Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

phân tích các yêu cầu về nội dung của văn bản pháp luật và lí giải cơ sở của việc đặt ra những yêu cầu đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.14 KB, 15 trang )

Trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày, văn bản pháp luật có vai trò rất to lớn, nó
chính là phương tiện chủ yếu, có tác động trực tiếp và sâu sắc đến hiệu lực, hiệu quả
của quản lý nhà nước, giúp cho nhà nước có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật, để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lí nhà nước nhằm đạt được các
mục tiêu đã đề ra. Để thực hiện được điều đó, các cơ quan nhà nước tiến hành rất nhiều
hoạt động khác nhau trong đó có hoạt động ban hành văn bản pháp luật. Một văn bản
được coi là có hiệu lực pháp luật và đưa vào thực thi trong thực tế cuộc sống đòi hỏi
phải đáp ứng được các yếu tố về mặt hình thức, nội dung, thẩm quyền ... Nếu như một
văn bản soạn thảo không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ hoặc vượt quyền hạn cho
phép thì sẽ không có giá trị thực hiện. Chính vì tầm quan trọng của văn bản pháp luật
trong thực tế như vậy, cho nên khi xây dựng văn bản pháp luật cần đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu để văn bản có hiệu lực, đặc biệt là yêu cầu về nội dung. Do đó, nhóm chúng tôi
đã lựa chọn đề tài : phân tích các yêu cầu về nội dung của văn bản pháp luật và lí giải
cơ sở của việc đặt ra những yêu cầu đó.
B. NỘI DUNG.
I. Những vấn đề chung:
Để tìm hiểu về nội dung của văn bản pháp luật, ta cần hiểu về văn bản pháp
luật. Văn bản pháp luật là hình thức văn bản do cơ quan nhà nước hoặc các chủ thể
có thẩm quyền ban hành có hình thức và thủ tục do luật định, nội dung chứa đựng ý
chí nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động quản lí nhà nước.
Chẳng hạn như: Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005 hay Nghị định 163/NĐ – CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm, là những văn bản pháp luật.
Việc soạn thảo văn bản pháp luật là sự thể hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và phạm vi hoạt đọng của cơ quan tổ chức; là sự phản ánh mối liên hệ giữa các cơ
quan trong hệ thống bộ máy quản lí nhà nước, thể hiện quan hệ giữa nhà nước với
nhân dân, giữa Đảng với nhà nước và các tổ chức khác. Đồng thời, văn bản pháp
luật là sự truyền tải thông tin…tất cả tạo nên sự thống nhất, đồng bộ là hành lang
pháp lí của hoạt động quản lí nhà nước.
Tuy nhiên một văn bản muốn được thực thi trong thực tiễn cuộc sống thì ngoài việc
đáp ứng về mặt thủ tục, văn phong ngôn ngữ… thì phải đáp ứng các yêu cầu về mặt


nội dung. Văn bản phải đảm bảo yêu cầu về mặt nội dung bởi xuất phát từ chính vai trò
của văn bản pháp luật trong thực tế cuộc sống hàng ngày và khi đưa ra các yêu cầu về
nội dung của văn bản pháp luật đã có những cơ sở lí luận và thực tiễn nhất đinh. Đáp
ứng được yêu cầu này cũng tức là hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ là tiền để rất quan
trong tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công
nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công
ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
II. Những yêu cầu về mặt nội dung của văn bản pháp luật
Nội dung của văn bản pháp luật cơ bản gồm những yêu cầu sau: phải có nội
dung phù hợp với đường lối của Đảng; nội dung của VBPL phải phản ánh nguyện
vọng ý chí của nhân dân lao động; VBPL phải có nội dung hợp pháp; VBPL phải có
tính khả thi; VBPL phải có nội dung tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã tham gia hoặc kí kết. Vấn đề đặt ra là tại sao văn bản pháp luật phải đáp ứng
được những yêu cầu này? Để hiểu được vấn đề này ta sẽ xem xét từng yêu cầu về
nội dung của văn bản pháp luật.
1. Văn bản pháp luật phải có nội dung phù hợp với đường lối của Đảng.
Xét yêu cầu về mặt nội dung của văn bản pháp luật thì văn bản pháp luật phải
có nội dung phù hợp với đường lối của Đảng, tức là nội dung quan trọng được quán
triệt hầu hết trong các văn bản pháp luật đó là việc phản ánh kịp thời đường lối,
chính sách của Đảng trong từng thời kì, từng lĩnh vực. Đây là một trong các yêu cầu
được nhìn dưới góc độ chính trị. Một văn bản pháp luật cần thiết phải có yếu tố
chính trị bởi Việt Nam có một Đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Mà nhà
nước quản lí xã hội bằng pháp luật, do vậy phải ban hành các văn bản pháp luật.
Việc ban hành các văn bản pháp luật là một trong những yêu cầu để đảm bảo yếu tố
chính trị. Do vậy, các văn bản pháp luật phải thể chế hóa đường lối chủ trương chính
sách của Đảng, phải đưa các quan điểm của Đảng vào trong thực tế cuộc sống bằng
pháp luật.
Tiêu chí này được hình thành trên cơ sở đánh giá văn bản pháp luật từ góc độ

chính trị, coi văn bản là phương tiện quan trọng và chủ yếu của quản lý Nhà nước để
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội. Đảng Cộng sản
Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo Nhà nước và xã hội thể hiện:
Quyền lãnh đạo của Đảng được ghi nhận trong Hiến pháp, cơ sở chính trị của Đảng rất
rộng rãi, sự lãnh đạo của Đảng được tất cả các tổ chức chính trị xã hội thừa nhận, Đảng
là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Nhà nước ghi nhận trong Điều 4, Hiến pháp năm 1992 “Đảng Cộng sản Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội …”. Trên cơ sở đó, Điều 22 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật đã xác định: “Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế -xã hội …”.
Những quy định đó là cơ sở pháp lý để Nhà nước buộc các cán bộ, nhân viên và các cơ
quan trong bộ máy của mình phải tuân thủ vô điều kiện sự lãnh đạo của Đảng. Trong
mọi lĩnh vực, Đảng đều có đường lối, chính sách. Đó chính là nguồn gốc để hình thành
nên hệ thống pháp luật và những hoạt động cụ thể nhằm thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước. Hoạt động xây dựng văn bản cũng vậy, khi ban hành, nội dung văn
bản pháp luật và phương hướng xây dựng văn bản pháp luật luôn chịu sự chi phối bởi
đường lối của Đảng. Đồng thời, bắt nguồn từ bản chất của Nhà nước ta – Nhà nước
XHCN, Nhà nước đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện đường lối của Đảng trên thực tế và trong
quá trình đó văn bản pháp luật là phương tiện quan trọng để thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng thành pháp luật, để tổ chức thực hiện trên thực tế những đường lối,
chủ trương đó. Việc tuân thủ yêu cầu này sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả tác động
của các văn bản, qua đó đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội kiên định
con đường đi lên CNXH.
Để đảm bảo sự phù hợp giữa văn bản pháp luật với đường lối, chủ trương của
Đảng, yêu cầu đặt ra là cần hiểu đúng bản chất mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội và thể chế hóa đường lối đó
trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng việc đưa ra

những đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các hoạt động khác nhau của
Nhà nước.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật, yếu tố chính trị thể hiện ở sự nhất quán
trong việc đưa ra các quy định phù hợp với đường lối phát triển của đất nước của Đảng
và việc thể chế hóa đường lối, chủ trương đó thành những quy định chung thống nhất
trên phạm vi toàn quốc hoặc địa phương. Đối với văn bản áp dụng pháp luật, yêu cầu
này được xem xét qua việc các văn bản đó kịp thời tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
chính trị trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng cụ thể của các cơ quan Nhà
nước.
Tuy vậy, ở đây cần nhấn mạnh rằng nghị quyết của Đảng không phải là văn bản
mang tính quyền lực – pháp lí. Những nghị quyết này được thực hiện trên thực tế
thông qua hàng loạt những hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước của các cơ
quan Nhà nước. Qua những hoạt động này, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng sẽ được hiện thực hóa trên thực tế. Nếu như văn bản không đáp ứng được nội
dung này thì văn bản sẽ đi chệch hướng. Ví dụ : năm 2008, Đảng và Nhà nước đưa ra
chính sách kiềm chế lạm phát bằng những hình thức khác nhau. Song tại thành phố Hồ
Chí Minh lại ra văn bản tiến hành thu phí với những phương tiện giao thông đi trong
địa bàn thành phố. Xe 04 chỗ 500.00 VNĐ/1 năm…nếu đề án này được thông qua sẽ
đi ngược với chủ trương của Đảng, ảnh hưởng đến người tiêu dùng, làm cho tình hình
lạm phát càng trầm trọng hơn.
Như vậy, khi đáp ứng được yêu cầu này sẽ thể hiện được vai trò của Đảng trong
hoạt động của nhà nước và trong hệ thống chính trị nước ta.
2. Văn bản pháp luật phải thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động.
Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân lao động
vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quyền lực Nhà nước. Điều này được ghi nhận
ngay trong Hiến pháp năm 1992, đạo luật cơ bản của Nhà nước “Công dân có quyền
tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước
và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý
dân”(Điều 53). Theo Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 thì nhân
dân có quyền tham gia vào việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, nội

dung của văn bản pháp luật phải đảm bảo ý chí, nguyện vọng của nhân dân lao động,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời nôi dung văn bản phải chứa đựng yêu cầu này vì
nhân dân lao động vừa là chủ thể vừa là đối tượng của chủ thể quản lí.
Phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân lao động là việc phản ánh thực tiễn
cuộc sống, những mong muốn chính đáng của chính những người dân lao động trong
xã hội, giúp họ nâng cao hơn các điều kiện về vật chất và tinh thần. Với vai trò là chủ
thể của quyền lực Nhà nước, nhân dân sử dụng pháp luật để thể hiện ý chí của mình
trong việc đóng góp ý kiến và thảo luận về các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương,
của cả nước. Họ cũng chính là đối tượng chủ yếu thực thi pháp luật. Việc xây dựng các
văn bản pháp luật có nội dung phản ánh đầy đủ, kịp thời ý chí nguyện vọng của nhân
dân suy cho cùng chính là sự bảo đảm yếu tố phù hợp giữa nhu cầu của xã hội và chủ
trương xây dựng pháp luật của Nhà nước. Nội dung này xuất phát từ quan điểm cho
rằng cần thiết phải tạo ra sự dung hòa về lợi ích giữa các nhóm đối tượng trong xã hội
mà trước hết là sự dung hòa về lợi ích giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý khi
chủ thể quản lý đưa ra các quyết định quản lý. Đây là nội dung vô cùng quan trọng vì
trong nhiều trường hợp, hiệu quả tác động của văn bản pháp luật thường phụ thuộc rất
lớn vào nhận thức của các bên liên quan, vào việc Nhà nước có thể hiện và đáp ứng
được những lợi ích của các giai tầng trong xã hội hay không. Khi đáp ứng được những
nội dung này thì văn bản pháp luật sẽ nâng cao được hiệu quả quản lý, thể hiện rõ bản
chất của Nhà nước ta. Một văn bản pháp luật dù có hiệu lực pháp lí cao hay thấp nhưng
nếu không phù hợp với điều kiện khách quan và ý chí của nhân dân lao động thì sẽ
không thể tồn tại được. Ví dụ: Khi xây dựng Luật bảo hiểm xã hội, các nhà làm luận
đã dự kiến tuổi nghỉ hưu đối với nam là 65, đối với nữ là 60. Tuy nhiên, khi lấy ý kiến
của nhân dân thì không được sự đồng tình bởi so với các quốc gia khác, yếu tố về mặt
sức khỏe và trí tuệ của người lao động Việt Nam còn thấp, nên không thể đáp ứng
được yêu cầu công tác ở độ tuổi này.
Vì vậy, khi xây dựng văn bản pháp luật, người có thẩm quyền cần thận trọng cân
nhắc, lựa chọn cách thức điều chỉnh để bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích của các nhóm
đối tượng có liên quan, đặc biệt là bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích của toàn xã hội, của
Nhà nước với các cá nhân, tổ chức xã hội, tránh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn.

3. Văn bản pháp luật phải có nội dung hợp pháp.
Sự hợp pháp về nội dung của văn bản pháp luật là một trong những điều kiệnbắt
buộc ảnh hưởng tới hiệu lực của nó. Vì vậy, việc đặt ra yêu cầu này trong việc xây
dựng văn bản pháp luật là điều hết sức cần thiết. Xem xét tính hợp pháp của văn bản
pháp luật là việc đối chiếu các quy định trong nội dung của văn bản với nội dung của
những văn bản khác mà pháp luật quy định là chuẩn mực pháp lí bắt buộc phải theo, để
đánh giá về sự phù hợp về nội dung giữa các văn bản đó. Khi xem xét các nội dung
hợp pháp của văn bản pháp luật cần xem xét mối quan hệ giữa các văn bản trong hệ
thống văn bản pháp luật. Trong phạm vi điều chỉnh nhất định, văn bản pháp luật
thường không tồn tại biệt lập mà luôn có mối quan hệ với nhau. Vì vậy, khi soạn thảo
văn bản pháp luật, cần đối chiếu các nội dung của văn bản pháp luật đang soạn thảo
với nội dung của các văn bản pháp luật có liên quan để đánh giá về sự phù hợp và
thống nhất giữa các văn bản này.
Đối với mỗi loại văn bản thì sự hợp pháp về nội dung lại thể hiện trong những khía
cạnh khác nhau:
*Đối với văn bản quy phạm pháp luật:
Các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật phải phù hợp và thống nhất với nội
dung văn bản do cấp trên ban hành. Hay nói cách khác, nội dung văn bản có hiệu lực
pháp lý thấp phải phù hợp với nội dung văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn..
Ví dụ: Để đánh giá tính hợp pháp của một Pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Qứôc hội
ban hành thì chuẩn mực pháp lý phải là văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội
gồm Hiến pháp, Luật, Nghị quyết.
* Đối với văn bản áp dụng pháp luật:
Các mệnh lệnh mà văn bản đưa ra phải phù hợp với các quy phạm pháp luật hiện
hành về nội dung và mục đích điều chỉnh. Trên thực tế, văn bản áp dụng pháp luật là
sự cụ thể hóa các quy phạm pháp luật vào những tình huống xác định để giải quyết
những vấn đề cụ thể. Do đó, để đánh giá nội dung hợp pháp của văn bản áp dụng pháp
luật cần phải căn cứ vào một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp đến
nội dung được đề cập trong văn bản áp dụng pháp luật đó.

×