Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƯƠNG MẠI TRONG SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.56 KB, 21 trang )

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƯƠNG MẠI TRONG SỞ HỮU TRÍ TUỆ

1 / 21


Chương 1. Lý luận chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương
mại
1.1. Khái niệm và đặc điểm tên thương mại1
Khoản 21 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sữa đổi bổ sung năm 2009
nêu “Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh
để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong
cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.”. Khu vực kinh doanh quy định tại khoản này là
khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.
Tên thương mại phải là tập hợp các chữ, phát âm được và có nghĩa.
Tên thương mại bao gồm hai phần: Phần mô tả và phần phân biệt.
- Phần mô tả là một tập hợp các từ có nghĩa mô tả tóm tắt loại hình doanh nghiệp
và lĩnh vực kinh doanh.
- Phần phân biệt là tập hợp các chữ cái phát âm được, có thể có nghĩa hoặc không
có nghĩa. Phần mô tả không có khả năng tạo nên tính phân biệt cho tên thương mại
(hai doanh nghiệp có tên thương mại khác nhau có thể có phần mô tả giống nhau). Ví
dụ: Với tên Công ty TNHH xây dựng Thành Đô. Phần mô tả là “Công ty TNHH xây
dựng”, phần phân biệt là “Thành Đô”, phân biệt với “Công ty TNHH xây dựng Tiến
Thành”. “Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam” không có khả năng phân biệt
(Tổng công ty - mô tả loại hình công ty; Bưu chính viễn thông - lĩnh vực hoạt động;
Việt Nam - không có khả năng phân biệt). Vì vậy phải thêm dấu hiệu khác là “VNPT”
là tên giao dịch.
1.2. Điều kiện bảo hộ tên thương mại
Trong hoạt động kinh doanh có nhiều cạnh tranh như ngày nay thì việc khẳng
định tên tuổi, hình ảnh của minh trên thương trường là một điều luôn được quan tâm
và hướng tới của mọi chủ thể tham gia kinh doanh. Cùng với các yếu tố như nhãn
hiệu, kiểu dáng công nghiệp,… thì tên thương mại cũng đóng góp một vị trí không nhỏ


trong mục tiêu chung đó. Trong hoạt động kinh doanh thường ngày, trong các giấy tờ
giao dịch, hiểu hiện, sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và phương tiện cung cấp
dịch vụ quảng cáo. Chính vì vậy tện thương mại có một ý nghĩa quan trọng đối với
hình ảnh của một tổ chức hay một cá nhân nào đó. Trong bối cảnh của luật thực định
thì tên thương mại được định nghĩa là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt
động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh
doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Vậy điều kiện tiên quyết để có
được tên thương mại cho riêng mình thì chính bản thân nó phải gắn yếu tố phân biệt.
1 1 Bài viết về Đề tài: TÊN THƯƠNG MẠI VÀ CƠ CHẾ BẢO HỘ TÊN THƯƠNG MẠI, ngày 02/04/2014, từ
nguồn truy
cập ngày 29/03/2016.

2 / 21


-

Hay nói khác đi thì để được Nhà nước bảo hộ thì tên thương mại phải chứa khả năng
phân biệt. Hơn thế nữa quyền sở hữu trí tuệ tên thương mại lại được xác định dựa trên
cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp của nó mà không cần thực hiện thủ tục đang ký. Vậy
liệu tên thương mại như thế nào là có khả năng phân biệt và để coi là được sử dụng
hợp pháp, không có tranh chấp trên thực tiễn.
Tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP Điều 14 quy định: “Tên thương mại
1. Tên thương mại được bảo hộ là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt
động kinh doanh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Là tập hợp các chữ cái, có thể kèm theo chữ số, phát âm được;
b) Có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể
kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh.
2. Các tên gọi sau đây không được bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương mại:
a) Tên gọi của các cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc các chủ thể không liên quan

tới hoạt động kinh doanh;
b) Tên gọi nhằm mục đích thực hiện chức năng của tên thương mại nhưng không
có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh của các cơ sở kinh doanh trong cùng một
lĩnh vực;
c) Tên thương mại gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử
dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, gây nhầm
lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử
dụng tên thương mại đó.”.
Do đó, để tên thương mại được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ, nhìn chung,
tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên đó với chủ thể
kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Ngoài ra theo quy định
tại Điều 78 Luật Sở hữu trí tuệ, tên thương mại còn phải đáp ứng một số yêu cầu khác,
đó là:
Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi:
+ Một tên thương mại có thể là tên đầy đủ hoặc tên giao dịch (tên viết tắt để tiện
cho việc giao dịch) theo đăng ký kinh doanh hoặc tên thường dùng.
Ví dụ: Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel, Công ty sữa Vinamilk là tên thương
mại đầy đủ, bên cạnh đó, công ty có thể sử dụng tên giao dịch là Tập đoàn Viettel,
Công ty Vinamilk. Từ “Viettel” ,”Vinamilk” chính là tên riêng thành phần phân biệt.
+ Tuy nhiên, trong thực tế, có một số tên thương mại không chứa thành phần tên
riêng nhưng đã tồn tại trong thời gian lâu dài và được người tiêu dùng biết đến rộng
rãi. Đối với trường hợp này, tên thương mại đó đã đạt được khả năng phân biệt qua
quá trình sử dụng thực tế, người tiêu dùng vẫn phân biệt được chủ thể kinh doanh đó
3 / 21


-

-


với các chủ thể kinh doanh khác, vì vậy mà được chấp nhận bảo hộ. Ví dụ như Công ty
Thuốc lá Sài Gòn, Công ty Bia Sài Gòn, Công ty Kem Tràng Tiền…
Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác
đã sử dụng trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Điều này cũng có thể hiểu là nếu tên thương mại của hai chủ thể kinh doanh
trùng nhau hoặc tương tự nhưng hai chủ thể kinh doanh đó lại hoạt động trong hai lĩnh
vực kinh doanh khác nhau hoặc thuộc hai khu vực địa lý khác nhau thì vẫn được chấp
nhận bảo hộ.
Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc quyền của
người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được
sử dụng.
Cũng do tên thương mại thường là tên doanh nghiệp hoặc được sử dụng thường
xuyên trong hoạt động kinh doanh của mỗi chủ thể kinh doanh, nên quyền sở hữu tên
thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó
tương ứng với khu vực và lãnh thổ kinh doanh, mà không cần thực hiện thủ tục đăng
ký tên thương mại đó tại cục Sở hữu trí tuệ. Điều này khác với việc xác lập quyền sở
hữu trí tuệ đối với các chỉ dẫn đầu tư khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, những đối
tượng này cần phải đăng ký mới được bảo hộ.
1.3. Việc xác lập bảo hộ Tên thương mại
Theo quy đinh của pháp luật VN, nếu một tên thương mại hay tên doanh nghiệp
được coi là có khả năng phân biệt, nó được bảo hộ thông qua sử dụng, cho dù đã đăng
ký hay chưa. Nếu không có khả năng phân biệt, nó có thể được bảo hộ sau khi có khả
năng phân biệt thông qua sử dụng. Khả năng phân biệt trong ngữ cảnh này nghĩa là
công chúng tiêu dùng công nhận tên thươ ng mại đó như một dẫn chiếu tới nguồn gốc
kinh doanh đặc biệt.
Theo Nghị định số 103/2006/ NĐ - CP ngày 22-9-2006 được sửa đổi , bổ sung
một số điều bởi Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31-12-2010 quy định chi tiết
hướng dẫn một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp Điều 6 Khoản 3
quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở
thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực (lãnh thổ) và

lĩnh vực kinh doanh mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.”.
Tiếp theo Điều 16 Khoản 2 thì “Phạm vi quyền đối với tên thương mại được xác
định theo phạm vi bảo hộ tên thương mại, gồm tên thương mại, lĩnh vực kinh doanh và
lãnh thổ kinh doanh, trong đó tên thương mại sử dụng một cách hợp pháp. Việc đăng
ký tên gọi của tổ chức, cá nhân trong thủ tục kinh doanh không được coi là sử dụng
tên gọi đó mà chỉ là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi đó được coi là hợp pháp.”.

4 / 21


Một tên thương mại hay tên doanh nghiệp cũng có khả năng được bảo hộ thông
qua đăng ký như một nhãn hiệu. Thông thường, cả tên doanh nghiệp đầy đủ và tên
doanh nghiệp ngắn đều có thể được đăng ký. Để đảm bảo việc bảo hộ, tên thương mại
đương nhiên phải được sử dụng như một nhãn hiệu thực sự.
1.4. Quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng đối với tên thương mại
Theo quy định tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP, Điều 15 và Luật SHTT Điều 21
Khoản 2 quy định: “Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là
tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.”.
Tiếp theo tại Điều 16 quy định “Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại
1. Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có quyền sử
dụng tên thương mại vào mục đích kinh doanh bằng cách dùng tên thương mại để
xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại đó trong các giấy
tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và quảng cáo.
2. Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có quyền
chuyển giao tên thương mại theo hợp đồng hoặc thừa kế cho người khác với điều kiện
việc chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động
kinh doanh dưới tên thương mại đó.”.
Điều 17 quy định “Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại: Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được bảo hộ khi chủ

sở hữu vẫn còn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.”.
Tiếp theo, Luật SHTT Điều 123 quy định “Quyền của chủ sở hữu đối tượng sở
hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây:
a) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo
quy định tại Điều 124 và Chương X của Luật này;
b) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại
Điều 125 của Luật này;
c) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Chương X của Luật
này.”.
Theo LSHTT Điều 124 Khoản 6: “Sử dụng tên thương mại là việc thực hiện
hành vi nhằm mục đích thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh
trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch,
biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ,
quảng cáo.”.
Ngoài ra, chủ sở hữu tên thương mại có quyền ngăn cấm người khác sử dụng tên
thương mại theo điểm b, khoản 1 điều 123 LSHTT. Hành vi xâm phạm đối với tên
5 / 21


thương mại theo khoản 2 Điều 129 LSHTT là : “Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương
mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước
cho cùng loại sản phẩm,dịch vụ hoặc cho sản phẩm,dịch vụ tương tự,gây nhầm lẫn về
chủ thể kinh doanh,cơ sở kinh doanh,hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó
đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại. Đồng thời có quyền yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm tên thương mại.”
Về việc chuyển nhượng, theo Khoản 3 Điều 139 LSHTT: “Quyền đối với tên
thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh
doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.”.
1.5. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại

1.5.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Tại Luật SHTT Điều129 Khoản 2: “Mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc
tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản
phẩm dịch vụ hoặc cho sản phẩm dịch vụ tương tự gây nhầm lẫn về chủ thể kinh
doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là
xâm phạm quyền với tên thương mại.”.
Tiếp đó tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP, Điều 20 cũng quy định về hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại.
Cũng tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP, Điều 21quy định: “Quyền yêu cầu xử lý
việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và tên
thương mại
1. Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, tên thương
mại và người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi xâm phạm quyền của mình phải chấm
dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.
2. Trong trường hợp xảy ra các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với tên thương mại hoặc đưa các thông tin sai lạc về tên thương mại, chỉ dẫn sai lạc về
nguồn gốc địa lý hàng hoá khiến người tiêu dùng bị nhầm lẫn thì người tiêu dùng có
quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi
trên phải chấm dứt hành vi đó và bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.
3. Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này là một năm tính từ ngày phát hiện được hành vi xâm phạm
nhưng không quá ba năm tính từ ngày hành vi xâm phạm xảy ra”.
Nghị định 54/2000/NĐ-CP Điều 22 quy định về Nghĩa vụ chứng minh, theo đó,
thuộc về chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại sẽ chứng minh.
NĐ 105/2006/NĐ-CP Điều 24 Khoản 3 Điểm c
Nghị định 105/2006/NĐ-CP Điều 13 được sửa đổi bởi NĐ 119/2010/NĐ-CP quy
định về “Yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại
6 / 21



1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại được thể hiện dưới dạng chỉ
dẫn thương mại gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ
giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác,
trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ.
2. Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại là phạm vi
bảo hộ tên thương mại được xác định trên cơ sở các chứng cứ thể hiện việc sử dụng
tên thương mại đó một cách hợp pháp, trong đó xác định cụ thể về chủ thể kinh doanh,
cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh và sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại.
3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối
với tên thương mại hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với tên thương mại được
bảo hộ và phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ
thuộc phạm vi bảo hộ, dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên
thương mại được bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với tên thương mại
được bảo hộ nếu giống với tên thương mại về cấu tạo từ ngữ, kể cả cách phát âm,
phiên âm đối với chữ cái; một dấu hiệu bị coi là tương tự với tên thương mại được
bảo hộ nếu tương tự về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh
dưới tên thương mại được bảo hộ;
b) Sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là trùng hoặc tương tự
với sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại được bảo hộ nếu giống nhau hoặc tương
tự nhau về bản chất, chức năng, công dụng và kênh tiêu thụ.”

-

1.5.2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại
Việc bảo hộ tên thương mại cũng giống như bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ khác
là bảo hộ quyền tài sản của các chủ thể và được hiểu dưới hai phương diện sau đây:

Thứ nhất, theo phương diện khách quan: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với tên thương mại là tổng hợp các quy định của pháp luật công nhận chủ sở hữu tên
thương mại được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và các biện pháp xử lý hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được pháp luật thừa nhận.
Thứ hai, theo phương diện chủ quan: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
tên thương mại là những biện pháp cụ thể được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm
quyền của chủ sở hữu tên thương mại tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại gồm việc xác định hành vi,
tính chất và mức độ xâm phạm quyền đối với tên thương mại, xác định thiệt hại, yêu
cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành
7 / 21


-

chính, kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, giám
định sở hữu trí tuệ.
Các biện pháp bảo hộ:
+ Biện pháp dân sự:
Biện pháp dân sự được áp dụng để giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của chủ thể
quyền đối với tên thương mại hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi tranh
chấp gây ra, kể cả hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng các biện pháp hành chính
hoặc hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Các tranh chấp sở hữu trí tuệ nói chung và tranh chấp liên quan đến tên thương
mại nói riêng là loại tranh chấp dân sự, bởi vậy, về nguyên tắc tranh chấp này được
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự do Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều đặc thù của vi phạm, tranh chấp
sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ quy định nhiều nội dung cụ thể hơn so với Bộ luật
Tố tụng dân sự với mục đích giải quyết tốt loại vi phạm, tranh chấp này. Ví dụ, quy

định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự (Điều 203), theo đó nguyên đơn
và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy
định tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và theo quy định tại Điều 203 Luật
Sở hữu trí tuệ. Trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì chủ sở hữu quyền sở
hữu công nghiệp đối với tên thương mại phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và
nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005.
Khi bị xâm phạm quyền đối với tên thương mại, thì chủ sở hữu tên thương mại
có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 29, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp này được xác định như sau: Nếu tranh chấp tên thương mại thuần
tuý là tranh chấp dân sự thì thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện; Nếu
tranh chấp tên thương mại thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối
tượng sở hữu trí tuệ ở nước ngoài, thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp tỉnh;
Nếu tranh chấp tên thương mại giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của toà án
nhân dân cấp tỉnh.
Thủ tục tố tụng dân sự cho phép chủ sở hữu tên thương mại được quyền khởi
kiện yêu cầu toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm
quyền đối với tên thương mại phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành
vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại… Theo biện pháp dân sự, toà án buộc cá nhân,
8 / 21


tổ chức xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại phải bồi thường
thiệt hại cho chủ sở hữu tên thương mại đó.
Ở nước ta, trong nhiều năm gần đây, các hành vi xâm phạm quyền đối với tên
thương mại chủ yếu được giải quyết bằng biện pháp hành chính. Thực tế ở nước ta cho
thấy rằng, so với biện pháp hình sự và biện pháp dân sự, thì áp dụng biện pháp hành
chính để xử lý những hành vi xâm phạm đem lại hiệu quả cao do không tốn thời gian,

tiền bạc. Số vụ việc được giải quyết bằng biện pháp dân sự và đặc biệt là biện pháp
hình sự còn rất ít.
+ Biện pháp hành chính:
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của
chủ sở hữu tên thương mại, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra,
tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm quyền chủ
động phát hiện. Biện pháp hành chính (khiếu kiện ra tòa) chỉ được áp dụng khi biện
pháp dân sự không mang lại kết quả.
Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ nói chung rất phong phú. Cụ thể bao gồm các biện pháp xử phạt
hành chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung) và các
biện pháp khắc phục hậu quả. Mỗi hành vi vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một
hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Bên cạnh đó, tuỳ theo tính chất,
mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm còn có thể bị áp dụng một
hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số
99/2013/NĐ-CP, thì hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: “Đình chỉ hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi vi phạm
quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này”. Ngoài ra, còn có các biện pháp khắc
phục hậu quả như: “Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm và tiêu hủy yếu tố vi phạm đối với
hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này; Buộc tiêu hủy tang vật,
phương tiện vi phạm nếu không loại bỏ được yếu tố vi phạm; tem, nhãn, bao bì, vật
phẩm vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này;
Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hàng hóa quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 12 Điều này; Buộc
thay đổi tên doanh nghiệp, loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp đối với hành
vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều này; Buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định từ Khoản 1 đến Khoản 15 Điều
này”.
Để bảo đảm việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại bằng
các biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật Sở hữu trí tuệ cho phép các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính.
9 / 21


Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp nhất định theo quy định
tại khoản 1 Điều 215 Luật Sở hữu trí tuệ: Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có
nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội; Tang vật
vi phạm có nguy cơ tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức vi phạm có biểu hiện trốn tránh trách
nhiệm; Và nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt hành chính.
+ Biện pháp hình sự:
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa quy định tội danh đối với hành vi xâm
phạm tên thương mại. Tuy nhiên, trên thực tế thông qua những hành vi xâm phạm đó
có thể xác định các yếu tố cấu thành tội phạm như sau: Quyền đối với tên thương mại
là một khách thể được pháp luật bảo vệ, vì vậy khi khách thể này bị xâm phạm mà
hành vi xâm phạm đó là do lỗi của chủ thể thực hiện hành vi, gây ra hậu quả nghiêm
trọng, gây thiệt hại lớn cho chủ sở hữu tên thương mại, cho người tiêu dùng và cho xã
hội thì chủ thể thực hiện hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại bị xử lý hình sự khi
hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự hoặc
người thực hiện hành vi đó đã bị xử phạt hành chính nay còn vi phạm.
Việc khởi tố vụ án hình sự xâm phạm tên thương mại không phụ thuộc vào ý chí
của chủ sở hữu tên thương mại (trừ khi pháp luật quy định). Khi xác định hành vi xâm
phạm quyền đối với tên thương mại có dấu hiệu tội phạm, các cơ quan tố tụng có có
thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan đó có thể là cơ quan điều
tra, viện kiểm sát hoặc cơ quan hải quan.
1.6. Bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên
thương mại
Tại Luật SHTT Điều 130 quy định “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1. Các hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động
kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính
năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện
cung cấp hàng hóa, dịch vụ;

d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ
dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi

10 / 21


dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn
địa lý tương ứng.
2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin
nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại,
biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của
hàng hóa, nhãn hàng hoá.
3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm
các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện
dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán,
tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hóa có gắn chỉ dẫn thương mại đó.”.
Trước đó, Nghị định 54/2000/NĐ-CP đã quy định về bảo hộ quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp, cụ thể tại các Điều 24, Điều
25, Điều 26, Điều 27 quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh, nghĩa vụ chứng minh cũng như xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Theo đó: “Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp thì tuỳ theo tính chất, mức độ của
hành vi đó sẽ bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại

phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”.
Chương 2. Một vài thực trạng về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại và nhận xét
2.1. Sự khác biệt, trùng lặp và phụ thuộc lẫn nhau trong bảo hộ nhãn hiệu và
tên thương mại
Xét định nghĩa về nhãn hiệu và tên thương mại trong Luật sở hữu trí tuệ. Theo
đó, tên thương mại là “tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh
để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong
cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Còn nhãn hiệu là “dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Ở đây, có thể thấy ngay sự
khác biệt cũng như có sự trùng nhau giữa tên thương mại và tên nhãn hiệu. Cụ thể, tên
thương mại là tên gọi còn tên nhãn hiệu là dấu hiệu. Theo một cách suy nghĩ khác thì
tên thương mại thường được tiếp nhận là tên đầy đủ của công ty như ghi trong Giấy
đăng ký kinh doanh còn nhãn hiệu là tên một sản phẩm hay dịch vụ nào đó do doanh
nghiệp đưa ra thị trường. Đó là sự khác biệt.Tuy nhiên, theo cách suy nghĩ khác mà cụ
thể là trong một số trường hợp thì tên thương mại và nhãn hiệu có thể là một.
Một sự khác biệt nữa là bản thân tên thương mại có thể tự động được bảo hộ (nếu
đáp ứng các tiêu chí đã được quy định) mà không cần làm thủ tục đăng ký (khoản 3
điều 6 Nghị định 103/2006/NĐ-CP) còn nhãn hiệu thì bắt buộc phải trải qua thủ tục
11 / 21


nộp đơn đăng ký (trừ trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng) và thẩm định. Phạm vi bảo hộ
của tên thương mại, xét theo một khía cạnh là có thể hẹp hơn phạm vi bảo hộ của nhãn
hiệu (toàn lãnh thổ Việt Nam) nhưng trong một số trường hợp sẽ là tương đương như
nhãn hiệu. Cụ thể, tên thương mại sẽ chỉ được bảo hộ trong một khu vực kinh doanh
và định nghĩa về khu vực kinh doanh đã được xác định là “khu vực địa lý nơi chủ thể
kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”. Việc xác định khu vực kinh
doanh hạn chế hay rộng lớn chính là vấn đề pháp lý phát sinh.
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tên thương mại và nhãn hiệu có thể thấy qua tiêu chí

quy định về khả năng phân biệt của tên thương mại và nhãn hiệu. Tên thương mại và
nhãn hiệu muốn được bảo hộ thì phải có khả năng phân biệt. Theo Điều 74 Khoản 2
Điểm k – Luật sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu
“dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác,
nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc
hàng hóa, dịch vụ;”. Ngược lại, theo Điều 78 Khoản 3 Luật Sở hữu trí tuệ thì tên
thương mại chỉ được coi là có khả năng phân biệt nếu “không trùng hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác”. Chính sự phụ thuộc lẫn nhau này
cũng sẽ là vấn đề pháp lý phát sinh trong tương lai và là điều mà các doanh nghiệp cần
lường trước trong hoạt động thương mại. Qua các vấn đề nêu trên và thực trạng đăng
ký kinh doanh tại các Sở kế hoạch đầu tư, có thể thấy rõ một số vấn đề bất cấp có thể
xảy ra như sau:
- Xác định thế nào là tên thương mại của doanh nghiệp – một việc tưởng dễ mà
hóa khó. Việc các doanh nghiệp có tên gọi trùng nhau trong giấy đăng ký kinh doanh
(cả về tên riêng, các bổ ngữ, và loại hình) trên cùng một thành phố thì không thể xảy
ra nhưng là điều có thể xảy ra trên các địa bàn khác nhau do chúng ta không có một cơ
quan chung chuyên cấp giấy đăng ký kinh doanh và vì vậy không thể có một cơ sở dữ
liệu chung duy nhất. Tuy nhiên, việc có các doanh nghiệp chỉ khác nhau về tên gọi loại
hình và các bổ ngữ (ví dụ: kinh doanh thực phẩm, chế biến nông sản, v.v.) còn trùng
nhau về tên riêng là điều đã xảy ra trên cùng một địa bàn. Giải quyết các tranh chấp
này là rất khó vì thiếu quy định rõ ràng. Nếu như các doanh nghiệp có các lĩnh vực
kinh doanh khác nhau thì dễ phân xử, nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay
thì điều gì sẽ xảy ra nếu các doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề hoặc các tập đoàn
lớn, đa ngành nghề có thể lấy cớ là uy tín của mình để có thể đè bẹp các doanh nghiệp
nhỏ khác (không may trùng tên) tại các địa bàn khác.
- Quy định nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu “trùng hoặc
tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác” sẽ gây khó khăn cho
việc bảo hộ nhãn hiệu vì như đã biết tên thương mại có phạm vi bảo hộ theo khu vực
kinh doanh (hẹp hơn nhiều so với phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu). Vậy thì cơ quan
12 / 21



chức năng sẽ căn cứ vào đâu để xác định khu vực kinh doanh của tên thương mại. Quy
định này có thể được các bên sử dụng để làm phát sinh các tranh chấp trong tương lai.
Chẳng hạn có thể dùng để yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đang được bảo hộ.
Việc này nếu xảy ra thì thực sự sẽ quá tải cho các cơ quan chức năng và nếu quá tải thì
việc giải quyết tranh chấp sẽ bị đình trệ và từ đó dẫn đến thực thi pháp luật không hiệu
quả.
- Giả sử tên thương mại chỉ có danh tiếng trong một khu vực địa lý nhất định thì
liệu một nhãn hiệu đang được bảo hộ có bị đình chỉ hiệu lực tương ứng với khu vực đó
không. Chưa có quy định nào nói về vấn đề này.
- Xác định đâu là tên thương mại để làm cơ sở cho việc hủy bỏ hiệu lực của một
nhãn hiệu đang được bảo hộ còn là vấn đề hết sức mơ hồ. Như đã nói ở trên, thực
trạng tên doanh nghiệp trong giấy đăng ký kinh doanh có thể chỉ khác nhau về loại
hình, các bổ ngữ, còn vẫn trùng nhau về tên riêng.
- Thực tế thẩm định các đơn nhãn hiệu tại cơ quan chức năng cũng chưa thể áp
dụng quy định liên quan vì rõ ràng là thiếu quá nhiều điều kiện (không có cơ sở dữ
liệu chung, không có cơ sở pháp lý để xác định tên thương mại, khu vực kinh doanh,
danh tiếng .v.v.). Việc áp dụng (nếu có thể) sẽ kéo dài thời gian thời gian thẩm định lên
rất nhiều (đi ngược với tiêu chí rút gọn thời gian xử lý). Tuy nhiên, sự phụ thuộc giữa
nhãn hiệu và tên thương mại như đã nói ở trên vẫn sẽ được áp dụng (do đã quy định
trong Luật) và đây là quy định mà các doanh nghiệp cần tính đến và tận dụng sao cho
linh hoạt trong tranh chấp thương mại (kể cả với các doanh nghiệp nước ngoài).
Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy ngay là loại hình bảo hộ nào cũng sẽ có
những bát cập đặc thù. Vấn đề là doanh nghiệp khi đã nắm vững và vận dụng linh hoạt
những quy định của “cuộc chơi sở hữu công nghiệp” thì quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp sẽ được đảm bảo vững chắc, ổn định.
2.2. Quy định về bảo hộ tên thương mại trong Luật Sở hữu trí tuệ và Luật
Doanh nghiệp
Theo pháp luật về sở hữu trí tuệ hiện nay, quyền sở hữu công nghiệp đối với tên

thương mại sẽ được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà không
cần phải đăng ký với cơ quan sở hữu trí tuệ như đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
Và cũng theo đó, tên thương mại sẽ được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể
kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực
và khu vực kinh doanh. Khả năng phân biệt sẽ được đáp ứng nếu tên thương mại đó:
chứa thành phần tên riêng (trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng);
không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác
sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; không trùng hoặc tương tự
13 / 21


đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được
bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng. Với những đặc điểm như, tên
thương mại mà một doanh nghiệp sử dụng thông thường cũng là tên doanh nghiệp đó
đăng ký theo thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Sở kế hoạch đầu tư địa phương.
Nhưng cũng chính từ đây mà vấn đề bảo hộ tên thương mại trở nên khó khăn do có sự
điều chỉnh của hai luật chuyên ngành: đó là Luật SHTT và Luật doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp quy định: “Tên của doanh nghiệp phải bảo đảm yếu tố kỹ
thuật, không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh
doanh; phải viết rõ loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần…”. Yếu tố trùng và gây nhầm lẫn cũng được quy định ở Điều 42 Luật Doanh
Nghiệp 2014.
Quy định như vậy khiến cho các doanh nghiệp khác nhau khi thành lập sử dụng
cùng một tên riêng và chỉ cần khác loại hình là vẫn có thể được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, hoặc cùng loại hình nhưng không rơi vào các yếu tố loại trừ nêu
trên thì vẫn được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Bên cạnh đó, cơ quan
đăng ký kinh doanh không có hệ thống dữ liệu của cơ quan sở hữu trí tuệ, vì vậy, đã
cấp rất nhiều tên doanh nghiệp có yếu tố trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với các
nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý của các tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, lại không vi
phạm quy định của Luật doanh nghiệp về tên công ty. Mặt khác, phạm vi bảo hộ nhãn

hiệu là trên phạm vi toàn quốc, tuy nhiên, phạm vi bảo hộ của tên thương mại lại chỉ
giới hạn trên phạm vi địa phương, vì vậy, có rất nhiều trường hợp cụ thể xảy ra là có
hai doanh nghiệp trùng tên hoàn toàn nhau ở hai địa phương khác nhau, một doanh
nghiệp đã “nhanh tay” đăng ký nhãn hiệu là một phần tên doanh nghiệp trước doanh
nghiệp kia, và theo quy định, doanh nghiệp đã có nhãn hiệu được quyền sử dụng độc
quyền nhãn hiệu đó trên phạm vi toàn quốc, vì vậy, doanh nghiệp có tên thương mại bị
trùng sẽ có khả năng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Nhưng vấn
đề đặt ra là doanh nghiệp chưa đăng ký nhãn hiệu lại được cơ quan đăng ký kinh
doanh cấp tên doanh nghiệp hoàn toàn phù hợp với luật doanh nghiệp, vì vậy, có thể
xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp được không? và doanh nghiệp đã sở hữu
nhãn hiệu có quyền yêu cầu cơ quan chức năng sửa đổi tên doanh nghiệp được không?
Câu trả lời chắc chắn là không, vì pháp luật hiện hành không quy định biện pháp bắt
buộc sửa đổi tên doanh nghiệp mà bản thân tên doanh nghiệp đó đã được cấp đúng.
Vấn đề này cũng đang làm đau đầu các cơ quan chức năng hiện nay khi sáp nhập địa
giới hành chính của toàn bộ tỉnh Hà Tây cũ vào Hà Nội, theo thông tin từ Phòng đăng
ký kinh doanh, hiện tại có 772 doanh nghiệp trùng tên, vậy giải pháp nào xử lý các vấn
đề nêu trên đang là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
14 / 21


Ngoài ra, theo quy định của Luật đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án
có vốn đầu tư nước ngoài cũng đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
Giấy chứng nhận đầu tư được cấp bởi UBND cấp tỉnh và các Ban quản lý khu công
nghiệp, khu chế xuất, điều này cũng dấn tới việc trùng tên giữa doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
Một vấn đề quan trọng nữa, trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 (và Nghị định
78/2015/NĐ-CP) có hiệu lực, các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều bất cập như:
Cơ quan đăng ký doanh nghiệp không có hệ thống dữ liệu của cơ quan sở hữu trí
tuệ (về tên thương mại, vì việc xác lập quyền bảo hộ tên thương mại không cần đăng
ký) và không có cơ sở dữ liệu về tên thương mại của doanh nghiệp; vì vậy việc đặt tên

gây nhầm lẫn là rất nhiều.
Vì “khu vực kinh doanh” gần như không xác định được. Thêm nữa, vấn đề đổi
tên doanh nghiệp bắt buộc - nói thì dễ như thực tế thực hiện được hay không là một
vấn đề khác. Vì lúc này, Luật chỉ quy định “Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng với nhau để
đăng ký đổi tên doanh nghiệp hoặc bổ sung tên địa danh để làm yếu tố phân biệt tên
doanh nghiệp” (NĐ 43/2010/NĐ-CP Điều 16 Khoản 1). Luật DN 2005 chưa quy định
rõ biện pháp xử lý, cũng như chế tài Thu hồi giấy phép kinh doanh gây nhầm lẫn. Vì
vậy, đã xáy ra rất nhiều trường hợp gây nhầm lẫn về tên thương mại mà không giải
quyết được, cho ví dụ:
Tuy nhiên, đến Luật Doanh nghiệp 2014, đi cùng là Nghị định 78/2015/NĐ-CP
có hiệu lực, với việc cập nhật và giải quyết thiếu sót kịp thời, quy định cụ thể tại các
Điều 17, 18, 19. Đặc biệt ở Điều 19 Khoản 6 có kèm chế tài thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp “Trường hợp cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, theo đó áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là
buộc thay đổi tên doanh nghiệp hoặc buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh
nghiệp nhưng tổ chức, cá nhân vi phạm không thực hiện trong thời hạn do pháp luật
quy định thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm thông báo cho Phòng Đăng ký kinh
doanh để yêu cầu doanh nghiệp báo cáo giải trình theo quy định tại Điểm c Khoản 1
Điều 209 Luật Doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp không báo cáo, Phòng Đăng
ký kinh doanh thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định
tại Điểm d Khoản 1 Điều 211 Luật Doanh nghiệp”; như vậy, Luật đã có hướng cải
thiện nhằm tránh việc tên thương mại được đặt một cách tự do, gây nhầm lẫn; giúp
quyền sở hữu công nghiệp trong vấn đề tên thương mại được bảo đảm hơn nhiều; đây
là điều đáng ghi nhận.
Trên đây là hậu quả của sự mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật khác nhau,
giữa luật sở hữu trí tuệ, luật doanh nghiệp và luật đầu tư. Các nhà làm luật nên sớm
15 / 21



sửa đổi các văn bản có liên quan để việc trùng tên doanh nghiệp được ngăn chặn trên
phạm vi quốc gia, từ đó tạo thuận lợi cho việc các doanh nghiệp phát triển tên thương
mại và nhãn hiệu của mình trên cơ sở tên doanh nghiệp đã đăng ký. Trong lúc chờ đợi
một sự thay đổi lớn trong các quy định của pháp luật, các doanh nghiệp nên có ý thức
tự bảo vệ mình trong việc xây dựng tên thương mại bằng cách sử dụng các phương
tiện tìm kiếm để xác định việc quyết định xây dựng tên thương mại đó liệu có phù
hợp; liệu có rủi ro khi trùng với tên doanh nghiệp, tên thương mại hay thậm chí là tên
miền của một chủ thể kinh doanh khác hay không… Và điều này nên được thực hiện
ngay khi doanh nghiệp quyết định thành lập và đi vào hoạt động, ngay từ trong việc
lựa chọn tên doanh nghiệp phù hợp.
2.3. Các cơ quan có thẩm quyền quản lý đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp đối với tên thương mại
Hiện nay, ở nước ta vẫn tồn tại mâu thuẫn trong quy định về các cơ quan có thẩm
quyền quản lý 2 đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, đó là nhãn hiệu và tên
thương mại. Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp của 2 đối tượng này rất khác
nhau: quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu do Cục SHTT cấp, còn quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó.
Trên thực tế, Bộ Khoa học và Công nghệ (thông qua Cục SHTT) quản lý nhà
nước đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, trong khi đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý
tên thương mại của các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp; Bộ
Tài chính quản lý tên thương mại của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo
hiểm; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý tên thương mại của các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán… Luật SHTT giao cho Bộ Khoa học và Công
nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực
hiện quản lý nhà nước về SHTT, còn các bộ khác có trách nhiệm “phối hợp” với các
bộ trên trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, hiện chưa hề có một văn bản nào quy định về cơ
chế phối hợp, vì vậy quy định về quản lý tên thương mại chưa thật sự chặt chẽ và cụ
thể.
Mối liên quan giữa nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại:

– Điểm k khoản 2 Điều 74 Luật SHTT quy định một trong những trường hợp của
nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt là “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với
tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có
thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ”.
– Khoản 3 Điều 78 Luật SHTT quy định một trong các điều kiện để xác định khả
năng phân biệt của tên thương mại là “Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm
16 / 21


lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày
tên thương mại đó được bảo hộ”.
Việc này dẫn đến trong thực tế, khi xảy ra tranh chấp giữa một bên là chủ thể
quyền của nhãn hiệu được bảo hộ và chủ thể quyền của tên thương mại đã được cấp
phép, các cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng thủ tục nào để giải quyết và cơ quan nào
sẽ có thẩm quyền và chịu trách nhiệm giải quyết vụ việc, Bộ Khoa học và Công nghệ
hay Bộ Kế hoạch và Đầu tư?
Hệ thống đăng ký nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý do Cục SHTT quản lý được tổ
chức rất chặt chẽ, không có khả năng trùng hoặc rất ít trường hợp tương tự tới mức độ
gây nhầm lẫn trên phạm vi toàn quốc. Nhưng tên thương mại lại do quá nhiều bộ quản
lý như trên nên việc trùng hoặc tương tự tới mức độ gây nhầm lẫn giữa tên thương mại
với nhau, tên thương mại trùng hoặc tương tự tới mức độ gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
và chỉ dẫn địa lý là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Trong thực tế đã xảy ra khá nhiều vụ
tranh chấp quyền SHTT đối với các đối tượng khác nhau mà lỗi không phải từ phía các
doanh nghiệp mà từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.
Để khắc phục tình trạng trên, giải pháp trước mắt là phải có cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan quản lý nhà nước về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại, trước hết
là giữa hai bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ (quản lý nhà nước về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa
lý) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (quản lý nhà nước về tên thương mại).
Hiện nay, mạng thông tin tương đối hiện đại của Cục SHTT đã đăng tải đầy đủ
và kịp thời về tình trạng pháp lý của các đối tượng sở hữu công nghiệp, do vậy, mọi

chủ thể có thể khai thác miễn phí các thông tin này. Giải pháp đề xuất là: Bộ Kế hoạch
và Đầu tư quy định cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp đăng ký kinh doanh
phải tra cứu các thông tin về tình trạng pháp lý của các đối tượng sở hữu công nghiệp
(chủ yếu là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý) để tránh cấp tên thương mại trùng hoặc tương
tự tới mức độ gây nhầm lẫn với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.Về lâu dài, cần nghiên cứu
mô hình chỉ một cơ quan duy nhất có quyền quản lý thống nhất các đối tượng của
quyền SHTT, mặc dù việc thực hiện giải pháp này sẽ phức tạp hơn.
2.4. Hiệu lực lãnh thổ của tên thương mại và nhãn hiệu đối với việc vươn ra
thị trường nước ngoài của doanh nghiệp
Cách đây không lâu, nhiều người không khỏi ngạc nhiên về sự thay đổi nhãn
hiệu dịch vụ của Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Được thành lập từ năm 1988,
Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thương mại nhà
nước lớn nhất Việt Nam và được xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt của
Việt Nam. Trong 20 năm qua, Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động và góp phần không nhỏ trong việc thực thi
17 / 21


hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Đến năm
2008, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã được phân bố
rộng khắp trên 56 tỉnh, thành phố trong cả nước, có quan hệ đại lý với trên 800 ngân
hàng tại 80 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng, trong suốt 20 năm qua, Ngân hàng Công Thương Việt
Nam đã lấy tên thương mại Incombank của mình làm nhãn hiệu dịch vụ mà không hề
đăng ký với Cục SHTT để được cấp Đăng bạ Quốc gia nhãn hiệu hàng hóa
Incombank, trái ngược với nhiều ngân hàng khác.
Trong khi đó, ngày 14/01/1993 (5 năm sau khi Ngân hàng Công Thương Việt
Nam thành lập), Cục SHTT đã cấp cho Công ty Vàng bạc thuộc Ngân hàng Công
Thương Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) có trụ sở tại 165-169 Hàm Nghi, quận 1,
TP HCM quyền sở hữu đối với nhãn hiệu Incombank ICB. Như vậy, ngay từ năm

1993, Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã mất quyền đăng ký nhãn hiệu
Incombank. Nhãn hiệu Incombank ICB đã hết hiệu lực bảo hộ từ ngày 02/11/2002, do
Công ty Vàng bạc thuộc Ngân hàng Công thương TP HCM không gia hạn bảo hộ.
Theo quy định của Luật SHTT, phải 5 năm sau, tức là từ ngày 03/11/2007, Ngân hàng
Công Thương Việt Nam và các chủ thể khác mới có quyền đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
Incombank.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ngân hàng Công Thương Việt Nam
phải vươn ra thị trường nước ngoài, lúc đó mới biết trên thế giới đã có nhiều ngân
hàng mang nhãn hiệu Incombank như ở Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc… Theo quy
định, nhãn hiệu do quốc gia nào cấp văn bằng bảo hộ thì chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ
quốc gia đó, do vậy, Ngân hàng Công Thương Việt Nam không thể lấy tên Incombank
để hoạt động ở nước ngoài, nên đã đăng ký và được Cục SHTT cấp Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu Vietinbank vào ngày 18/07/2007. Bởi trong trường hợp này, Ngân
hàng Công thương Việt Nam có hai cách để thực hiện:
- Cách 1: không dùng nhãn hiệu bị từ chối ở nước ngoài đối với thị trường trong
nước, chọn một nhãn hiệu khác có thành phần phân biệt cao để đăng ký đồng thời ở
trong nước và nước ngoài (như trường hợp Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã
chọn nhãn hiệu Vietinbank).
- Cách 2: vẫn dùng nhãn hiệu bị từ chối ở nước ngoài đối với thị trường trong
nước, chọn một nhãn hiệu khác có thành phần phân biệt cao để đăng ký đồng thời ở
trong nước và nước ngoài. Như vậy, trong trường hợp này, doanh nghiệp dùng đồng
thời 2 nhãn hiệu: 1 nhãn hiệu chỉ cho trong nước và 1 nhãn hiệu cho cả trong nước và
nước ngoài.

18 / 21


Đây là một ví dụ điển hình về ảnh hưởng của bảo hộ tên thương mại đối với việc
phát triển của doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài.
Chương 3. Pháp luật quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với tên

thương mại
Việt Nam gia nhập Công ước Paris từ 8-3-1949, số lượng các quốc gia thành viên
của Công ước Paris rất lớn, trong số đó có Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu.
Nguyên tắc bảo hộ độc lập. Nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý thuộc
nhóm được bảo hộ quyền SHCN, việc bảo hộ chúng tuân theo nguyên tắc độc lập do
Công ước Paris quy định, có nghĩa là quốc gia nào cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN
thì văn bằng ấy chỉ có hiệu lực bảo hộ trên lãnh thổ quốc gia đó.
Theo Điều 8 Công ước Paris thì tên thương mại được bảo hộ tại tất cả các nước
thành viên. Tuy nhiên, Công ước này không đưa ra quy định cụ thể về việc tên thương
mại phải được bảo hộ dưới hình thức nào. Do vậy, chế độ pháp lý đối với tên thương
mại tại các quốc gia khác nhau rất đa dạng. Tuy có những khác biệt nhất định nhưng ở
tất cả các nước có pháp luật về bảo hộ tên thương mại đều tập trung điều chỉnh các vấn
đề sau: những dấu hiệu nào có thể được sử dụng với tư cách là tên thương mại; trình tự
xác lập quyền đối với tên thương mại; quyền và nghĩa vụ của người có tên thương mại;
vấn đề bảo vệ và chấm dứt quyền đối với tên thương mại. Vấn đề xác định quyền đối
với tên thương mại ở nước ngoài theo công ước có một số điểm đáng chú ý như sau:
Điều 8 Công ước Paris năm 1979 quy định: “Tên thương mại được bảo hộ ở tất
cả các nước thành viên của Liên hiệp mà không bị bắt buộc phải nộp đơn hoặc đăng
ký, bất kể tên thương mại đó có hay không là một phần của một nhãn hiệu.”
Theo nguyên tắc “chế độ quốc gia” được quy định tại Điều 2 Công ước thì tên
thương mại của nước ngoài được bảo hộ như những tên thương mại của công dân
nước sở tại.
Tại các Điều 9, Điều 10, Điều 10 bis, Điều 10 ter quy định về Xâm phạm Nhãn
hiệu, Tên thương mại, biện pháp xử lý khi xâm phạm, cũng như đề cập về cạnh tranh
không lành mạnh và công cụ giải quyết.
Như vậy, pháp luật của một số quốc gia có nội luật hóa Công ước Paris hay
không? Pháp luật các quốc gia quy định về sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
như thế nào, ta cùng tìm hiểu qua một vài quốc gia điển hình sau2:
Nguyên tắc lựa chọn tên thương mại: Pháp luật nhiều nước quy định hầu như bất
cứ dấu hiệu nào cũng có thể được nhà kinh doanh lựa chọn làm tên thương mại cho

mình. Nhà kinh doanh có thể thích dùng tên riêng của chính mình, nhưng cũng có thể
tự lựa chọn một cái tên bất kỳ nào đó (không trái với pháp luật của nước mình) để làm
2 Bùi Huyền, ‘Pháp luật về bảo hộ tên thương mại của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt
Nam, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp
< />
19 / 21


tên thương mại. Nguyên tắc “tự do lựa chọn” này tồn tại ở Anh, Nhật, Mỹ và một loạt
các nước có hệ thống pháp luật được xây dựng dưới ảnh hưởng của các quốc gia nêu
trên. Tuy vậy, trong pháp luật về bảo hộ tên thương mại của các nước này cũng tồn tại
một số hạn chế nhất định đối với việc lựa chọn tên thương mại. Chẳng hạn, hạn chế
hoặc loại bỏ vệc sử dụng một số từ hay cụm từ riêng biệt (ví dụ, “hoàng gia”, “quốc
tế”…) hoặc bắt buộc phải đưa vào thành phần tên thương mại những chỉ dẫn về tính
chất, phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh doanh (ví dụ, “trách nhiệm hữu hạn”, “cổ
phần”, “hợp danh”…).
Luật của hầu hết các nước trong hệ thống luật Châu Âu và những nước chịu ảnh
hưởng của hệ thống pháp luật này thì lại không cho phép chủ thể kinh doanh là cá
nhân tự do lựa chọn tên thương mại, họ bắt buộc phải tiến hành công việc kinh doanh
dưới tên riêng của chính mình, điều này có nghĩa là khi một cá nhân tiến hành hoạt
động kinh doanh, thì họ phải sử dụng tên thật của mình làm tên thương mại mà không
được lựa chọn một tên tự đặt bất kỳ nào khác. Những yêu cầu tương tự cũng được đưa
ra đối với công ty hợp danh: Tên thương mại của các chủ thể này cần phải bao gồm tên
thật của tất cả các thành viên sáng lập công ty hoặc tên thật của ít nhất một thành viên
với việc bổ sung thêm từ “… và công ty (company)”, khi công ty được chuyển giao
cho một chủ sở hữu mới thì tên thương mại cũ cũng phải được chuyển giao. Đối với
những liên kết tư bản khác như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… thì
những yêu cầu đối với tên thương mại như trên không được áp dụng. Nhưng tên
thương mại của những công ty này nhất thiết phải nêu được phạm vi hoạt động và loại
hình tổ chức. Nếu tên thương mại không phù hợp với bản chất thực của công ty sử

dụng tên thương mại đó thì công ty có thể bị yêu cầu thay đổi tên thương mại của
mình.
Nguyên tắc xác lập quyền đối với tên thương mại: Ở các nước khác trên thế giới,
việc xác lập quyền đối với tên thương mại được hình thành trên những cơ sở pháp lý
khác nhau như: Sử dụng tên thương mại (đa số các nước); Đăng ký bắt buộc (ở một số
nước xã hội chủ nghĩa cũ như Liên bang Nga, khu vực Trung Mỹ…); Sử dụng hoặc
đăng ký tên thương mại, trong đó hình thức đăng ký được khuyến khích (ở một số
nước như Thuỵ Điển, Srilanca, Tây Ban Nha).
Như vậy, việc đăng ký tên thương mại có thể mang ý nghĩa làm phát sinh quyền
nhưng cũng có thể chỉ mang ý nghĩa chứng thực quyền (tương tự như đối với nhãn
hiệu hàng hóa). Cụ thể, quyền đối với tên thương mại xuất hiện từ sự kiện sử dụng tên
thương mại, còn việc đăng ký tên thương mại sau đó chỉ có ý nghĩa củng cố thêm
quyền đã xuất hiện từ trước mà không phải là bắt buộc.

20 / 21


21 / 21



×