Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU CÁC YẾU TỐ GÂY THỦNG TẦNG OZONE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.13 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Nội dung nghiên cứu
CHƯƠNG I: OZON
1.1 Tính chất vật lý của ozon
1.2 Tính chất hóa học của tầng ozon
1.3 Quá trình tạo thành và phân hủy ozon trong khí quyển
1.4 Lỗ thủng tầng ozon
CHƯƠNG II: KHÍ CFC & OZONE
1. Tổng quan về khí CFC
2. Nguyên nhân hình thành khí CFC
3. Cơ chế phân hủy ozon của khí CFCs
4. Ảnh hưởng của khí CFCs đến tầng ozone
CHƯƠNG III: HIỆN TRẠNG LỖ THỦNG TẦNG OZON
CHƯƠNG IV: HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU CÁC YẾU TỐ GÂY
THỦNG TẦNG OZONE
1. Hậu quả
2. Biện pháp
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, vấn đề thủng tầng ozon là một vấn đề mag tính cấp thiết và quan trọng
đối với nhân loại. Con người, động vật, thực vật,… sẽ gặp những khó khăn khi
tầng ozon bị tổn thương. Khi tầng ozon bị thủng, những tia cực tím từ Mặt Trời


sẽ chiếu xuống Trái Đất gây ra những vấn đề về sức khỏe và môi trường xung
quanh. Có thể nói rằng tầng ozon như một lá chắn khổng lồ bao quanh Trái Đất,
bảo vệ hành tinh của chúng ta.
Con người phát hiện ra tầng ozon từ khoảng 150 năm trước. Các nhà nghiên cứu
khoa học hiện nay, đã phát hiện ra sự thay đổi của tầng ozon với diện tích lớn.
Vì vậy, nhóm chúng tôi thực hiện bài nghiên cứu này để hiểu rõ hơn về tầng
ozon cũng như là nguyên nhân dẫn đến thủng tầng ozon ở Nam Cực.
2. Mục đích
- Tìm hiểu về tầng ozon trong khí quyển.
- Quá trình hình thành và phân hủy ozon.
- Tìm hiểu cơ chế, nguyên nhân gây thủng tầng ozon.
- Tìm hiểu hiện trạng lỗ thủng tầng ozon ở Nam Cực.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: ozon và hiện tượng thủng tầng ozon
- Phạm vi: Nam Cực
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương phá thu thập và tập hợp tài liệu.
- Phương pháp đánh giá nhanh.
5. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng về hiện tượng thủng tầng ozon ở Nam Cực
- Nguyên nhân gây thủng tầng ozon


- Đề xuất phương pháp giải pháp làm giảm thiểu hiện tượng thủng tầng ozon
ở Nam Cực.


CHƯƠNG I: OZON
1.1.


Tính chất vật lý của ozon

Ozon (O3) là chất khí có màu lam nhạt, có mùi hắc đặc trưng và trong suốt; ở nồng
độ cao có màu xanh da trời, ở thể lỏng có màu lục thẫm…; nhiệt độ nóng chảy là
-193°C, nhiệt độ sôi là -111,9°C; tỷ trọng (so với không khí) d = 1,6858; trong môi
trường nước có độ pH = 0 có thế oxy hóa khử là 2,07V. Ozone là chất hấp thụ mạnh
các tia tử ngoại, tia nhìn thấy và tia hồng ngoại. Ozone có khả năng hấp thụ cao nhất ở
bước sóng là 254nm đối với các tia tử ngoại, ở bước sóng là 600nm đối với các tia
nhìn thấy và ở bước sóng là 900nm đối với tia hồng ngoại.
Ozone dễ hòa tan trong nước hơn oxy và sự hòa tan của ozone trong nước phụ
thuộc vào nhiệt độ và áp suất riêng phần của nó trong không khí, khi nhiệt dộ càng
tăng khả năng hòa tan Ozone trong nước càng giảm.
1.2.

Tính chất hóa học của Ozon

-

Ozon có hoạt tính oxy hóa rất cao, đóng vai trò như một tác nhân oxy hóa mạnh
trong rất nhiều phản ứng hóa học như: phản ứng với các chất hữu cơ ( Phenol,
các hợp chất đa vòng, các hợp chất Amin, các hợp chất có liên kết đôi (C=C) và
liên kết đơn (C-H)…), Ngoài ra, ozon còn có khả năng khử mùi, màu, khử
trùng đối với nước và nước tahir.

-

Ozon không bền, dễ dàng bị phân hủy thành Oxi phân tử và Oxi nguyên tử

Ví dụ: O3 = O2 + O
-


Dễ dàng oxi hóa các iodua đến iot tự do: O3 + 2KI +H2O = I2 + O2 + 2 KOH

-

Giấy tẩm dung dịch Kali iodua và hồ tinh bột (giấy iot tinh bột) chuyển ngay
thành màu xanh khi có mặt Ozon trong không khí.

-

Tác dụng với các phân tử thuộc nhóm Halogen Flo, Clo, Brom, Iot.

-

Khử các chất gây ô nhiễm có trong nước bằng phương phương pháp hóa học
(sắt, asen, hidro sulfid, nitorit và các chất hữu cơ phức tạp liên kết với nhau tạo
ra “màu” của nước)

1.3.

Quá trình hình thành và phân hủy ozon trong khí quyển.

1.3.1. Quá trình hình thành ozon trong khí quyển
- Quá trình tạo thành ozon trong khí quyển: Trong tự nhiên ôzôn được tạo ra do
các phản ứng quang hóa của oxy, oxit nitơ, đặc biệt ôzôn được tạo ra mạnh tại
các tầng cao (bình lưu) của khí quyển, nơi mà cường độ các tia ánh sáng cứng
(cực tím, tia X, v.v...) rất lớn.


-Ôzon trong bầu khí quyển được tạo thành khi các tia cực tím chạm phải các

phân tử oxy, tạo thành hai nguyên tử oxy đơn, được gọi là oxy nguyên tử Ôxy
nguyên tử kết hợp cùng một phân tử oxy tạo thành phân tủ ozon. Phân tử ozon
có hoạt tính cao, khi bị tia cực tím chạm phải, lại tách ra thành một phân tử oxy
và một oxy phân tủ. Đây là một quá trình liên tục gọi là chu kỳ ôxy-ôzon.
O2(k) + hν → O*(k) + O(k)
O2(k) + hν → 2 O(k)

λ < 175 nm
175 nm < λ < 245 nm

M
O* (k) 
→ O(k)

O2(k) + O(k) → O3(k)
- Ozon trong tầng đối lưu được hình thành từ các chất khí tạo ra trong quá trình sản
xuất công nghiệp, hoạt động giao thông dưới tác dụng của bức xạ cực tím của mặt
trời.
NO2 + hv  NO + O
O + O 2  O3
- Khi tia cực tím chiếu vào ozon, nó chia ozon thành phân tử O 2 và nguyên tử của
oxy nguyên tử. Oxy nguyên tử kết hợp với N 2 để tạo thành các nito oxit, sau đó nó
bị phá vỡ bởi ánh sáng nhìn thấy để tái tạo ozon.
- Trong công nghiệp, người ta tạo ôzôn bằng cách phóng điện trong ôxy hoặc trong
không khí.
1.3.2. Quá trình phân hủy ozon trong khí quyển
- Quá trình phân hủy ozon trong khí quyển: ozon trong tầng bình lưu và đối lưu
bị phân hủy bởi các tia tử ngoại như sau:
O3(k) + hν →


O*(k) + O2(k)

O3(k) + hν →

O(k) + O2(k)

λ < 310 nm
λ > 310 nm

O3(k) + O(k) → 2O2 (k)
Các nitơ oxít cũng có vai trò là tác nhân trong chu trình tạo thành và phân hủy
ozon.
N2O(k) + O*(k) → 2 NO(k)
NO(k) + O3(k) → NO2(k) + O2(k)
NO2(k) + O(k) → NO(k) + O2(k)


O3(k) + O(k) → 2 O2 (k)
Các oxít nitơ tham gia và được tạo thành sau phản ứng đóng vai trò như chất
xúc tác, tạo nên phản ứng dây chuyền phân hủy ozon. Ở phía trên của tầng bình lưu,
độ dài mạch của phản ứng dây chuyền do xúc tác oxít nitơ có thể đến 10 5. Điều này
tương đương với 105 mol ozon bị phân hủy trước khi một mol oxít nitơ bị loại khỏi
dây chuyền bởi sự tạo thành axit nitric và axit peroxinitric.
Các tác nhân phân hủy ozon phổ biến khác gồm hợp chất của hydro và cacbon
diễn ra theo một loạt các phản ứng sau:
O*(k) + H2O (k) → 2 HO•(k)
O*(k) + CH4(k) → HO•(k) + CH3•(k)
O*(k) + H2(k) → HO•(k) + H•
HO• (k) + O3(k) → HO2• (k) + O2(k)
HO2•(k) + O3(k) → HO• (k) + 2O2(k)

Phương trình tổng thu được: 2O3(k) → 3O2(k)
HO2•(k) bị loại khỏi quá trình trên theo phản ứng:
HO2•(k) + HO•(k) → H2O(k) + O2(k)
Ngoài ra ozon có thể bị phá hủy bởi các nguyên tử clo, flo hay brom trong bầu
khí quyển. Các nguyên tố này có trong một số hợp chất bền nhất định, đặc biệt là
chlorofluorocacbon (CFC), đi vào tầng bình lưu và được giải phóng bởi các tia cực
tím.
Các nguyên tử clo được tạo thành sẽ trở thành chất xúc tác phá hủy các phân tử
ozon trong một chu trình khép kín. Trong chu kỳ này, một nguyên tử clo tác dụng với
phân tử ozon, lấy đi một nguyên tử oxy (tạo thành ClO) và để lại một phân tử oxy bình
thường. Tiếp theo, một oxy nguyên tử tự do sẽ lấy đi oxy từ ClO và cuối cùng là một
phân tử oxy và một nguyên tử clo, bắt đầu lại chu kỳ. Một nguyên tử clo đơn độc sẽ
phân hủy khoảng 100.000 phân tử ozon.
1.4.

Lỗ thủng tầng ozon


CHƯƠNG II: KHÍ CFC & OZON
1. Tổng quan về khí CFC
Cloroflorocacbon (CFC). CFC là kí hiệu chung của các khí được tổng hợp bằng
cách thay thế toàn bộ các nguyên tử H trong CH 4 hoặc C2H6 bằng các nguyên tử Cl và
F. Các CFC thường gặp là CCl 3F (CFC-11), CCl2F2 (CFC-12), C2Cl3F3 (CFC-113),
C2Cl2F4 (CFC-114) và C2ClF5 (CFC-115). CFC được sử dụng lần đầu tiên tại Mỹ vào
thập niên 1930 để làm tác nhân làm lạnh. Trong số các CFC thì CFC-11 (CCl 3F) và
CFC-12 (CCl2F2) được dùng phổ biến nhất. Nồng độ của chúng trong khí quyển lần
lượt là 0,280 ppbv và 0,484 ppbv. CFC là các chất trơ về mặt hóa học, không độc,
không cháy, không mùi, nhiệt độ sôi thấp nhưng dễ bị hóa lỏng dưới áp suất, do đó
chúng được xem là các chất lý tưởng để làm tác nhân làm lạnh cho tủ lạnh. Từ khi
CFC được tìm ra, tủ lạnh trở thành thông dụng. Trước đó các tác nhân làm lạnh như

SO2, NH3, đều là các chất độc, nên tủ lạnh chỉ được dùng trong công nghiệp. Ngoài ra,
CFC còn được dùng làm dung môi, chất tạo xốp khi sản xuất đệm, chất đẩy trong các
bình xịt khí. Do có ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nên sản lượng CFC trước đây liên
tục gia tăng. Do khá trơ về mặt hóa học, có thời gian lưu trong khí quyển rất dài (hàng
chục, thậm chí hàng trăm năm), nên hiện nay các CFC đã phân bố khắp tầng đối lưu và
một phần đã thâm nhập vào tầng bình lưu.
Bảng 3.1. Các chất CFC chủ yếu
Chất CFC

Phạm vi sử dụng

Freon 11- triclofloruametan

Hệ thống điều hoà không khí, hệ thống lạnh,

CFCl3
Freon 12 – Diclofloruanmetan
CF2Cl2
Freon 12- CF3Cl
Freon 22- CHF2Cl
Freon 114CF2ClCF2Cl(C2F4Cl2)

chất bọt làm sạch, chất đẩy sol khí
Hệ thống lạnh, chất đẩy sol khí, chất khử trùng
Hệ thống lạnh
Chất đẩy sol khí
Hệ thống lạnh, chất tự làm sạch, chất đẩy sol
khí

Freon 115- CF2ClCF3 (C2F5Cl)

Chất halon:CF2ClBr

Dập tắt lửa


CFC cũng như các chất halon là các chất có tính ổn định cao. Tuy nhiên bức xạ
cực tím (sóng ngắn) xuất hiện trong tầng bình lưu phân li chúng. Các phân tử Cl, F, Br
của CFC và halon được biến đổi thành các nguyên tử (gốc) tự do hoạt tính nhờ các
phản ứng quang hoá:
CFCl3 + hv => CFCl2 + Cl
CFCl2 + hv => CFCl + Cl
CF2Cl2 + hv => CF2Cl + Cl
CF2Cl + hv => CFCl + Cl
Các nguyên tử Cl, F, Br tác dụng huỷ diệt O3 theo phản ứng:
Cl + O3 => ClO + O2
ClO +O3 => Cl +2O2
Như vậy một nguyên tử Cl (hay F, Br) có thể tác dụng với 100000 phân tử O 3
để biến O3 thành O2.
Nồng độ, thời gian và tác dụng phân huỷ O3 của một số CFC như sau:
Bảng 3.2. Các số liệu một số hợp chất CFC gây lỗ thủng tầng Ozone
Nồng độ
Tên gọi

Công thức

trong khí

hoá học

quyển toàn

cầu (ppb)

tồn tại
trong khí
quển

CH3Cl
CFCl3
CF2Cl2

0.62
0.28
0.48

(năm)
2–3
~ 83
>80

CCl4

0.12

CH3CCl3

0.12

Metil clorua
CFC (Freon)11
CFC (Freon) 12

Cacbon
tetraclorua
Tricloetan

Thời gian

Tỉ lệ phát
thải đến
tầng bình
lưu (%)

Tác dụng
phân huỷ O3
ở tầng bình
lưu (107

<=3
100
100

kg/năm)
6.1
2.7
3.9

50

<=100

1.2


~9

9

3.8

Bảng 3.3. Ước tính phần trăm phát thải của các hợp chất clo trong tầng bình lưu
Tên thương mại/Tên hóa học

Công thức hóa học

CFC-12

CF2Cl2(k)

Phần trăm phát thải
(%)
28


Tên thương mại/Tên hóa học

Công thức hóa học

CFC-11
Cacbon tetraclorit
Metyl cloroform
CFC-113
HCFC-22


CFCl3(k)
CCl4(k)
CH3CCl3(k)
CFCl2CF2Cl(k)
CF2ClH(k)

Phần trăm phát thải
(%)
23
12
10
6
3

2. Nguyên nhân hình thành khí CFC
CFC ược sử ụng rất rộng rãi làm chất tải lạnh (trong hệ thống điều hòa không khí và
thiết bị lạnh). CFC cũng được sử dụng như chất đẩy và làm tan sol khí. Năm 1940
người ta đã phát triển loạt CFC được chế tạo dễ dàng làm chúng được nhanh chóng
phổ biến trong nhiều lĩnh vực như chất đẩy khí, dung môi làm sạch, bọt nhựa, bao bì
đựng thức ăn, chất khử trùng dụng cụ phẫu thuật, y tế, thuốc xông miệng, làm sạch và
tẩy nhờn dụng cụ điện,…v…v…. Do khí CFC có tính ăn mòn cao và độ độc (tuy độ
độc thấp), việc sử ụng chúng đã hạn chế nhiều
3. Cơ chế phân hủy ozon của khí CFC
-

CFC là kí hiệu chung của các khí được tổng hợp bằng cách thay thế toàn bộ các
nguyên tử H trong CH4 hoặc C2H6 bằng các nguyên tử Cl và F.

-


Khi CFCs đến được tầng bình lưu, dưới tác dụng của tia cực tím nó bị phân hủy
tạo ra Clo nguyên tử, và Clo nguyên tử có tác dụng như một chất xúc tác để
phân hủy Ozone. Một nguyên tử Clo có thể phá hủy 100.000 phân tử ozone.
Methyl bromide khi lên đến tầng bình lưu sẽ bị tia cực tím phân hủy để cho ra
Brom nguyên tử, một nguyên tử brom có khả năng phá hủy các phân tử ozone
gấp 40-50 lần một nguyên tử clo.


- Phản ứng phân hủy ozon của Clo:
CFCl3(k) + hν → CFCl2•(k) + Cl(k)
CF2Cl2•(k) + hν → CF2Cl•(k) + Cl(k)

λ < 250 nm
λ < 230 nm


Cl(k) + O3(k) → ClO•(k) + O2(k)
ClO•(k) + O(k) → Cl(k) + O2(k)
Phương trình tổng thu được: O(k) + O3(k) → 2O2(k)
Cuối cùng, nguyên tử Cl và gốc ClO • bị loại bỏ khỏi phản ứng dây chuyền khi
có phản ứng với CH4, H2, H2O2, gốc HO2• để tạo thành HCl và ClONO2.
Cl(k) + HO2•(k) → HCl(k) + O2(k)
Cl(k) + H2O2(k) → HCl(k) + HO2•(k)
Cl(k) + CH4(k) → CH3•(k) + HCl(k)
Cl(k) + HO2•(k) → HCl(k) + O2(k)
M
ClO•(k) + NO2(k) 
→ ClONO2(k)


- Phản ứng phân hủy ozon của metylbromit và halon:
Halon là nhóm chất tổng hợp, sử dụng trong chất chống cháy. Các halon thông
dụng gồm CF2ClBr (kí hiệu H-1211), CF3Br (kí hiệu H-1301) và CF2BrCF2Br (kí hiệu
H-2402).
CH3Br(k) + hν → CH3• (k) + Br(k)

λ < 260 nm

Br(k) + O3(k) → BrO• (k) + O2(k)
BrO• (k) + O(k) → Br(k) + O2(k)
Phương trình tổng thu được: O(k) + O3(k) → 2O2(k)
Br(k) + HO2•(k) → HBr(k) + O2(k)
Br(k) + H2O2(k) → HBr(k) + HO2•(k)
M
BrO•(k) + NO2(k) 
→ BrONO2(k)

Nếu các CFC phân tử tồn tại lâu, thời gian tái tạo phải tính bằng thập kỷ. Người
ta tính rằng một phân tử CFC mất trung bình là 15 năm để đi từ mặt đất lên đến các
tầng trên của khí quyển và có thể ở đó khoảng một thế kỷ, phá hủy đến cả trăm ngàn
phân tử ôzôn trong thời gian này.
Hoạt động của các núi lửa sẽ phóng thích vào khí quyển một lượng lớn
chlorine, nhưng nó dễ hoà tan vào hơi nước trong khí quyển và sẽ theo mưa rơi trở
xuống Trái đất. Trong khi đó CFCs không bị phân hủy ở tầng đối lưu và không hòa tan


vào hơi nước, do đó nó có thể dễ dàng lên đến tầng bình lưu. Các kết quả đo đạt từ
1985 cho thấy, việc gia tăng nồng độ của chlorine ở tầng bình lưu tỷ lệ thuận với
lượng CFC sản xuất, sử dụng và phóng thích bởi các hoạt động của con người.


4. Ảnh hưởng của khí CFCs đến tầng ozon
Khí CFCs đi vào tầng bình lưu và tích lũy trong thời gian dài (nhiều năm), làm thoát ra
các gốc Cl, F, Br tự do – những chẩ này phá huy Ozone ở tầng bình lưu và hậu quả của
nó là lớp Ozone bị loãng. Những chỗ bị loang lổ Ozone o bị loãng được hiểu là „Lỗ
thủng ozone“. Lỗ thủng của tầng ozone theo định nghĩa của Cục Môi Trường (EPA) là
khu vực có hàm lượng ozone thấp hơn 220 đơn vị dobson (DU).
CFC là chất ô nhiễm chịu trách nhiệm chính cùng với Nox, CH4 là những chất chủ yếu
gây lỗ thủng Ozone.


CHƯƠNG III: HIỆN TRẠNG LỖ THỦNG TẦNG OZON Ở NAM CỰC
Từ những năm 1980, lỗ thủng tại vùng Nam Cực đã ngày một rộng ra do lượng
khí CFC thải ra quá nhiều.
Con người bắt đầu tiến hành đo đạc tầng ozon từ các trạm trên mặt đất vào năm
1956 ở vịnh Halley, Nam cực. Diện tích lỗ thủng ở Nam cực tháng 9 năm 2000 là
11,4 triệu dặm vuông.
Lỗ thủng lớn thứ 2 hình thành năm 2003 và bao phủ 11,1 triệu dặm vuông.
Những lỗ thủng tầng Ôzôn lớn này che phủ toàn bộ phần Nam Cực và đỉnh phía Nam
của Nam Mỹ. Để dễ hình dung, diện tích bao phủ to gấp ba lần diện tích nước Mỹ
không kể Alaska, hoặc Châu Úc.
Và các số liệu đo đạc về diện tích của lỗ thủng từ năm 1979 đến nay:
Năm 1979. Việc đo lỗ thủng tầng Ôzôn bằng vệ tinh lần đầu tiên được NASA
thực hiện vào năm này.
Năm 1998. Lỗ thủng lớn che phủ 10,5 triệu dặm vuông vào tháng 9 năm 1998.
Đó là kích thước lớn kỷ lục trước năm 2000.
Năm 2000. Lỗ thủng tầng Ôzôn khổng lồ đạt tới 11,4 triệu dặm vuông vào
tháng 9 năm 2000. Đó là lỗ thủng lớn nhất đã từng đo được. Diện tích xấp xỉ ba lần
diện tích nước Mỹ. Sau đó, năm 2003, lỗ thủng tầng Ôzôn che phủ 11,1 triệu dặm
vuông là lỗ thủng lớn thứ 2.
Năm 2001. Vào tháng 9 năm 2001, lỗ thủng tầng Ôzôn bao phủ khoảng 10 triệu

dặm vuông. Lỗ thủng này nhỏ hơn năm 2000, nhưng vẫn lớn hơn tổng diện tích của
Nước Mỹ, Canada và Mexico.
Năm 2002. Lỗ thủng tầng Ôzôn thu hẹp lại và tháng 9 năm 2002 là lỗ thủng
nhỏ nhất từ năm 1998. Lỗ thủng ở Nam Cực năm 2002 không những nhỏ hơn năm
2000 và 2001, mà còn tách ra thành 2 lỗ riêng biệt. Kích thước nhỏ có thể do điều kiện
nóng ấm không bình thường và sự phân tách có thể do các khu vực thời tiết của tầng
bình lưu khác thường.
Năm 2003. Lỗ thủng tầng Ôzôn che phủ 11,1 triệu dặm vuông, và là lỗ thủng
kỷ lục đứng thứ hai. Năm 2000 là năm lỗ thủng lớn nhất. Lỗ thủng lớn do gió lặng và
thời tiết rất lạnh.


Năm 2004. Tháng 9 năm 2004, lỗ thủng là 9,4 triệu dặm vuông. Lỗ thủng này
nhỏ hơn năm 2003, có thể do thời tiết Cực Nam tương đối ấm.
Năm 2005. Lỗ thủng ở tầng Ôzôn phía trên Cực Nam xuất hiện lớn hơn năm
ngoái nhưng vẫn nhỏ hơn năm 2003. Lỗ thủng năm 2005 che phủ khoảng 10 triệu dặm
vuông. Theo số liệu về thời tiết của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) cho thấy mùa
đông 2005 ấm hơn năm 2003, nhưng lạnh hơn năm 2004. Kích thước lỗ thủng năm
2005 gần mức trung bình năm 1995-2004. Lỗ thủng này lớn hơn năm 2004, nhưng nhỏ
hơn năm 2003.
Năm 2006: vào tháng 11, lỗ thủng ozon đo được là 17,6 triệu km2
Năm 2007: lỗ thủng tầng ozon đo được là 27 triệu km2
Năm 2008: Lỗ thủng tầng ozon ở Nam Cực có diện tích đến 27 triệu km 2. Con
số này lớn hơn nhiều so với diện tích lớn nhất của nó được ghi nhận năm 2007 là 25
triệu km2.
Năm 2009: lỗ thủng ozon đo được vào ngày 16/9 là 14 triệu km2
Năm 2010: đạt diện tích lớn nhất, tới 30 triệu km 2, tức là rộng gấp 3 lần nước
Úc và bằng cả Bắc Mỹ
Năm 2011: có diện tích bằng năm 2006
Năm 2012: lỗ thủng đo được vào ngày 22/9 là 21,2 triệu km2



Hình 2.1. Lổ thủng tầng ozone qua các năm (màu xanh dương là vùng bị thủng)


Hình 2.2. Đồ thị cho thấy lỗ thủng tầng ozon nhỏ lại trong năm 2012
Nhìn vào hiện trạng lỗ thủng tầng ozon cho thấy: lỗ thủng ozon đang dần thu
hẹp lại với những nỗ lực bảo vệ ozon của con người.
Tuy nhiên, năm 2014: Các nhà khoa học NASA và Cơ quan Quản lý đại dương
và khí quyển quốc gia (NOAA) cho thấy, toàn bộ lỗ thủng tầng ôzôn năm 2014 nhỏ
hơn các lỗ thủng tầng ozon các năm từ 1998 – 2012. Kích thước của lỗ thủng năm 2014
là 24,1 triệu km2, xấp xỉ diện tích của Bắc Mỹ.

Hình 2.3. Lổ thủng tầng ozone năm 1014 (màu xanh dương là vùng bị thủng)


CHƯƠNG IV: HẬU QUẢ & BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU CÁC YẾU TỐ GÂY
THỦNG TẦNG OZONE
1. Hậu quả
-

Thủng tầng ozone, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng xuống Trái Đất.
Từ đó, con người và động thực vật phải gánh chịu những hậu quả nặng nề sau:

- Tăng khả năng mắc bệnh cho người và động vật (con người dễ mắc các bệnh như
đục thủy tinh thể)
- Phá hủy hệ thống miễn dịch của cơ thể người và động vật.
- Hủy hoại các sinh vật nhỏ.
- Làm mất câng bằng hệ sinh thái động thực vật biển.
- Làm giảm chất lượng không khí

- Ở thực vật: lá cây hư hại, quang hợp bị ngăn trở, tăng trưởng chậm, giảm năng
suất, đột biến thậm chí có thể gây chết cây nếu liều lượng nặng.
2. Biện pháp



×