Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Cơ sở lý luận về tài phán hành chính, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.36 KB, 121 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH, LỊCH SỬ VÀ
THỰC TRẠNG KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA........................................6
1.1 Khái lược lịch sử khiếu kiện hành chính và tổ chức giải quyết khiếu kiện hành
chính ở nước ta...............................................................................................................6
1.1.1. Thời phong kiến..............................................................................................6
1.1.2. Thời Ngụy quyền Sài Gòn.............................................................................10
1.1.3 Ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau 1975.............................................11
1.2. Khái niệm và tính chất của khiếu kiện hành chính.............................................12
1.2.1. Khái niệm khiếu kiện hành chính.................................................................12
1.2.2. Tính chất của khiếu kiện hành chính............................................................15
1.3. Phân loại khiếu kiện hành chính.......................................................................17
1.4. Ý nghĩa của khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam..................................19
1.5. Thực trạng khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay.........................................23
1.5.1. Thực trạng khiếu nại hành chính...................................................................23
1.5.2 Thực trạng khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.........................................28
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH , THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA
..........................................................................................................................................32
2.1. Cơ sở lý luận về tài phán hành chính...................................................................32
2.1.1. Khái niệm và tính chất cuả tài phán hành chính............................................32
2.1.2. Vai trò của tài phán hành chính.....................................................................38
2.1.3 Mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính ở một số quốc gia..........42
2.1.4. Các quan điểm và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động tài phán hành chính
ở nước ta...................................................................................................................53
2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam
......................................................................................................................................60
2.2.1. Thực trạng pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam............................60
2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam............78


Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HÒAN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA...............86
3.1. Mô hình tài phán hành chính thuộc Chính phủ....................................................86
3.2. Vấn đề hòan thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta..................................89
3.2.1 Các quan điểm cần quán triệt..........................................................................90
3.2.2. Mô hình tài phán hành chính được đề xuất...................................................91
KẾT LUẬN....................................................................................................................104


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Tổng hợp số liệu án hành chính thụ lý tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh trong 5 năm 2002-2006 [Nguồn báo cáo tổng kết họat động của TAND tp.HCM,
79-83]:............................................................................................................................106
Bảng 2.1 Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính tại thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 1999 – 2005[82]...................................................................107
Bảng 2.2 Tổng hợp số lượng các vụ án hành chính mà ngành Tòa án nhân dân đã thụ
lý, giải quyết từ năm 2002 đến 2006[73-77].................................................................108
Bảng 2.3 Tổng hợp số lượng khiếu kiện hành chính mà Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh đã thụ lý, giải quyết từ năm 2002- 2006 [79-83]..........................................108


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
- Ñaûng coäng saûn Vieät Nam

: Đảng CSVN

- Giải quyết khiếu nại

: GQKN


- Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ : HĐTMVM
- Hành vi hành chính

: HVHC

- Khiếu nại, tố cáo

: KNTC

- Khiếu kiện hành chính

: KKHC

- Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998

: Luật 1998

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo ban hành ngày
15/6/2004

: Luật 2004

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo ban hành ngày
29/11/2005
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

: Luật 2005
: Pháp lệnh

TTGQCVAHC

- Pháp lệnh quy định xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo cuả công dân ngày
27/11/1981
: Pháp lệnh 1981
- Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo ngày 02/5/1991
-

: Pháp lệnh 1991

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 21/5/1996 : Pháp lệnh

1996
- Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
28/12/1998

: Pháp lệnh 1998


- Quyết định hành chính

: QĐHC

- Xử phạt vi phạm hành chính

: XPVPHC

- Tài phán hành chính

:TPHC

- Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh


: TAND tp.HCM

- Tòa án nhân dân tối cao

: TANDTC

- Tổ chức thương mại thế giới

: WTO

- Uỷ ban nhân dân

: UBND

- Xã hội chủ nghĩa

: XHCN


1

MỞ ĐẦU
Nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền làm
chủ về mọi mặt của nhân dân được Nhà nước bảo đảm. Công dân , tổ chức có
quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có căn cứ để cho rằng
có QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của mình.
Do vai trò , vị trí quan trọng của quyền khiếu nại trong đời sống chính trị,

xã hội ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã chú ý đặc biệt đến công tác
giải quyết khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức, nên hoạt động giải quyết
khiếu nại cuûa Nhà nước ta ngày càng được đổi mới và hoàn thiện. Điều này được
phản ánh trước hết thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan
thanh tra nhà nước. Trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình,
cùng với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, hệ thống thanh tra nhà nước đã góp
phần đáng kể trong việc giải quyết các khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, chúng
ta vẫn phải thừa nhận một thực tế là trong nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội
vẫn còn tình trạng thiếu dân chủ, kỷ cương lỏng lẻo, bộ máy nhà nước của chúng
ta vẫn còn kồng kềnh gây lãng phí ngân quỹ nhà nước, việc giải quyết khiếu nại
còn chậm, chồng chéo, trùng lắp, hiệu quả chưa cao.
Nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính, cùng với
việc tiếp tục trao quyền giải quyết các khiếu nại hành chính cho các cơ quan hành
chính nhà nước, từ ngày 01/7/1996 hệ thống Tòa án nhân dân cũng được củng cố
và trao thêm thẩm quyền giải quyết một số KKHC.
1. Lý do chọn đề tài


2

Qua giải quyết các KKHC, Tòa án đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, tăng cường pháp chế XHCN và xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, việc thiết lập hệ thống các cơ quan nhà nước để giải quyết các
KKHC cũng đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu như:
- Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC. Việc tổ chức hoạt
động giải quyết KKHC cuả chúng ta có phù hợp với cơ sở lý luận này hay
không?
- Các nước khác tổ chức hoạt động giải quyết KKHC ra sao, những ưu điểm
và hạn chế của các mô hình này?

- Pháp luật của nhà nước ta quy định thế nào về mô hình giải quyết KKHC;
Thực tế hoạt động giải quyết KKHC của chúng ta?
- Tại sao hoạt động giải quyết KKHC của Tòa án đã trải qua hơn 10 năm
nhưng số lượng đơn khởi kiện vẫn ít, tỷ lệ các phán quyết hành chính được thi
hành còn thấp. Trong khi đó số lượng đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hành
chính vẫn còn nhiều. Đâu là nguyên nhân của tình trạng trên? Chúng ta phải làm
gì để khắc phục ?
- Việc duy trì hai hệ thống giải quyết các tranh chấp hành chính như hiện nay
có còn phù hợp hay không. Nếu còn phù hợp thì cần hoàn thiện như thế nào để
các cơ quan này hoạt động có hiệu quả hơn? Nếu việc tổ chức mô hình giải quyết
như hiện nay không còn phù hợp thì nên đổi mới như thế nào. Cơ sở lý luận và
thực tiễn để đề ra mô hình mới?
Là người trực tiếp tham gia giải quyết các KKHC ngay từ khi Toà hành
chính- Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, trên cơ sở các
kiến thức tiếp thu được trong quá trình theo học khoá đào tạo cao học luật, tôi


3

chọn đề tài “Đổi mới mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước
ta hiện nay.” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
KKHC là một thực tế khách quan phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước của mọi quốc gia, không phân biệt đó là chính thể hoặc chế độ chính trị
nào.
Ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm
đến vấn đề giải quyết KKHC [65, Tr 30]. Nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức
và hoạt động giải quyết KKHC (bao gồm giải quyết khiếu nại hành chính và khởi
kiện vụ án hành chính) đã được thực hiện như: Coâng trình “Thiết lập tài phán
hành chính ở nước ta” cuûa Học viện Hành chính quốc gia do GS. TSKH Nguyễn

Duy Gia chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội-1995; “Tìm hiểu về tài phán
hành chính ở Việt Nam” cuûa PTS Phạm Hòang Thái và PTS Đinh Văn Mậu, Nhà
xuất bản thành phố Hồ Chí Minh -1996; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp
quyền” cuûa PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nhà xuất bản Tư pháp- 2004, trong đó
có nghiên cứu về tổ chức Toà hành chính … Ngoài ra, một số cơ sở đào tạo đại
học luật, đại học hành chính như Đại học Luật Hà Nội, Khoa luật Đại học quốc
gia Hà Nội, Học viện hành chính quốc gia, cũng đã nghiên cứu và đưa vào giáo
trình luật hành chính cuả mình những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
giải quyết KKHC. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nêu trên chỉ giới hạn phạm
vi nghiên cứu ở những vấn đề chung nhất về lý luận và thực tiễn. Về phía các cơ
quan hành chính nhà nước , ngày 19/11/2004 Thủ tướng Chính phủ có Văn bản
số 6327/VPCP-CV giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, soạn thảo Đề án thành lập
cơ quan TPHC ở Việt Nam. Hiện nay công trình này đang trong giai đọan triển


4

khai nên nhìn chung vấn đề tổ chức và hoạt động giải quyết các KKHC ở nước ta
theo mô hình như thế nào là phù hợp, có hiệu quả nhất vẫn đang là một vấn đề có
tính thời sự, cần được sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan chức năng và các
nhà khoa học.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
-Hệ thống hoùa các lý luận về KKHC, mô hình tổ chức giải quyết KKHC ở
một số quốc gia khác.
-Làm rõ thưc trạng về tổ chức và hoạt động giải quyết các KKHC ở Việt
Nam.
-Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc tổ chức và hoạt động giải
quyết KKHC ở nước ta.
-Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cưú, đề xuất các giải pháp nhằm

đổi mới, hoàn thiện pháp luật về Tòa chức hoạt động giải quyết các KKHC ở
nước ta.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là việc KKHC và mô hình tổ
chức giải quyết KKHC.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở phương pháp luận
trên, đề tài này sử dụng các phương pháp nhận thức khoa học cụ thể như:
- Phương pháp trừu tượng khoa học;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp tổng hợp, thống kê;
- Phương pháp phân tích đánh giá…


5

5. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Để nghiên cứu về khiếu kiện hành chính và tổ chức mô hình giải quyết
KKHC không thể không vận dụng những quy tắc cơ bản, các phạm trù, khái
niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như các
khái niệm chính trị học, hành chính học hiện đại. Chúng cho phép ta nhận thức
và thấu hiểu bản chất cũng như đặc điểm riêng của KKHC và việc giải quyết
KKHC, hiểu được mối quan hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với các vấn
đề có liên quan khác.
Về mặt cơ sở lý luận, đề tài này sử dụng những thành tựu lý luận của khoa
học Luật hành chính thế giới, trước hết là của các nước XHCN. Hệ thống các
khái niệm, phạm trù, quan điểm được sử dụng trong đề tài cũng bắt nguồn từ
những kết luận khoa học của lý luận luật hành chính XHCN, ñồng thời còn tiếp
thu những yếu tố khoa học, hợp lý liên quan đến các lý luận về KKHC và các mô
hình tổ chức giải quyết KKHC của các nước có chế độ chính trị khác nhau.

Nguồn tư liệu quan trọng của đề tài này là các nghị quyết của Đảng CSVN,
đặc biệt là chủ trương đổi mới và tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, thực
hiện cải cách bộ máy hành chính nhà nước và tăng cường quản lý nhà nước bằng
pháp luật của Đảng và Nhà Nước ta hiện nay. Ngoài ra, đề tài này còn tham
khảo, sử dụng các giáo trình có liên quan , các công trình nghiên cứu của các học
giả trong và ngoài nước…
Cơ sở thực tiễn chủ yếu của luận văn là thực tiễn hoạt động giải quyết
KKHC của của Tòa án nhân dân; hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Nguồn thông tin được sử dụng làm cơ sở nghiên cứu thực tiễn nêu trên là
các văn bản quy phạm pháp luật, các báo cáo tổng kết hoạt động, các tham


6

luận… của các cơ quan nhà nước, các nhà khoa học có liên quan và các hiểu biết
của tác giả trong hơn 10 năm trực tiếp tham gia vào hoạt động giải quyết KKHC
tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hy vọng các giải pháp đổi mới mô hình tổ chức giải quyết KKHC ở nước ta
do đề tài này đề xuất sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống lý luận khoa học
luật hành chính và cung cấp được những thông tin có ý nghĩa cho các cơ quan
chức năng trong việc đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức giải quyết KKHC ở
nước ta.
7. Về kết cấu của đề tài
Nội dung đề tài được chia làm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về KKHC, lịch sử và thực trạng KKHC ở nước
ta.
- Chương 2: Cơ sở lý luận về tài phán hành chính, thực trạng pháp luật và
thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở nước ta.

- Chương 3: Vấn đề hoàn thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH, LỊCH SỬ VÀ
THỰC TRẠNG KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA
1.1 Khái lược lịch sử khiếu kiện hành chính và tổ chức giải quyết
khiếu kiện hành chính ở nước ta
1.1.1. Thời phong kiến
Trong các chế độ chính trị, hoạt động hành chính luôn luôn thể hiện tính chất
dân chủ cao hay thấp, dân chủ thực sự hay dân chủ giả hiệu. Do đó khi xây dựng


7

bộ máy hành chính nhà nước mỗi quốc gia thường lựa chọn các phương cách phù
hợp với các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội của nước mình.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nền văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu
đậm của văn hoá Trung Quốc, nhất là tư tưởng Nho gia. Suốt 10 thế kỷ (từ năm
939 đến 1945) Nho gio đã thâm nhập, có thời kỳ còn chiếm giữ vị trí độc tôn
trong hoạt động của nhà nước phong kiến Việt Nam. Theo quan điểm Nho gia,
trong quan hệ giữa Vua- Dân thì vua là người thay trời trị dân. Toàn bộ quyền
lực quốc gia tập trung vào tay vua, từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp. Vua là
gạch nối giữa trời với dân, vua có nghĩa vụ thay trời lo cho dân được ấm no, hạnh
phúc[24,Tr68].
Trong thời kỳ ấy mọi tầng lớp nhân dân phải có nghĩa vụ tuân thủ lệnh vua,
như con tuân lệnh Cha: “Vua nói chết không chết là bất trung – Cha nói chết
không chết là bất hiếu”. Trong cái trật tự ấy của Nho gio” vua là con trời”, ” ý
vua là ý trời”, “Vua sẽ thay trời trị dân”.
Theo sử cũ, khi Lý Công Uẩn lên ngôi (1009 - 1028), là vị vua khai sáng
triều đại quân chủ trung ương tập quyền hoàn chỉnh đầu tiên ở Việt Nam đã ban

hành chiếu chỉ đích thân trực tiếp giải quyết các khiếu kiện của dân. Chiếu rằng
“Từ nay hễ có ai kiện tụng, được đến triều tâu bày, Vua sẽ đích thân xét quyết
cho” [38,Tr142].
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó, đã hình thành một truyền
thống dân chủ trong chế độ quân chủ ở Việt Nam là dân có thể kiện đến triều
đình các hành vi sai trái, phạm pháp của quan lại để vua xét xử. Trước điện triều
có đặt sẵn một cái trống hay cái chuông để có oan ức điều gì thì dân có thể đến
đánh trống, đánh chuông kêu oan lên Vua.


8

Vào thời Trần, ở trung ương, bên cạnh các cơ quan, chức quan đã có từ thời
Lý, triều đình còn đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới trong đó có Thẩm
hình viện và Tam ty viện. Thẩm hình viện là cơ quan xét xử cao nhất, Tam ty
viện là cơ quan có chức năng giám sát việc thi hành pháp luật cuả các quan lại và
viên chức nhà nước, là cơ quan đề nghị Nhà Vua sưả đổi, bổ sung các văn bản
pháp luật cuả Nhà nước. Ngoài các chức quan như đã có dưới triều Lý, nhà Trần
còn đặt thêm các chức quan như Tư đồ, Tư mã, Tư không, gọi chung là Tam tư,
trong đó Tư mã là quan phụ trách công việc chinh phạt như quốc phòng, công an,
tư pháp[26,Tr91]. Có chức quan là Ngự sử đài với nhiệm vụ là chuyển những
giấy tờ trình nhà vua, chuyển đơn khiếu tố cuả tất cả các nơi lên nhà vua, kiểm
tra, giám sát và phát hiện lầm lỡ cuả các quan lại, viên chức lên vua.
Ở điạ phương, mỗi lộ có 2 viên quan trông coi về hành chính và tư pháp là
An phủ chánh sứ và An phủ phó sứ. Quan lại hành chính ở điạ phương đồng thời
phụ trách cả việc xét xử tội phạm và các kiện tụng khác.
Đến thời nhà Lê, tổ chức cơ quan xét xử vẫn chưa có sự độc lập hẳn so với
cơ quan hành pháp nhưng đã có sự phát triển vượt bậc so với các triều đại trước.
Hệ thống cơ quan hành chính vẫn thực hiện chức năng tài phán, tuy nhiên đã xuất
hiện một số cơ quan được phân định chuyên trách quyền tài phán như: Thưà ty,

Hiến ty, Ngự sử đài, Đại lý tự… trong đó Thưà ty có thẩm quyền xét xử những
vụ kiện đặc biệt (điền thổ, hộ hôn, công nợ, thuế khoá, phân định điạ giới hành
chính giữa các làng, khiếu kiện việc bầu cử xã trưởng…), Hiến Ty có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ sang đoạt tài sản, ức hiếp do các quan lại cầm quyền
gây ra, các vụ sách nhiễu cuả viên chức thu thuế, việc mua bán cuả các nhà chức
trách, các vụ sách nhiễu trong thi hành các trát án, việc giả mạo dấu má hay tư
cách sai nha…[9,Tr 141-152].


9

Dưới triều Nguyễn, có cơ quan phụ trách giải oan cho dân là Tam pháp
ty[26,Tr187]. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) theo tấu trình của đình thần, Vua
đã chuẩn cho quy định: Hàng tháng, cứ đến ngày 6, 16 và 26 thì Tam pháp ty mở
hội đồng để nhận các đơn kiện của dân. Tuy nhiên, đối với những việc thật cần
kíp, khẩn thiết không thể đợi đến nhật kỳ nhận đơn thì cho phép bất cứ lúc nào
dân cũng có quyền đến triều đình đánh trống kêu oan. Trước Công chính đường
có treo một cái trống gọi là trống Đăng Văn để cho ai có việc oan thì đến đánh
trống ấy và nộp đơn kêu oan. Dân có quyền kêu oan tới Vua thì cũng có nghĩa vụ
bảo đảm cho việc cáo oan nghiên túc. Nếu không phải sự việc khẩn thiết mà cứ
đánh trống đưa đơn kêu thì việc dẫu có thật cũng bị đóng gông 10 ngày để ngoài
sân, đến khi mãn hạn còn bị phạt đánh 100 trượng, nếu có vu cáo thì chiếu theo
tội vu cáo mà bắt chịu tội [38, Tr143] . Theo luật lệ triều Nguyễn lúc đó kẻ nào
đón xa giá nhà vua hoặc đánh trống Đăng Văn để khiếu oan mà việc không có gì
khẩn thiết thì bị xử phạt 100 trượng; nếu khiếu oan không có sự thực thì theo
mức nặng của tội vu cáo mà xử tội.
Các quy định trên chứng tỏ nhà nước phong kiến Việt Nam cũng có quan tâm
đến việc khiếu kiện của dân. Không ít quan lại làm điều phi pháp nếu bị kiện đến
tai vua thì bị trừng trị thích đáng như: Cách chức; thu hồi áo, mão…Theo Đại
Nam Thực Lục Chính Biên vào năm 1832 bọn lại viên và người coi kho ở Sơn

Nam và Hải Dương có ý gian đem cái quan hộc dùng để đong gạo thu thuế đẽo
đáy cho trũng xuống và mỗi lần đong thì nặng tay ấn gạo xuống để lạm thu cho
nhiều… Khi vụ việc bị khiếu kiện, nhà Vua đã ra lệnh chém bêu đầu những kẻ
cầm đầu, đục lấy mỗi bên một mảnh xương sọ, phơi gió cho khô, treo ở cửa để
răn đe người khác. Vua còn bảo quần thần rằng: “Lấy được mảnh xương sọ mà


10

cứu được ức muôn người khỏi khổ luỵ, thì dù có mang tiếng là hình phạt tàn
khốc cũng không hề gì” [38, Tr144].

1.1.2. Thời Ngụy quyền Sài Gòn
Năm 1885 kinh đô thất thủ, vua nhà Nguyễn thực tế lúc đó không còn quyền
hành thực sự nên Tam pháp ty bị bị bỏ, trống Đồng Văn bị dẹp. Cũng kể từ thời
điểm này, đất nước ta luôn chìm trong khói lửa chiến tranh cho đến năm 1954,
bằng các thoả thuận tại Hiệp định Géneve đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành
hai miền Nam - Bắc.
Tại miền Nam Việt Nam kế thừa Dụ số 2 ngày 05/01/1950 (được ban hành
khi Việt Nam còn là thành viên trong Khối liên hiệp Pháp), chính quyền Ngô
Đình Diệm tiếp tục ban hành Dụ số 36 ngày 08/11/1954 tiếp tục duy trì tổ chức
Tòa hành chính và Dụ số 38 ngày 09/11/1954 về việc thành lập Tham chính
viện.
Theo các quy định có liên quan thì Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các vụ án đòi bồi thường liên quan đến pháp nhân hành chính, các vụ kiện
xin thủ tiêu các QĐHC có tính cách cá nhân liên quan đến tình trạng hành chính
của công chức cấp trung, cấp thấp, các vụ tranh tụng liên quan đến tuyển cử hội
đồng hàng tỉnh, hàng quận, hàng xã; sơ và chung thẩm các vụ kiện liên quan đến
thuế trực thu và các thuế đồng hoá với thuế trực thu. Tham chính viện là cơ quan
cấp trên của Toà hành chính, trong đó có Ban tài phán có thẩm quyền xét xử

phúc thẩm các bản án do Toà hành chính đã xử sơ thẩm; xét xử sơ và chung thẩm
những việc xin thủ tiêu các QĐHC cá biệt hay lập quy có vi phạm, các vụ tranh
tụng liên quan đến tình trạng hành chính của các công chức cao cấp…


11

Ngoài ra, trong tổ chức Tối cao pháp viện còn có Ban bảo hiến có thẩm
quyền giải thích luật; xem xét tính hợp hiến của các đạo luật, sắc lệnh, nghị
định…và Ban phá án có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm các bản án đã
có hiệu lực pháp luật [38, Tr148].
1.1.3 Ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau 1975
Tại miền Bắc Việt Nam, chính quyền thuộc về nhân dân. Đảng và Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chủ trương xây dựng một nhà nước Việt Nam của
dân, do dân và vì dân: “Tất cả quyền binh trong nước là của tòan thể nhân
dân”( Điều 1 Hiến pháp 1946) “Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước phải dưạ
vào dân, lắng nghe ý kiến và chiụ sự kiểm sóat cuả nhân dân. Tất cả các nhân
viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân
theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”( Điều 29 Hiến
pháp 1959); “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu nại và
tố cáo với bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi vi phạm pháp luật cuả
nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xem xét
và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm pháp luật cuả
nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường “(Điều 73, Hiến pháp
1980).
Từ ngày 30/4/1975 đất nước được thống nhất. Kế thưà các quy định về
quyền khiếu nại, tố cáo cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức do nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa quy định, Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hoà
XHCN Việt Nam tiếp tục ban hành các quy định có liên quan như: Tất cả các cơ
quan nhà nước từ trung ương đến điạ phương phải trả lời kịp thời và đầy đủ tất cả

các vấn đề cuả nhân dân đặt ra [ 67,Tr1030]. Một sự kiện đáng ghi nhớ là ngày
07/11/1979 Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 363/TTg trong đó quy định:


12

Sau khi xác minh sự phản ánh cuả quần chúng, báo, đài có thể tự động đăng công
khai các vấn đề để đấu tranh chống tiêu cực. Trong thời hạn 30 ngày các cơ quan
liên quan phải trả lời việc được báo đài nêu lên hoặc chuyển thư đến.
Ngày 27/11/1981 Hội đồng nhà nước đã ban hành Pháp lệnh quy định việc
xét và giải quyết KNTC cuả công dân (Pháp lệnh 1981); quy định về quyền
KNTC cuả công dân đến các cơ quan hành chính nhà nước và thủ tục giải quyết
KNTC cuả công dân tại các cơ quan hành chính nhà nước. Ngày 02/5/1991 Hội
đồng nhà nước có Pháp lệnh KNTC cuả công dân (Pháp lệnh 1991) để thay thế
cho Pháp lệnh 1981. Đến ngày 02/12/1998 Pháp lệnh 1991 được nâng lên thành
một đạo luật là Luật KNTC (Luật 1998).
Đặc biệt, moät bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của pháp luật
về giải quyết KKHC ở nước ta là ngày 21/5/1996 Uỷ ban thường vụ quốc hội
thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, có hiệu lực từ ngày
01/7/1996 (Pháp lệnh 1996). Theo đó trong một số trường hợp, ngoài việc khiếu
nại theo thủ tục KNTC, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức còn có quyền khởi kiện vụ
án hành chính đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp cuả mình khi bị các QÑHC, HVHC cuả các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước xâm phạm. Vấn đề này
sẽ được xem xét cụ thể trong các phần sau.
1.2. Khái niệm và tính chất của khiếu kiện hành chính
1.2.1. Khái niệm khiếu kiện hành chính
Xem xét quá trình phát triển của quyền khiếu nại, KKHC trong lịch sử như
trên đã cho ta những nét khái quát về KKHC. Nhưng về mặt pháp lý, cho đến nay
vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào định nghĩa khái niệm KKHC là



13

gì. Tuy nhiên, thông qua việc sử dụng thuật ngữ “khiếu kiện hành chính”, tại
Pháp lệnh 1996 và việc sử dụng của các luật gia, các nhà khoa học thì nó được
hiểu theo hai cách:
Theo nghĩa hẹp, “khiếu kiện hành chính” được hiểu là việc cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi
bị QÑHC, HVHC xâm phạm. Với ý nghĩa này thì khái niệm KKHC đồng nhất
với khái niệm khởi kiện hành chính [ 23, Tr 944 và 986].
Theo nghĩa rộng, “khiếu kiện hành chính” là việc cá nhân, cơ quan tổ chức
khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại
Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị QÑHC, HVHC
xâm phạm[45,Tr2-3], [40,Tr1]. Khái niệm KKHC maø đề tài này nghieân cöùu
được hiểu theo nghĩa rộng.
KKHC là sự biểu hiện cuả tranh chấp hành chính phát sinh trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý nhà nước giữa một bên là cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước với một bên là các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khi các chủ thể này tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính.
Để hiểu rõ thêm về khái niệm KKHC ta cần tìm hiểu thêm về một số khái
niện liên quan như: Quyết định hành chính, hành vi hành chính, khiếu nại hành
chính, khởi kiện hành chính.
+ “Quyết định hành chính” hiểu theo nghĩa rộng là các quyết định do cơ quan
nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban hành để thực
hiện chức năng quản lý nhà nước, bao gồm quyết định quy phạm pháp luật hành
chính và QĐHC cá biệt (ngoài hai loại quyết định trên, có quan điểm còn đưa
thêm một số lọai QĐHC khác như: Quyết định chung hay còn gọi là quyết định
chính sách [24.Tr137], [34,Tr99], quyết định chỉ đạo, hướng dẫn[28,tr67] nhưng



14

theo quan điểm của chúng tôi thì các lọai quyết định này cũng chỉ là các dạng cụ
thể của quyết định quy phạm pháp luật hoặc QĐHC cá biệt) . Hiện nay, pháp luật
cuả chúng ta chưa có các quy định về khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện đối với
các quyết định quy phạm pháp luật. Khái niệm QĐHC (đối tượng KKHC) được
hiểu là các quyết định cá biệt. Theo khoản 10 Điều 2 Luật 1998 và khoản 1 Điều
4 Pháp lệnh 1996, khái niệm “quyết định hành chính” được định nghĩa như sau:
“Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp
dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý nhà nước”. Với định nghĩa này, QĐHC được xác định
bởi những dấu hiệu đặc trưng sau:
- Là một mệnh lệnh mang tính bắt buộc thi hành (khác với các văn bản hành
chính khác như: công văn, báo cáo, tờ trình, diễn văn…. không chứa đựng các
mệnh lệnh hành chính).
- Phải được thể hiện bằng văn bản (khác với hành vi hành chính, có thể bằng
văn bản, bằng hành động hoặc không hành động).
- Phải do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền của cơ
quan hành chính nhà nước ban hành (phân biệt với các quyết định do các cơ
quan, tổ chức khác ban hành).
- Được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn
đề cụ thể trong hoạt động quản lý nhà nước (phân biệt với văn bản quy phạm
pháp luật:
mang tính bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần).
+ “Hành vi hành chính” là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc
người có thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện các nhiệm



15

vụ, công vụ (khoản 11 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo và khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).
HVHC có thể bằng văn bản nhưng không chứa đựng mệnh lệnh, có thể chứa
đựng mệnh lệnh nhưng không bằng văn bản, có thể là hành động (như: khám xét
người, thu, giữ, làm hư hỏng tài sản…), có thể là không hành động (không thực
hiện các công vụ, nhiệm vụ của mình, như: Không cấp giấy phép xây dựng,
không giao đất, không thu hồi giấy chứng nhận đã cấp…).
+ “Khiếu nại hành chính” là việc người khiếu nại đề nghị cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xem xét lại QÑHC, HVHC khi có căn cứ cho rằng
QÑHC, HVHC là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp cuả
mình (khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo).
+ “Khởi kiện hành chính” là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức làm đơn kiện
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị QÑHC,HVHC
xâm phạm ( tham khảo khỏan 5 Điều 4 Pháp lệnh TTGQCVAHC).
1.2.2. Tính chất của khiếu kiện hành chính
Do tính đa dạng cuả khái niệm KKHC nên việc nghiên cứu những nét đặc
trưng cuả nó cũng chỉ mang tính tương đối. Đặt trong tổng thể hoạt động quản lý
nhà nước và thể chế chính trị cuả quốc gia, khái niệm KKHC có những tính chất
như: Tính khách quan; Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị; Tính hệ
thống, thứ bậc; Tính bảo đảm bằng pháp luật…
1.2.2.1. Tính khách quan
KKHC là sự việc mang tính khách quan phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước cuả mỗi quốc gia, không phụ thuộc vào hình thức chính thể và chế độ chính
trị cuả quốc gia đó như thế nào. Bởi lẽ về mặt lý luận, theo quan điểm cuả chủ


16


nghĩa Mác - LêNin thì mâu thuẫn chính là động lực cuả sự phát triển, mà KKHC
chính là một sự thể hiện cuả các mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật hành chính. Về mặt thực tiễn thì những sơ suất, sai sót cuả cơ quan
nhà nước, những bất cập cuả bộ máy hành chính là những vấn đề khó tránh khỏi
khi tác nghiệp. Mặt khác, với sự phát triển không ngừng cuả xã hội thì mỗi một
thao tác hành chính trong thực tế cũng luôn chứa đựng các yếu tố không phù hợp,
dù rất nhỏ và ngay bản thân các chủ thể là đối tượng bị quản lý khi tham gia vào
quan hệ hành chính cũng luôn đòi hỏi nhận được một sự quản lý “hoàn hảo”, mà
sự hoàn hảo thì luôn mang tính tương đối.
Luôn tồn tại với tư cách là một thực tế khách quan, KKHC đòi hỏi các quốc
gia không được phủ nhận mà phải nhìn nhận và có các hình thức, biện pháp tổ
chức giải quyết các khiếu kiện này một cách hợp lý, hiệu quả nhằm làm lành
mạnh hoá các quan hệ pháp luật hành chính, thúc đẩy xã hội phát triển triển theo
đúng định hướng cuả nhà cầm quyền.
1.2.2.2. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Nhà nước nói chung, hệ thống hành chính nhà nước nói riêng có hai chức
năng: duy trì trật tự chung, lợi ích chung cuả xã hội và bảo vệ quyền và lợi ích
cuả giai cấp cầm quyền. Theo quan điểm cuả Các-Mác thì chính trị là lĩnh vực
thể hiện ý chí, lợi ích cuả giai cấp thống trị. Như vậy, KKHC trước hết phải phù
hợp với lợi ích chính trị cuả giai cấp cầm quyền và không làm phương hại đến lợi
ích chung cuả giai cấp cầm quyền.
Ở nước ta, Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước cuả dân, do
dân và vì dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội
ngũ trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Do đó, KKHC cũng phải được thực


17

hiện phù hợp với lợi ích chung cuả giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao
động.

1.2.2.3. Tính hệ thống, thứ bậc
Quản lý nhà nước là một hệ thống theo thứ bậc chặt chẽ và thông suốt từ
trung ương đến điạ phương, trong đó cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị,
mệnh lệnh và chiụ sự kiểm tra thường xuyên cuả cấp trên. Mỗi cấp cơ quan, mỗi
cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan nhà nước đều hoạt động trong phạm vi
thẩm quyền được giao. Do vậy, KKHC cũng phải được thực hiện theo thứ bậc
tương ứng, tức là việc khiếu kiện cũng phải được thực hiện theo nguyên tắc từ
dưới lên trên.
1.2.2.4. Tính bảo đảm bằng pháp luật
Quan hệ pháp luật hành chính là một quan hệ không bình đẳng giữa một
bên là các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước với bên kia là các cá
nhân, cơ quan, tổ chức là đối tượng bị quản lý phải tuân thủ các quyết định quản
lý, hành vi quản lý cuả chủ thể quản lý theo nguyên tắc phục tùng. Do đó, để bảo
đảm quyền KKHC cuả người khiếu kiện và bảo đảm trật tự cuả quản lý nhà
nước, việc KKHC phải được quy định bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng
pháp luật.
1.3. Phân loại khiếu kiện hành chính
Phân loại KKHC là việc laøm cần thiết để hiểu rõ các loại khiếu kiện, là cách
thức để tìm kiếm sự trùng lắp, chồng chéo cuả từng loại khiếu kiện, đảm bảo cho
quá trình nghiên cứu được tiếp cận một cách bao quát, trọn vẹn, hoàn chỉnh, tạo
cơ sở khách quan cho việc xác định mô hình giải quyết khiếu kiện tương ứng,


18

tránh sự rắc rối, chồng chéo, bỏ trống, giành giật, đổ lỗi cho nhau giữa các cơ
quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu kiện.
Việc phân loại KKHC có thể dưạ vào nhiều tiêu chí khác nhau. Cũng giống
như caùc phân loại khác, phân loại khiếu kiện hành chính cuõng chỉ mang tính chất

tương đối.
+ Theo chủ thể giải quyết khiếu kiện, KKHC bao gồm hai loại: khiếu nại đến
các cơ quan hành chính nhà nước (khiếu nại hành chính) và khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án có thẩm quyền. Đây là cách phân loại chung nhất và có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn quan trọng nhất.
+ Dưạ vào các lĩnh vực quản lý nhà nước, KKHC có thể phân thành:
- KKHC trong lĩnh vực quản lý kinh tế;
- KKHC trong lĩnh vực quản lý văn hoá - xã hội;
- KKHC trong lĩnh vực quản lý về hành chính, chính trị.
+ Dưạ vào đặc trưng cuả đối tượng bị quản lý, KKHC được chia thành:
- KKHC trong quản lý đô thị;
- KKHC trong quản lý nông thôn.
+ Dưạ vào đối tượng khiếu kiện, KKHC được chia thành:
- Khiếu kiện QĐHC;
- Khiếu kiện HVHC.
+ Dưạ vào chủ thể bị khiếu kiện, KKHC được chia thành:
- Khiếu kiện QÑHC, HVHC cuả cơ quan nhà nước;
- Khiếu kiện QÑHC, HVHC cuả cán bộ, công chức, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước;
Hoặc:


19

- Khiếu kiện QÑHC, HVHC cuả cơ quan nhà nước, cuả cán bộ, công chức,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước cấp trung ương.
- Khiếu kiện QÑHC, HVHC cuả cơ quan nhà nước, cuả cán bộ, công chức,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước các cấp điạ phương.
+ Dưạ vào tính bảo mật cuả các thông tin liên quan, khiếu kiện hành chính
được chia thành:

- KKHC thuộc hoặc có liên quan đến bí mật quốc gia;
- KKHC thuộc hoặc có liên quan đến bí mật an ninh, quốc phòng;
- KKHC thuộc hoặc có liên quan đến bí mật cuả bộ, ngành;
- KKHC khác.
1.4. Ý nghĩa của khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế ở Việt Nam
KKHC có tính chất hai mặt. Một mặt nó là hình thức thể hiện quyền cá nhân
trong việc tự do đánh giá họat động của công quyền nhằm bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của mình,với ý nghĩa tích cực này họat động KKHC đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của quyền lực, đem lại các hiệu quả ích lợi cho
xã hội. Cùng với mặt tích cực trên, nếu KKHC vượt quá mức cho phép hoặc bị
lạm dụng, trong xã hội sẽ xuất hiện hiện tượng thiếu lành mạnh lôi cuốn dư luận
và các nguồn lực vào hướng thiếu ổn định, gây ảnh hươởg đến sự phát triển bền
vững [35,Tr4].
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, việc xây dựng một nhà nước
thực sự là cuả dân, do dân và vì dân như Điều 2 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng
định là một trong những nhiệm vụ bức xúc, vô cùng quan trọng.


20

Ý thức được tầm quan trọng cuả KKHC, trong thực tiễn quản lý thông qua
việc nghiên cứu và thực tiễn giải quyết các khiếu kiện hành chính, Đảng và Nhà
nước ta đã kịp thời có các chính sách, pháp luật phù hợp để tổ chức tốt hoạt động
giải quyết khiếu kiện. Thông qua các KKHC chúng ta cũng có thể phát hiện ra
những quy định cuả pháp luật không còn phù hợp, nắm được tâm tư, nguyện
vọng cuả nhân dân để từ đó có những sưả đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp
luật, đặc biệt là các quy định liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp cuả các cá
nhân, cơ quan, tổ chức. làm cho pháp luật cuả Nhà nước ta thực sự là pháp luật

mang tính nhân văn, nhân đạo, phục vụ con người, vì con người.
Qua các KKHC chúng ta cũng có thể phát hiện ra những yếu tố bất hợp lý
cuả bộ máy hành chính, các yếu kém, tiêu cực cuả một số cán bộ, công chức nhà
nước để từ đó có những chấn chỉnh, xử lý kịp thời nhằm bảo đảm cho pháp luật
cuả Nhà nước ta được chấp hành nghiêm chỉnh, tất cả các cơ quan nhà nước, các
nhân viên nhà nước đều phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp luật.
Thông qua KKHC cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chúng ta cũng phát hiện
các quyền lợi hợp pháp cuả các chủ thể bị QÑHC, HVHC xâm phạm, để từ đó có
các biện pháp, hình thức khắc phục nhằm khôi phục các quyền lợi hợp pháp cuả
các chủ thể, bảo đảm các quyền tự do, lợi ích cuả công dân phải được không
ngừng mở rộng và được pháp luật bảo hộ.
Thay vì lưạ chọn các hình thức phản ứng tiêu cực trước sự xâm hại cuả các
QÑHC, HVHC như la hét, chống đối…, việc khiếu kiện đến các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong khuôn khổ pháp luật cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức
cũng thể hiện sự tôn trọng pháp luật, sự tin tưởng vào việc giải quyết đúng đắn
các khiếu kiện cuả cơ quan nhà nước.


21

Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghiã, từ năm 1986 đến nay Nhà nước ta đã không ngừng có các chính sách
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, do cơ chế quản lý kinh tế cũ đã tồn tại suốt một thời gian dài nên cho dù
chúng ta có chuyển đổi sang cơ chế quản lý mới thì các thói quen, sự ảnh hưởng
cuả cơ chế cũ cũng vẫn còn và tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh các
doanh nghiệp. KKHC chính là một kênh thông tin giúp chúng ta phát hiện và có
các chấn chỉnh kịp thời.
Thực tế đã chứng minh, qua việc giải quyết một số khiếu kiện cụ thể cuả các
doanh nghiệp, chúng ta đã phát hiện được sự không phù hợp trong các quy định

cuả pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục hải quan, áp thuế suất hàng
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân…, từ đó có những hướng dẫn, giải thích hoặc quy định điều chỉnh lại cho
phù hợp.
Với chính sách mở cưả và hội nhập quốc tế, từ năm 1977 chúng ta đã trở
thành thành viên cuả Liên hiệp quốc, những năm 1980 chúng ta đã hội nhập kinh
tế đa phương thông qua Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Ngày13/7/2000 Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ đã ký Hiệp định thương mại song phương
Việt Nam- Hoa Kỳ. Đặc biệt bằng việc ký kết Nghị định thư ngày 07/11/2006,
Việt Nam đã chính thức tham gia làm thành viên thứ 150 cuả Tổ chức thương
mại thế giới (WTO). Qua nghiên cứu một số quy định cuả Hiệp định thương mại
song phương Việt Nam- Hoa Kỳ (HĐTMVM) và các quy định cuả WTO liên
quan đến KKHC, chúng ta có thể thấy rõ các đòi hỏi về một cơ chế pháp lý cho
việc KKHC khi thực hiện HĐTMVM và tham gia WTO:


×