều nước quy định hầu
như bất cứ dấu hiệu nào cũng có thể được nhà kinh doanh lựa chọn làm tên thương
mại cho mình. Nhà kinh doanh có thể thích dùng tên riêng của chính mình, nhưng
cũng có thể tự lựa chọn một cái tên bất kỳ nào đó (không trái với pháp luật của
nước mình) để làm tên thương mại. Nguyên tắc “tự do lựa chọn” này tồn tại ở Anh,
Nhật, Mỹ và một loạt các nước có hệ thống pháp luật được xây dựng dưới ảnh
hưởng của các quốc gia nêu trên. Tuy vậy, trong pháp luật về bảo hộ tên thương
mại của các nước này cũng tồn tại một số hạn chế nhất định đối với việc lựa chọn
tên thương mại. Chẳng hạn, hạn chế hoặc loại bỏ vệc sử dụng một số từ hay cụm từ
riêng biệt (ví dụ, “hoàng gia”, “quốc tế”…) hoặc bắt buộc phải đưa vào thành phần
tên thương mại những chỉ dẫn về tính chất, phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh
doanh (ví dụ, “trách nhiệm hữu hạn”, “cổ phần”, “hợp danh”…).
Luật của hầu hết các nước trong hệ thống luật Châu Âu và những nước chịu
ảnh hưởng của hệ thống pháp luật này thì lại không cho phép chủ thể kinh doanh là
cá nhân được tự do lựa chọn tên thương mại, họ bắt buộc phải tiến hành công việc
kinh doanh dưới tên riêng của chính mình, điều này có nghĩa là khi một cá nhân
tiến hành hoạt động kinh doanh, thì họ phải sử dụng tên thật của mình làm tên
thương mại mà không được lựa chọn một tên tự đặt bất kỳ nào khác. Chính bằng
cách đó nên đã xuất hiện một số tên thương mại danh tiếng như SIMENS,
22


ERICSSION… Những yêu cầu tương tự cũng được đưa ra đối với công ty hợp danh:
Tên thương mại của các chủ thể này cần phải bao gồm tên thật của tất cả các thành
viên sáng lập công ty hoặc tên thật của ít nhất một thành viên với việc bổ sung
thêm từ “… và công ty (company)”, khi công ty được chuyển giao cho một chủ sở
hữu mới thì tên thương mại cũ cũng phải được chuyển giao. Đối với những liên kết
tư bản khác như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… thì những yêu cầu

đối với tên thương mại như trên không được áp dụng. Nhưng tên thương mại của
những công ty này nhất thiết phải nêu được phạm vi hoạt động và loại hình tổ
chức. Nếu tên thương mại không phù hợp với bản chất thực của công ty sử dụng
tên thương mại đó thì công ty có thể bị yêu cầu thay đổi tên thương mại của mình.
Nguyên tắc xác lập quyền đối với tên thương mại: Ở các nước khác trên thế
giới, việc xác lập quyền đối với tên thương mại được hình thành trên những cơ sở
pháp lý khác nhau như: sử dụng tên thương mại (đa số các nước); đăng ký bắt buộc
(ở một số nước xã hội chủ nghĩa cũ như Liên bang Nga, khu vực Trung Mỹ…); sử
dụng hoặc đăng ký tên thương mại, trong đó hình thức đăng ký được khuyến khích
(ở một số nước như Thuỵ Điển, Srilanca, Tây Ban Nha).
Như vậy, việc đăng ký tên thương mại có thể mang ý nghĩa làm phát sinh quyền
nhưng cũng có thể chỉ mang ý nghĩa chứng thực quyền (tương tự như đối với nhãn
hiệu hàng hóa). Cụ thể, quyền đối với tên thương mại xuất hiện từ sự kiện sử dụng
tên thương mại, còn việc đăng ký tên thương mại sau đó chỉ có ý nghĩa củng cố
thêm quyền đã xuất hiện từ trước mà không phải là bắt buộc. Ví dụ, tại Achentina
quyền đối với tên thương mại được xác lâp trên cơ sở sự kiện sử dụng chứ không
phải sự kiện đăng ký tên thương mại; trong một vụ việc được xem xét tại tòa
thượng thẩm sự kiện bắt đầu sử dụng tên thương mại được xem như tình tiết là cơ
sở cho việc từ chối một người khác đăng ký nhãn hiệu hàng hóa trùng với tên
thương mại đã được sử dụng trên, mặc dù tên thương mại đó chưa được đăng ký.
Theo pháp luật Tây Ban Nha, nếu tên thương mại là tên của chủ công ty thì quyền
đối với tên thương mại xuất hiện không phụ thuộc vào việc đăng ký, còn nếu tên
thương mại là tên hư cấu thì quyền đối với tên thương mại đó chỉ được công nhận
sau khi nó đã được đăng ký.
Một đặc trưng quan trọng của chế độ pháp lý đối với tên thương mại của các
quốc gia trên thế giới là, quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có
những hạn chế nhất định về mặt đối tượng và không gian. Ở điểm này dường
như chế độ pháp lý đối với tên thương mại có những nét tương đồng với một số đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp khác như sáng chế, nhãn hiệu. Tuy nhiên, sự hạn
23



chế về đối tượng và không gian của quyền đối với tên thương mại được xem xét cụ
thể như sau:
Tại Pháp, trong một tranh chấp về tên thương mại “OPEC” giữa một công ty sản
xuất và tiêu thụ giấy và các sản phẩm về giấy với một công ty khác hoạt động trong
lĩnh vực in và phát hành sách. Công ty thứ nhất bị công ty thứ hai kiện với lý do đã
sử dụng tên thương mại “OPEC” trùng với những chữ cái đầu tiên trong tên đầy đủ
của công ty thứ hai. Tòa án nhân dân thành phố Mác Xây đã từ chối công nhận đơn
kiện nói trên với lý do: Thứ nhất, đối tượng bảo hộ ở đây phải là tên đầy đủ của
công ty chứ không phải là những thành phần của nó; thứ hai, phạm vi hoạt động
của bị đơn và nguyên đơn là khác nhau, do đó không thể nói đến vi phạm quyền đối
với tên thương mại trong trường hợp này.
Ranh giới về lãnh thổ: Quyền đối với tên thương mại chỉ có hiệu lực trong một
phạm vi không gian nhất định nơi tên thương mại được đăng ký. Tuy nhiên, theo
pháp luật tại một loạt các nước bảo hộ tên thương mại trên cơ sở sự kiện sử dụng
tên thương mại, thì tên thương mại được bảo hộ trên toàn bộ lãnh thổ từng nước
đó không phụ thuộc vào mức độ được biết đến của nó tại các vùng lãnh thổ khác
nhau trong nước. Như vậy, tùy thuộc vào pháp luật của các nước, tên thương mại
có thể được bảo hộ trên toàn bộ lãnh thổ hoặc chỉ trong một phạm vi vùng nhất
định của một quốc gia, nơi mà tên thương mại được đăng ký và trở nên phổ biến
đối với mọi người. Những điều kiện bảo hộ tên thương mại của công dân nước sở
tại cũng được áp dụng với tên thương mại của nước ngoài (trừ điều kiện về đăng
ký). Nếu tại nước sở tại, tên thương mại nội địa được bảo hộ trên cơ sở nó đã được
biết đến trên toàn bộ lãnh thổ hoặc một vùng lãnh thổ nhất định thì tên thương mại
nước ngoài cũng chỉ được bảo hộ nếu như nó đã có danh tiếng tại nước đó. Ngược
lại, nếu như tại nước sở tại điều kiện tên thương mại đã được biết đến không phải
là một trong các tiêu chí bảo hộ thì tên thương mại nước ngoài sẽ được bảo hộ
không phụ thuộc vào mức độ được biết đến của nó tại nước này. Do đó, có thể tồn
tại những trường hợp nghịch cảnh khi tại nước xuất xứ tên thương mại chỉ được

bảo hộ trên một phần lãnh thổ (nơi nó đã được biết đến), nhưng tại một nước khác,
nơi không đưa ra điều kiện bảo hộ tên thương mại phải được biết đến, thì cũng tên
thương mại đó lại được bảo hộ trên toàn lãnh thổ (mặc dù nó chưa được biết đến
tại nước này).
Bên cạnh đó, nếu như pháp luật thường dành sự bảo hộ cao hơn đối với nhãn
hiệu nổi tiếng thì trong khoa học pháp lý không tồn tại khái niệm tên thương mại

24


nổi tiếng và chế độ bảo hộ cao hơn đối với những tên thương mại được biết đến
một cách rộng rãi, có uy tín hơn cũng không tồn tại.

25


×