Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

NỘI DUNG của GIAO DỊCH về cầm đồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.51 KB, 65 trang )

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG TRONG
QUÁ TRÌNH GIAO DỊCH VỀ CẦM ĐỒ .
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự .
Trong thực tế đời sống hiện nay , giao dịch dân sự chiếm phần
lớn đời sống hàng ngày của con người . Nhận thức được vai trò to lớn
đó , nên trong bộ luật dân sự 1995 ( BLDS1995) được Quốc hội nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX – kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 28 tháng 10 năm 2005 đã dành hẳn một chương để quy định
về “giao dịch dân sự ” ( Chương V phần chung ) .Đây cũng là lần đầu
tiên giao dịch dân sự được quy định trong hệ thống văn bản pháp luật
về dân sự và khá đầy đủ chặt chẽ . Đến Bộ luật dân sự 2005
( BLDS2005 ) được Quốc Hội khoá XI – kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14 tháng 6 năm 2005 tiếp tục kế thừa và hoàn thiện chế định về giao
dịch dân sự trong BLDS 1995 tại chương VI . Vậy như thế nào là giao
dịch dân sự ?
Để hiểu được khái niệm về giao dịch dân sự việc trước tiên
chúng ta phải đi tìm hiểu khái niệm “giao dịch ”.Giao dịch theo từ
điển Tiếng Việt được hiểu là : “ Có quan hệ gặp gỡ , tiếp xúc nhau”.
[ 5, trang 392] .Theo khái niệm này giao dịch chính là có quan hệ gặp
gỡ , tiếp xúc , sự gặp gỡ này có thể với một người hoặc nhiều người ,
trong quan hệ gặp gỡ có thể là xuất phát từ mong muốn của hai bên
chủ thể hoặc cũng có thể chỉ là mong muốn từ một phía . Từ khái
niệm này chúng ta có thể hiểu một cách sơ lược về giao dịch dân sự “
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


là các bên chủ thể có quan hệ gặp gỡ , tiếp xúc với nhau trong lĩnh vực
dân sự ” . Trong BLDS 1995 lần đầu tiên khái niệm pháp lí về giao


dịch dân sự được đưa ra : “ Giao dịch dân sự là hành vi pháp lí đơn
phương hoặc hợp đồng của cá nhân , pháp nhân và của chủ thể khác
nhằm làm phát sinh , thay đổi hoặc chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự
” [7, Đ 130] . Đến BLDS 2005 giao dịch dân sự một lần nữa lại được
định nghĩa tại điều 121 : “ Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lí đơn phương làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa
vụ dân sự ” . So sánh hai khái niệm về giao dịch dân sự tại điều 130
( BLDS 1995 )và điều 121 (BLDS 2005) ta thấy trong BLDS 2005 có
chút thay đổi so với BLDS 1995 , đó là việc các nhà làm luật đã bỏ đi
cụm từ quy định về chủ thể “ của cá nhân , pháp nhân và các chủ thể
khác”.
Đây là điểm tiến bộ của BLDS 2005 so với BLDS 1995, bởi việc
liệt kê các chủ thể trong khái niệm giao dịch dân sự là không cần thiết
mà lại không chính xác , trong mối quan hệ giao dịch dân sự , tuỳ vào
từng loại quan hệ thì có yêu cầu về điều kiện chủ thể riêng phù hợp
với tính chất của quan hệ đó . Tại điều 121 (BLDS 2005 )còn có sự
thay đổi về vị trí của hai cụm từ “hợp đồng ” và “hành vi pháp lý đơn
phương ” : “ là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương ” . Theo tôi
đây chỉ là sự hoán đổi vị trí đơn thuần chứ không mang lại ý nghĩa gì
mới trong khái niệm giao dịch dân sự . Mặc dù có sự thay đổi ít nhiều
giữa hai bộ luật , nhưng nhìn chung vẫn có sự thống nhất trong việc
định nghĩa về giao dịch dân sự . Cả hai đều xem giao dịch dân sự là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương , và “ hậu quả của việc xác
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


lập giao dịch dân sự là làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền ,
nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự ” [ 1, trang

137] . Như vậy giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí ( hành vi pháp
lí đơn phương hoặc đa phương –một bên hoặc nhiều bên ) làm phát
sinh hậu quả pháp lí .Nó (giao dịch dân sự ) là hành vi có ý thức của
chủ thể nhằm đạt được những mục đích nhất định, nên giao dịch dân
sự luôn là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch với
những mục đích và động cơ nhất định .
Giao dịch dân sự là hợp đồng . Theo điều 388 BLDS 2005 : “
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập , thay đổi hoặc
chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự ” .Như vậy hợp đồng dân sự chính
là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều bên nhằm làm
phát sinh , thay đổi hoặc chấm dứt quyền ,nghĩa vụ dân sự . Hợp đồng
dân sự được coi là loại giao dịch phổ biến nhất trong đời sống hàng
ngày , bởi hầu hết các quan hệ mang tính chất dân sự như vay, mượn,
mua , bán, trao đổi , tặng cho …đều được xác lập trên cơ sở hợp
đồng .
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lí đơn phương . “ Hành vi
pháp lí đơn phương là loại giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một
bên nhằm làm phát sinh , thay đổi , chấm dứt quyền ,nghĩa vụ dân sự ”
[ 1, trang 141] . Khác với hợp đồng dân sự là sự thể hiện ý chí của hai
hay nhiều bên , hành vi pháp lí đơn phương chỉ là sự thể hiện ý chí
của một bên chủ thể .Một bên chủ thể này có thể là một chủ thể duy
nhất , hoặc cũng có thể là nhiều chủ cùng thể hiện ý chí . So với hợp

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


đồng thì hành vi pháp lí đơn phương là loại giao dịch dân sự ít gặp
hơn trong cuộc sống hàng ngày.

Giao dịch dân sự chỉ có thể là hợp đồng hoặc có thể là hành vi
pháp lí đơn phương chứ không thể đồng thời là cả hai .Nó được coi là
căn cứ phổ biến thông dụng nhất trong số các căn cứ làm phát sinh
thay đổi , hoặc chấm dứt quyền,nghĩa vụ dân sự , là phương tiện pháp
lí quan trọng nhất trong giao lưu dân sự . Tuy nhiên không phẩi tất cả
các giao dịch dân sự đều được pháp luật thừa nhận , giao dịch chỉ
được coi là hợp pháp khi nó dưới hình thức hợp đồng hoặc hành vi
pháp lí đơn phương của chủ thể . thoả mãn được tất cả những quy định
của pháp luật để một giao dịch dân sự có hiệu lực .
Tại điều 122 BLDS 2005 qui định :
‘‘ Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây :
• Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự ;
• Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm
của pháp luật , không trái với đạo đức xã hội ;
• Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện ’’
1.1.2. Khái niệm giao dịch về cầm đồ .
Để hiểu rõ khái niệm giao dịch về cầm đồ trước hết ta phải hiểu
được như thế nào là giao dịch ? như thế nào là cầm đồ ? Giao dịch như
đã nêu ở phần trên là : “có quan hệ gặp gỡ , tiếp xúc với nhau ” . Dù
cho ở bất cứ thời đại nào, con người muốn phát triển được phải có sụ
giao lưu , gặp gỡ , tiếp xúc với nhau. Giao dịch chính là cầu nối để
mọi người xích lại gần nhau hơn , có cơ hội thể hiện ý chí mong muốn
của mình để rồi từ đó thoả mãn cho mình một cách tốt nhất những lợi
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


ích về vật chất cũng như về tinh thần . Giao dịch đó có thể được thể
hiện.

Cầm đồ theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “ cầm đồ đạc để
vay tiền ” . Theo khái niệm này đối tượng của cầm đồ chính là “ đồ
đạc ” và nghĩa vụ chính được bảo đảm là nghĩa vụ trả tiền vay trong
quan hệ vay tài sản ( cụ thể là vay tiền ) . Một quan điểm nữa về cầm
đồ : được định nghĩa như sau : “ Là một hình thức cầm cố để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng cho vay. Các chủ thể sử
dụng hình thức cầm đồ như một hoạt động dịch vụ, theo đó người bán
có quyền chuộc lại vật đã bán trong một khoảng thời gian xác định .
Hết thời hạn chuộc lại như đã thoả thuận , mà bên cầm đồ không trả
tiền để nhận lại tài sản thì chủ hiệu cầm đồ đương nhiên trở thành chủ
sở hữu của vật đó . Giá chuộc lại do các bên thoả thuận khi bán và
tăng theo tỉ lệ với thời gian chuộc lại kể từ thời điểm bán . Trong thời
hạn chuộc lại tài sản thuộc sở hữu của người bán , người mua không
được dịch chuyển và sử dụng tài sản đó .”[ 3,tr ] Theo như khái niệm
này thì vật đem ra để cầm cố đảm bảo thực hiện nghĩa vụ được coi là
đã bán cho bên nhận cầm đồ , và người cầm đồ được giữ lại cho mình
quyền ưu tiên mua lại tài sản đó theo giá thoả thuận . Khi hết thời hạn
mà hai bên đã giao kèo . Tài sản đã được bán đi có nghĩa là bên bán
không còn quyền sở hữu đối với vật , thế nhưng ở giai đoạn cuối khái
niệm lại khẳng định : Trong thời hạn chuộc lại tài sản thuộc sở hữu
của bên bán . Đây là một điểm bất hợp lý , tài sản khi đã bán đi phải
thuộc quyền sở hữu của bên mua , điều kiện ưu tiên mua lại trong một
khoảng thời gian xác định chỉ làm hạn chế quyền sở hữu của người
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


mua mà thôi. Những biểu hiện bên của cầm đồ giống như là bán tài
sản có kèm theo điều kiện chuộc lại , nhưng thực chất không phải như

vậy , việc cầm đồ ở đây là việc khách đem hàng hoá , tài sản thuộc sở
hữu của mình cầm cố cho bên nhận cầm đồ để bảo đảm cho nghĩa vụ
trả nợ tiền vay của mình. Vì vậy khái niệm trên xem cầm đồ như một
quan hệ mua bán là chưa hợp lý , điều đó trái với bản chất của cầm
đồ . Trong thông tư số 13/1999/TT-BTM của Bộ Thương Mại hướng
dẫn về kinh doanh dịch vụ cầm đồ cũng đã đưa ra khái niệm : “ Kinh
doanh dịch vụ cầm đồ là việc thương nhân cho khách hàng vay tiền và
nhận giữ hàng hoá , tài sản của khách hàng để đảm bảo cho việc thực
hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng cầm đồ”. ở khái niệm này cầm đồ
được nhìn nhận là một loại hình kinh doanh , các Thương nhân đứng
ra làm dịch vụ cho vay có bảo đảm bằng hàng hoá , tài sản của khách
hàng ( người đi vay ) . Quan hệ về cầm đồ được các bên xác lập dưới
hình thức hợp đồng . Hiện nay , cầm đồ đang được hiểu theo khái
niệm này .
Hai khái niệm “giao dịch ” và “ cầm đồ ” khi đứng độc lập sẽ
được hiểu như phân tích ở trên, vậy khi ghép chúng lại với nhau “ giao
dịch về cầm đồ ” sẽ được hiểu như thế nào ? Giao dịch là sự gặp gỡ ,
tiếp xúc giữa các chủ thể với nhau , còn cầm đồ là việc Thương nhân
cho khách hàng vay tiền có đảm bảo bằng tài sản , hàng hoá thuộc sở
hữu của họ ( khách hàng ) . Từ đó dẫn tới ta có thể hiểu giao dịch về
cầm đồ là sự gặp gỡ giữa các chủ thể , và kết quả của cuộc gặp gỡ là
một hợp đồng được thiết lập , theo đó bên nhận cầm đồ sẽ cho khách
hàng vay một khoản tiền và khách hàng sẽ chuyển giao cho bên nhận
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


cầm đồ hàng hoá hoặc tài sản thuộc sở hữu của mình , để đảm bảo sẽ
hoàn trả số tiền vay và thực hiện một số nghĩa vụ khác đã thoả thuận

trong hợp đồng đối với bên nhận cầm đồ . Qua phân tích trên tôi xin
đưa ra một khái niệm khái quát về “ giao dịch về cầm đồ ” như sau :
“Giao dịch về cầm đồ là hợp đồng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cầm đồ ”.
Giao dịch về cầm đồ là một loại giao dịch dân sự mà hình thức
biểu hiện của nó là hợp đồng , vì vậy để được pháp luật thừa nhân
giao dịch về cầm đồ cũng phải đám ứng được những điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự nói chung .
1.2. Mối quan hệ giữa vay , cầm cố và cầm đồ .
1.2.1. Mối quan hệ giữa cầm đồ với cầm cố .
Cầm cố là biện pháp bảo đảm được quy định khá sớm trong lịch
sử pháp luật Việt Nam .Ngay trong văn bản pháp luật thành văn đầu
tiên “ Hình Thư ” dưới thời vua Lý Thánh Tông biện pháp cầm cố đã
được đề cập tới . Cầm cố theo nghĩa thông thường được hiểu là : “
giao bất động sản cho người khác giữ làm tin để vay tiền ” [ 5, trang
121] . Như vậy theo cách hiểu của khái niệm này thì đối tượng của
cầm cố gồm các tài sản là bất động sản , còn nghĩa vụ mà nó bảo đảm
là nghĩa vụ trả nợ tiền vay . Cầm cố theo BLDS2005 được hiểu là : “
Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là cầm cố ) giao tài sản
thuộc sở hữu của mình cho bên kia ( sau đây gọi là bên nhận cầm đồ )
để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự ”. [8, Điều 326] Đây là khái
niệm được nhìn nhận dưới góc độ là một quan hệ pháp lí , so với khái
niệm trên nội hàm của khái niệm này mở rộng hơn rất nhiều , đối
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


tượng của nó không chỉ là bất động sản mà còn bao gồm cả động sản ,
về nghĩa vụ là nghĩa vụ trong quan hệ dân sự nói chung (bao gồm cả

nghĩa vụ trả nợ tiền vay ). Hiện nay khái niệm này được coi là đầy đủ ,
tiến bộ nhất về cầm đồ.
Giữa cầm cố và cầm đồ có mối quan hệ rất chặt chẽ . Cầm đồ
một hình thức đặc biệt của cầm cố . Cơ sở pháp lý của mối quan hệ
được thể hiện tại điều 341 BLDS2005 : “Việc cầm cố tài sản tại cửa
hàng cầm đồ được thực hiện theo quy định tại các điều từ 326 đến
điều 340 của bộ luật này và các văn bản pháp luật khác về hoạt động
của cửa hàng cầm đồ ” . Các quy định từ điều 326 đến điều 340 mà
điều luật nói tới là quy định của pháp luật về cầm cố tài sản . Ngoài ra
trong khái niệm về cầm đồ được đề cập trong cuốn sách ‘ Những vấn
đề cơ bản và thuật ngữ của bộ luật dân sự’do Nguyễn Thùy Dương
biên soạn cũng khẳng định : “ Cầm đồ là một hình thức cầm cố để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng cho vay . Các chủ thể
sử dụng hình thức cầm đồ như một hoạt động dịch vụ…". Qua khái
niệm này cùng quy định tại điều 341, ta có thể khẳng định cầm đồ là
một hình thức của cầm cố. Việc khách hàng đem tài sản thuộc sở hữu
của mình cầm cố tại khác cửa hàng cầm đồ để vay tiền thì được gọi
dưới một tên khác là cầm đồ mà thôi. Do cầm đồ chỉ là một hình thức
của cầm cố nói chung nên nội hàm của cầm đồ hẹp hơn cầm cố rất
nhiều. Đối tượng của cầm đồ chỉ bao gồm những hàng hóa tài sản là
bất động sản có giá trị mua bán trao đổi, nghĩa vụ mà nó bảo đảm chỉ
là nghĩa vụ trả tiền vay trong quan hệ vay tài sản (vay tiền). Không
gian diễn ra giao dịch về cầm đồ cũng rất đặc thù chỉ có cầm cố tài sản
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


tại các cửa hiệu cầm đồ đảm bảo cho nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng
vay mới được xem là cầm đồ. Cầm đồ còn được nhìn nhận là một loại

hình kinh doanh dịch vụ nên các chủ thể khi tham gia vào quan hệ này
cũng phải chịu những điều kiện chặt chẽ hơn. Chính những nét đặc thù
riêng vừa phân tích trên nên giao dịch về cầm đồ không chỉ được điều
chỉnh bởi quy định của pháp luật về cầm cố nói chung mà còn chịu sự
điều chỉnh của các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Mối quan hệ giữa cầm cố với cầm đồ, cũng như những nét đặc
thù riêng của nó sẽ được phân tích làm rõ hơn trong quá trình tìm hiểu
về nội dung của giao dịch về cầm đồ ở phần chương 2 của khoá luận.
1.2.2. Mối quan hệ giữa vay với cầm đồ.
Để làm rõ được mối quan hệ giữa vay và cầm đồ, trước tiên ta
phải hiểu được như thế nào là vay? vay theo nghĩa thông thường được
hiểu là: "Nhận tiền hay vật của người khác để sử dụng với điều kiện sẽ
trả lãi bằng cái cùng loại ít nhất có số lượng hoặc giá trị tương
đương". [5.tr 1099]. Vay là một quan hệ quan trọng, phổ biến trong
lĩnh vực dân sự. Nó giúp bên vay giải quyết được những khó khăn về
kinh tế trước mắt cũng như lâu dài. Để quan hệ này (vay) diễn ra một
cách hợp pháp, bảo vệ tốt lợi ích của các bên (bên cho vay và bên vay)
BLDS 2005 đã dành riêng một mục (mục 4) trong phần hợp đồng dân
sự thông dụng để quy định về hợp đồng vay tài sản. Tạo hành lang
pháp lý an toàn cho các chủ thể trong quan hệ này. Vay là một loại
giao dịch dân sự được biểu hiện dưới hình thức "Hợp đồng vay tài
sản". "Hợp đồng vay tài sản là một sự thoả thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn, bên vay phải hoàn
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng chất lượng và
chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định". Hiện

nay người đi vay có thể thiết lập quan hệ này ở rất nhiều nơi, có thể
theo quan hệ vay truyền thống là vay của nhau giữa những người dân
(ít không phổ biến ) hoặc có thể vay ở các tổ chức tín dụng. Vay vốn
tại các tổ chức tín dụng hiện đang chiếm ưu thế rất lớn, nhưng do yêu
cầu về mặt thủ tục rất phức tạp, thời gian kéo dài nên chỉ phù hợp với
việc vay những khối lượng tài sản lớn, còn những với khoản vay nhỏ,
yêu cầu về vốn gấp rút sẽ rất khó khăn. Để giải quyết sự hạn chế của
hai loại quan hệ vay trên Nhà nước đã cho phát triển một loại hình
dịch vụ mới, dịch vụ cho vay có bảo đảm tại các cửa hiệu cầm đồ và
được gọi tắt là "cầm đồ". Cầm đồ: là việc thương nhân cho khách
hàng vay tiền và nhận giữ hàng hóa hoặc tài sản của khách hàng để
đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng cầm đồ [15. khoản 1
mục I]. Vay tại các cửa hiệu cầm đồ hiện nay đang rất phát triển bởi
thủ tục nhanh gọn, đáp ứng được nhu cầu cấp bách về vốn. Thủ tục
vay có thể khái quát thành 4 bước như sau: bước 1 khách hàng đem tài
sản đến hiệu cầm đồ xin vay; bước 2 hai bên xem xét tài sản và các
giấy tờ kèm theo; bước 3 thoả thuận quyết định mức vay; bước cuối
cùng là làm giấy vay (hợp đồng) theo mẫu riêng của hiệu cầm đồ.
Tổng thời gian kéo dài khoảng 30 phút là có thể lập xong một hợp
đồng cầm đồ và khách hàng sẽ có được khoản vay của mình. Qua khái
niệm trên ta thấy trong quan hệ giao dịch về cầm đồ ẩn chứa hai loại
quan hệ là quan hệ vay tài sản (vay tiền) và quan hệ bảo đảm (cầm cố
tài sản). Hai quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, quan hệ
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


bảo đảm (giao hàng hóa tài sản cho bên cho vay) là điều kiện tiên
quyết để quan hệ vay được diễn ra, ngược lại quan hệ có được xác lập

thì quan hệ bảo đảm cũng mới được xác lập. Sở dĩ có mối quan hệ bền
chặt này vì khi cho vay bên cho vay sẽ nhận về mình quyền đòi nợ
trong tương lai, còn người vay sẽ có nghĩa vụ trả nợ. Việc quyền lợi
của chủ nợ có được bảo đảm hay không phụ thuộc rất lớn vào hành
động của con nợ. Chính điều này đã đẩy chủ nợ từ thế chủ động (của
người có quyền) thành thế bị động. Quyền lợi của chủ nợ sẽ trở nên
rất mong manh và có thể sẽ không được đáp ứng nếu con nợ cố tình
không trả. Để bảo vệ lợi ích của mình chủ nợ có thể khởi kiện ra toà
nhưng việc làm này rất tồn thời gian và vật chất nhiều lúc còn không
đem lại hiệu quả (đó là trường hợp con nợ không còn gì để trả). Chính
vì lẽ đó việc thiết lập quan hệ bảo đảm song song với quan hệ vay là
một biện pháp bảo đảm an toàn nhất để bảo đảm quyền lợi của chủ nợ.
Đồng thời biện pháp bảo đảm cũng mở ra cơ họi rất lớn cho những
người có nhu cầu vay tiền có thể được vay một khoản tiền rất nhanh
chóng giải quyết được những nhu cầu cần thiết trước mắt.
Tóm lại cầm đồ chính là một hình thức cho vay có bảo đảm bằng
hàng hoá, tài sản của bên vay để đảm bảo cho việc thực hiện các nghĩa
vụ trong hợp đồng cầm đồ (chủ yếu là nghĩa vụ trả nợ tiền vay và lãi
suất cầm đồ). Mối quan hệ giữa vay và cầm đồ sẽ tiếp tục được phân
tích và làm rõ trong những phần sau.
1.3. Khái lược một số nét về quá trình phát triển của giao
dịch về cầm đồ trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


Cầm đồ là một hình thức đặc biệt của cầm cố. Vậy muốn tìm
hiểu về lịch sử của cầm đồ thì chúng ta phải lần theo những bước phát

triển của chế định cầm cố. Cầm cố lần đầu tiên được nhắc đến vào
thời Lý, năm 1042 vua Lý Thái Tông đã ban hành bộ luật thành văn
đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam đó là bộ luật với tên gọi
"Hình thư" và trong bộ luật này đã đề cập tới cầm cố. Tuy là bộ luật
hình nhưng "Hình thư" đã đưa ra quan điểm về sở hữu và đây là lần
đầu tiên nhà Lý công khai thừa nhận quyền sở hữu của người dân
trong đó quyền sở hữu ruộng đất là cơ bản nhất bởi vào thời kỳ này
ruộng đất là tài sản có giá trị rất lớn và con người sống chủ yếu dựa
vào sản phẩm làm ra từ đất. Quyền sở hữu ruộng đất được thừa nhận
khi pháp luật quy định ruộng đất có thể được đem ra mua bán, ruộng
đất cũng có thể được cầm cố. Như vậy đối tượng của cầm cố trong
thời kỳ này chỉ là ruộng đất (bất động sản). Hết thời Lý đến đời Trần,
Lê các quy định về cầm cố vẫn không có gì thay đổi. Nhưng đến thời
Nguyễn với sự ra đời của bộ luật Gia Long, quy định về cầm cố có
nhiều điểm tiến bộ, đối tượng đem cầm cố được mở rộng không chỉ có
đất đai mà còn bao gồm mà còn bao gồm cả những tài sản thông
thường. Sự phát triển về các quy định cầm cố trong thời kỳ này cũng
là một điều dễ hiểu bởi đời sống kinh tế của người dân khá phát triển,
giao lưu dân sự được mở rộng do vậy hình thành nhu cầu cầm cố cả
những tài sản khác ngoài ruộng đất để vay tiền. Quy định này đã tạo
điều kiện cho những người có nhu cầu vay vốn để sản xuất có thể vay
vốn mà vẫn còn lại ruộng đất của mình để cày cấy đảm bảo nguồn
sống và thu nhập. Với việc quy định mở rộng đối tượng của cầm cố
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


trong bộ luật Gia Long đã làm xuất hiện hình ảnh cầm đồ trong cầm
cố, bởi cầm đồ theo cách hiểu thông thường nhất là việc "cầm đồ đạc

để vay tiền" (5, tr128).
1.3.2. Pháp luật thời kỳ cận đại
Bước vào thời kỳ cận đại, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng rất
nhiều bởi tư tưởng pháp luật của Pháp. Đây là hậu quả của một thời
gian dài bị thực dân Pháp đô hộ, nhưng cũng nhờ đó mà dân luật nước
ta mới có điều kiện phát triển bởi dân luật Pháp nổi tiếng là tiến bộ và
mang tính dự liệu cao. Sản phẩm luật pháp của thời kỳ này chính là
hai bộ dân luật đầu tiên khá đồ sộ bộ luật dân sự Trung kỳ và bộ luật
dân sự Bắc kỳ.
Trong thời kỳ này hai chữ cầm đồ lần đầu tiên được nhắc đến
trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Bộ luật dân xự Trung kỳ hay còn
gọi là Hoàng Việt Hộ Luật có đề cập đến biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự nhưng chưa có sự cách biệt rõ ràng giữa cầm cố và
thế chấp mà coi việc thế chấp là có hai cách. Cách thứ nhất là cầm đồ,
cách hai là thế chấp bất động sản. Chương XII tiết II mục 1 của Hoàng
Việt Hộ Luật quy định về biện pháp cầm đồ được coi là tương tự mô
hình của cầm cố tài sản hiện nay. Điều 1512 đưa ra khái niệm: "Cầm
động sản là một khế ước thuộc về vật quyền do người mắc nợ hoặc
một người đệ tam nào đó giao một vật động
sản cho người chủ nợ hoặc một người đệ tam nào khác mà hai bên
chọn để đảm bảo món nợ. Khế ước đó làm cho chủ nợ không được
quyền bán vật ấy để trừ nợ mà được quyền ưu tiên đối với các chủ nợ
khác". Bộ luật dân sự Trung kỳ còn quy định cụ thể thời điểm có hiệu
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


lực của khế ước cầm đồ, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên là
"khi nào vật cần đã giao cho người chủ nợ giữ lấy hay giao cho người

đệ tam mà hai bên đã chọn thời khế ước mới thành và mới cho chủ nợ
quyền ưu tiên [Hoàng Việt Hộ Luật, điều 1513]. Điều này chứng tỏ
các nhà làm luật đã coi hợp đồng cầm đố là hợp đồng thực tế và phải
có sự chuyển giao tài sản giữa chủ nợ và con nợ.
Một điểm tiến bộ của Hoàng Việt Luật là quy định rõ trường hợp
nào khế ước cầm đồ mới có hiệu lực đối kháng với người thứ ba:
"muốn viện ra để tranh nại với người đề tam, thời khế ước cầm đồ
phải làm thành giấy đề rõ ngày tháng và kê rõ số nợ là bao nhiêu cùng
vật cầm là gì, thuộc loại nào từ khi giá vật cầm hay số nợ cầm nhỏ hơn
hai mươi đồng" [Hoàng Việt Hộ Luật, điều 1514]. Quy định này đã
buộc các bên muốn bảo vệ quyền lợi của mình thì phải công khai khế
ước cầm đồ. Chính quy định này đã bảo vệ được quyền của người thứ
ba ngay tình và đảm bảo tính ổn định, an toàn cho các giao dịch dân
sự trong xã hội.
Còn trong BLDS Bắc Kỳ được ban hành vào năm 1931 có ghi
nhận các hình thức bảo đảm tương tự nguyên tắc đại cương của Bộ
luật dân sự nước cộng hòa Pháp nhưng cầm đồ không được đề cập tới
trong bộ luật này.
Như vậy pháp luật về cầm đồ trong thời kỳ này, coi cầm đồ là
một cách của biện pháp thế chấp. Các quy định về cầm đồ được xây
dựng tương tự như mô hình cầm cố hiện nay.
1.3.3. Pháp luật thời kỳ từ năm 1945 cho đến nay

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


Sau khi giành được độc lập dân tộc vào năm 1945, đất nước
chúng ta đã gặp khó khăn rất lớn trong việc xây dựng pháp luật đặc

biệt là thiếu đội ngũ am hiểu pháp luật. Để giải quyết tình thế khó
khăn này Nhà nước đã ban hành sắc lệnh số 90/SL ngày 10 tháng 10
năm 1945 về việc tạm sử dụng lại một số luật lệ cũ về dân sự, kinh tế,
hôn nhân gia đình đang sử dụng, ở ba miền Bắc - Trung - Nam phù
hợp với sắc lệnh này. Như vậy bộ luật gia yếu Nam kỳ, Bộ luật dân
Bắc kỳ 1931 là bộ luật Trung kỳ 1936 vẫn còn có hiệu lực sau ngày
thành lập chính quyền. Tuy nhiên việc áp dụng các luật lệ này có sự
chọn lọc với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập chủ quyền và
chính thể dân chủ cộng hòa. Cho đến năm 1959 Tòa án Nhân dân Tối
cao mới ra chỉ thị số 772/CT-TANDTC về việc đình chỉ áp dụng luật
lệ của đế quốc phong kiến. Như vậy từ 1945 đến 1959 các qui định về
cầm đồ không có gì thay đổi.
Đến đầu những năm 60 Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Nội dung chủ yếu của các
văn bản này nhằm xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thực hiện
chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công hữu hóa về tư liệu
sản xuất….
Trong những năm của thập niên 70 đất nước ta chìm trong cuộc
kháng chiến chống đề quốc Mỹ trường kỳ, gian khổ. Khiến cho nền
kinh tế xã hội gặp rất nhiều khó khăn. Miền Bắc tập trung sản xuất hỗ
trợ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, đồng thời thực hiện
cải cách xã hội chủ nghĩa nên chúng ta không có điều kiện để phát
triển kinh tế xã hội dẫn tới pháp luật thời kỳ này kém phát triển, các
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


văn bản pháp luật ban hành chủ yếu nhằm chống đói nghèo và nhằm
giúp huy động nhân lực vật lực cho cuộc kháng chiến ở miền Nam.

Vào năm 1972 ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Việt Nam
cộng hòa đã tạo một bước tiến mới trong phát triển dân luật ở nước ta,
đó là đã xây dựng thành công bộ dân luật Sài Gòn 1973. Bộ luật này
qui định khác chi tiết và đầy đủ về các biện pháp bảo đảm. Riêng cầm
đồ được quy định từ điều 1340 đến 1361. Cũng giống như trong bộ
luật Trung kỳ cầm đồ được coi như một hình thức của thế chấp mà đối
tượng của nó là động sản. Theo quy định của bộ luật này thì: "cầm đồ
là khế ước do đẩy trái hộ giao cho chủ nợ một động sản để đảm bảo
cho món nợ. Do đó sự đảm bảo này chủ nợ được quyền ưu tiên lấy nợ
trước so với các chủ nợ khác trên đồ vật đã cầm [6, điều 1350 chương
II, tiết i]. Vậy cầm đồ theo quan điểm của chính quyền Việt Nam cộng
hòa là việc con nợ chuyển giao một động sản cho chủ nợ để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ và bộ luật đồng thời cũng ghi nhận trường hợp cầm đồ
bằng tài sản của người thứ ba để đảm bảo trả nợ cho con nợ, luật cũng
cho phép bên thứ ba giữ tài sản thay cho bên chủ nợ. Bộ luật dân sự
Sài Gòn còn qui định rõ động sản được đem ra cầm đồ có thể là động
sản vô hình như là trái quyền, khi cầm trái quyền thì khế ước cầm đồ
phải tổng đạt cho người nợ trái quyền ấy.
Bộ luật dân sự Sài Gòn cũng quy định rất chặt chẽ hình thức của
khế ước cầm đồ đó là: "khế ước cầm đồ phải có văn tự xác nhận mới
có giá trị nếu món nợ có giá trị trên hai cục ngàn đồng. Văn tự phải
ghi rõ số tiền và đồ vật cầm đồ là gì". Do cầm đồ là sự chuyển giao
tạm thời về tài sản trong một khoảng thời gian nhất định nên sự quy
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


định chặt chẽ như vậy nhằm đảm bảo sự an toàn cho các chủ thể trong
mối quan hệ này.

Bộ dân luật Sài Gòn cũng là bộ luật đầu tiên quy định về quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cầm đồ đối với tài sản được
đem ra cầm đồ để đảm bảo sự cân bằng về quyền lợi giữa các bên,
đồng thời tránh tranh chấp xảy ra. Theo đó chủ nợ khi cầm tài sản có
nghĩa vụ chăm nom đồ vật, nếu để xảy ra hỏng hóc, thiệt hại đối với
tài sản thì phải bồi thường thiệt hại, ngược lại thì con nợ có nghĩa vụ
trả những chi phí hợp lí cho việc trông nom bảo quản đồ vật cho chủ
nợ.
Đồng thời Bộ luật này cũng lần đầu tiên quy định về phương
thức xử lí tài sản cầm đồ "chủ nợ không đương nhiên trở thành sở hữu
chủ vật cầm". Nếu không trả được nợ khi đáo hạn chủ nợ phải xin đấu
giá phát mại tài sản ấy, đồ vật ấy hoặc xin tòa cửa giám định viên trị
giá đồ vật mà trừ nợ tới giá ước lượng, nếu đồ vật trị giá cao hơn, chủ
nợ có thể được phép giữ lại đồ vật và trả thêm cho trái hộ số sai biệt.
Quy định về phương thức xử lí rất chặt chẽ, loại trừ được việc các trái
chủ xử lí tài sản một cách tùy tiện xâm hại tới lợi ích của thụ trái. Đây
là một quy định rất tiến bộ mà các quy định sau này về cầm đồ có sự
kế thừa và học tập.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập.
Công việc trước mắt sau một thời gian dài chìm trong chiến tranh, đất
nước bị chia cắt là phải khắc phục hậu quả chiến tranh, xóa dần sự
khác biệt giữa hai miền Nam - Bắc về mọi mặt. Trong giai đoạn này
Nhà nước tập trung xây dựng bản hiến pháp mới làm nền tảng cho
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


việc xây dựng Nhà nước và việc ban hành hệ thống văn bản pháp luật
của nước ta sau này. Các văn bản pháp luật quy định về dân sự ở thời

kỳ đầu này rất ít, còn văn bản quy định về các biện pháp bảo đảm thì
chưa có. Sau này khi đất nước dần đi vào ổn định, hệ thống pháp luật
cũng được hoàn thiện hơn đã có các văn bản pháp luật quy định về các
biện pháp bảo đảm nói chung và cầm cố nói riêng. Các qui định này
luôn được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển của
nền kinh tế xã hội đất nước. Nhưng trong một thời gian dài không có
các qui định của pháp luật về cầm đồ, cho tới năm 1995 trong Nghị
định 02/1995/NĐ - CP ngày 5 tháng 1 năm 1995 qui định về hàng hóa
dịch vụ cấm kinh doanh, thương mại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh
thương mại có điều kiện ở thị trường trong nước, cầm đồ được coi là
một dịch vụ kinh doanh có điều kiện chỉ các doanh nghiệp được phép
kinh doanh. Để thực hiện Nghị định này liên bộ Ngân hàng - Thương
mại đã ban hành Thông tư số 02/1995/TT-LB ngày 3 tháng 10 năm
1995 hướng dẫn kinh doanh dịch vụ cầm đồ. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam cầm đồ được quy
định một cách chính thống và chặt chẽ trong một văn bản pháp luật
riêng. Theo Thông tư số 02 thì "dịch vụ cầm đồ là hình thức cho vay
tiền đòi hỏi người vay phải có tài sản cầm cố bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ của mình ghi trong hợp đồng cầm đồ. Người vay tiền có tài sản
cầm cố gọi là bên cầm đồ; người cho vay tiền nhận tài sản cầm cố gọi
là bên nhận cầm đồ" [10. khoản 1 Mục I]. Ngoài ra thông tư còn quy
định cụ thể về tài sản cầm cố, điều kiện để được kinh doanh dịch vụ
cầm đồ, các bên (bên cầm đồ và bên nhận cầm đồ), mức tiền vay, lãi
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


suất, hợp đồng cầm đồ và trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên. Tiếp đến
là BLDS 1995 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa IX - kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995
cùng quy định về cầm đồ: "Việc cầm cố tài sản tại cửa hàng cầm đồ
được thực hiện theo qui định tại các điều từ điều 329 đến điều 344 của
bộ luật này và các văn bản pháp luật khác về hoạt động của cửa hàng
cầm đồ" [7, điều 345]. Như vậy các quy định của pháp luật về cầm cố
cũng được áp dụng cho hoạt động cầm đồ. Thông tư số 02/1995/TTLB ngày 3 tháng 10 năm 1995 qua một thời gian dài áp dụng đã bộc
lộc nhiều điểm bất cập, không còn phù hợp với thực tế phát triển của
hoạt động cầm đồ. Trước tình hình đó Bộ Thương mại đã ban hành
Thông tư số 13/1999/TT-BTM ngày 19 tháng 5 năm 1995 hướng dẫn
kinh doanh dịch vụ cầm đồ thay thế thông tư liên bộ số 02/1995/TTLB. Cho tới thời điểm này Thông tư số 13/1999/TT-BTM vẫn còn
hiệu lực và tạo hành lang pháp lí vững chắc cho các chủ thể khi tham
gia vào quan hệ này. Bộ luật dân sự 1995 trong thời gian qua đã có
những đóng góp đáng kể trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự,
nay do sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cũng như quá trình hội
nhập của đất nước Bộ luật này đã tỏ ra có nhiều hạn chế và không còn
phù hợp. Để khắc phục điều này, Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI - kỳ họp lần thứ 7 đã thông qua BLDS 2005
ngày 14 tháng 6 năm 2005 thay thế BLDS 1995. Thừa kế BLDS 1995,
BLDS 2005 tại điều 341: "Việc cầm cố tài sản tại cửa hàng cầm đồ
được thực hiện theo quy định tại các điều từ 326 đến điều 340 của bộ
luật này và các văn bản pháp luật khác về hoạt động của cửa hàng cầm
§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


đồ". Như vậy cầm đồ ngoài chịu sự điều chỉnh của thông tư số
13/1999/TT -BTM ngày 19 tháng 5 năm 1999 còn hướng dẫn và kinh
doanh dịch vụ cầm đồ, còn chịu sự điều chỉnh bởi các qui định của
BLDS 2005 phần cầm cố tài sản.


§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CỦA GIAO DỊCH VỀ CẦM ĐỒ
Hiện nay quan hệ giao dịch về cầm đồ được điều chỉnh bởi
thông tư số 13/1999/TT-BTM hướng dẫn về kinh doanh dịch vụ cầm
đồ và BLDS 2005 cùng với các văn bản hướng dẫn bộ luật này. Vậy
các yếu tố của giao dịch về cầm đồ được pháp luật hiện hành quy định
như thế nào? Ta sẽ lần lượt trình bày trong phần nội dung này.
2.1. Điều kiện về chủ thể
Theo khái niệm tại Thông tư số 13/1999/TT-BTM "kinh doanh
dịch vụ cầm đồ là việc thương nhân cho khách hàng vay tiền và nhận
giữ hàng hóa hoặc tài sản của khách hàng để đảm bảo việc thực hiện
các nghĩa vụ trong hợp đồng cầm đồ. Vậy chủ thể của quan hệ cầm đồ
theo như qui định bao gồm bên nhận cầm đồ là thương nhân có tiền
cho vay và nhận giữ hàng hóa hoặc tài sản của khách hàng và lên cầm
đố là khách hàng có nhu cầu vay tiền.
Cầm đồ là một loại của giao dịch dân sự, vì vậy các bên muốn
trở thành chủ thể trong quan hệ cầm đồ trước tiên phải thỏa mãn các
điều kiện về chủ thể của giao dịch dân sự nói chung, đó là phải có
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Theo qui định
của pháp luật hiện hành chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự
bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ chức hợp tác.
Cá nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được hiểu là :"
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự" [8, điều 17]. Tại điểm 11.2 khoản 11, mục II Thông

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


tư 13/1999/TT-BTM đã quy định: "Không được giao dịch cầm đồ với
khách hàng là người không có năng lực hành vi dân sự". Vậy như thế
nào là người có năng lực hành vi? còn như thế nào là người không có
năng lực hành vi? Cá nhân từ đủ mười tám tuổi không bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự thì được coi là có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Cá nhân đáp ứng đủ điều kiện này thì được phép tham gia giao dịch.
Một trường hợp ngoại "cá nhân là người chưa thành niên từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà
không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ
trường hợp pháp luật có qui định khác". [8, điều 20 khoản 2]. Đây là
trường hợp cá nhân chưa đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhưng do họ
có tài sản riêng để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ nên pháp luật
cho phép họ tham gia vào giao dịch. Tuy nhiên không phải giao dịch
nào họ cũng được phép tham gia, chẳng hạn như trong quan hệ vay
vốn tại các tổ chức tín dụng chỉ có các cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở
lên không bị mất năng lực hành vi dân sự mới được tham gia, còn đối
với giao dịch cầm đồ họ vẫn có thể tham gia với tư cách là bên cầm
đồ. Ngoài hai trường hợp đã được nêu trên thì không trường hợp nào
được phép tham gia vào giao dịch dân sự nói chung và cầm đồ nói
riêng mà không có sự đồng ý của người đại diện (tại giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi). Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân: "là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người
đó sinh ra và chấm dứt, khi người đó chết đi, mọi cá nhân đều ngang

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


bằng nhau về năng lực pháp luật dân sự vì vậy đây là yếu tố không
cần quan tâm nhiều khi xác lập giao dịch.
Một chủ thể quan trọng nữa thường tham gia vào quan hệ pháp
luật dân sự là pháp nhân, pháp nhân theo quy định của pháp luật là:
"Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều
kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách
độc lập [8, điều 84].
Pháp nhân cũng là một chủ thể trong quan hệ cầm đồ, trong quan
hệ này pháp nhân thường đóng vai trò là bên nhận cầm đồ, thực hiện
hoạt động cầm đồ như một hoạt động kinh doanh chính hoặc kiêm
doanh. Còn pháp nhân với vai trò là bên cầm đồ vay vốn tại các cửa
hiệu cầm đồ là rất ít bởi các cửa hiệu cầm đồ ở nước ta hầu như hoạt
động nhỏ lẻ nguồn vốn eo hẹp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn
của pháp nhân, hơn nữa hiện nay người dân vẫn chưa có cái nhìn đúng
đắn về loại hình kinh doanh này nên rất e dè khi xác lập giao dịch.
Pháp nhân xác lập giao dịch thông qua người đại diện của mình là cá
nhân, nên khi tham gia vào giao dịch người đại diện của họ cũng phải
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự.
Ngoài hai chủ thể trên tổ hợp tác, hộ gia đình cũng là chủ thể của
giao dịch dân sự nói chung và giao dịch cầm đồ nói riêng. Hiện nay

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


Nhà nước đang có chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình và phát
huy vai trò của các hợp tác xã. Theo quy định của pháp luật thì:
"Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp
công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm,ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật
quy định" [8, điều 105].
"Tổ chức hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác
của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên,
cùng đóng góp tài sản công sức để thực hiện những công việc nhất
định cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các
quan hệ dân sự" [8, điều 111].
Tổ chức hợp tác hộ gia đình khi tiến hành hoạt động kinh doanh,
hay thực hiện một công việc nhất định nào đó, nếu thiếu vốn ngoài
việc vay vốn tại các tổ chức tín dụng, thì cũng có thể đem tài sản của
chính mình đem cầm cố tại các cửa hiệu cầm đồ để vay vốn và họ
đương nhiên trở thành chủ thể của quan hệ này. Và người đại diện của
họ khi xác lập giao dịch cũng phải có đầy đủ năng lực hành vi và năng
lực pháp luật dân sự.
Bên cạnh việc phải đáp ứng các điều kiện chung khi tham gia
vào quan hệ giao dịch dân sự thông thường thì các chủ thể nói trên
muốn trở thành chủ thể của quan hệ cầm đồ còn phải đáp ứng một số
điều kiện đặc thù của quan hệ này.
Thứ nhất về phía bên nhận cầm đồ họ phải là "thương nhân có
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong đó nội dung có ghi kinh
doanh dịch vụ cầm đồ [15, khoản 1 mục II]. Thương nhân theo khoản

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


1 điều 6 luật thương mại 2005 được định nghĩa như sau: "Thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh". Như vậy thương nhân ở đây cũng có thể là tổ chức kinh tế
gồm: doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Và thương nhân
cũng có thể là cá nhân (không phân biệt là người Việt Nam hay nước
ngoài) hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh. So với qui định của pháp luật cũ (Thông tư liên
bộ số 02/1995/TT-LB hướng dẫn kinh doanh dịch vụ cầm đồ) thì bên
nhận cầm đồ theo quy định của pháp luật hiện hành được mở rộng
thêm rất nhiều bao gồm cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp. Còn trong
Thông tư số 02/1995/TT-LB thì bên nhận cầm đồ chỉ bao gồm: "là
doanh nghiệp được thành lập theo luật định gồm: doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty liên doanh, doanh nghiệp hợp tác xã được cấp giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ cầm đồ theo qui định" [14,
khoản 6, mục I]. Như vậy bên nhận cầm đồ chỉ là những doanh nghiệp
đã được liệt kê trong điều luật. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật hiện
hành so với luật cũ, điều này đã tạo điều kiện cho nhiều chủ thể có thể
tham gia vào giao dịch cầm đồ để thỏa mãn nhu cầu, mục đích của
họ, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Khi
kinh doanh dịch vụ cầm đồ các chủ thể có thể lập doanh nghiệp hoặc

§inh ThÞ Thanh Tó - Líp DS 28D

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


×