Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Ngân Hàng Trung Ương Với Chính Sách Tiền Tệ Trong Quản Lý Kinh Tế Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.58 KB, 30 trang )

Phần mở đầu
Đổi mới là một cuộc cải cách mang tính chất chuyển từ một nền kinh tế
kế hoạch tập trung, mang nặng tính quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của nhà
nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thay đổi rất cơ
bản, sâu sắc, với một khối lợng công việc đồ sộ, phức tạo, mới mẻ và liên
quan đến hầu hết các mặt của hoạt động kinh tế, xã hội cho đến nay, việc
nghiên cứu một cách có hệ thống công việc đổi mới ở nớc ta vẫn là vấn đề
đang đợc đặt ra để đáp ứng nhu cầu xây dựng các chính sách vĩ mô. Nhiều
chính sách kinh tế mới đợc ban hành và phát huy tác dụng tích cực đáp ứng
đợc nhu cầu phát triển kinh tế trong đó chính sách tiền tệ là một trong những
chính sách kinh tế có vai trò trọng tâm và chủ yếu. Là tổ chức duy nhất có
quyền hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, NHTW đã đa ra những
quốc sách về chính sách tiền tệ nhằm đối phó với những bất ổn định trong nớc và cú sốc từ bên ngài vào. Do đó việc xây dựng và điều hành chính sách
tiền tệ của ngân hàng trung ơng trong điều kiện mới có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, em chọn đề tài
"Ngân hàng trung ơng với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt
Nam"
Đề tài đợc kết cấu nh sau:
Chơng I: Lý luận chung về ngân hàng trung ơng và chính sách tiền tệ.
Chơng II: Ngân hàng trung ơng và chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong
thời gian qua.
Chơng III: Một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính
sách tiền tệ ở Việt Nam


Chơng I: Lý luận chung về ngân hàng trung ơng
và chính sách tiền tệ.
1.1. Ngân hàng trung ơng
1.1.1. Khái niệm ngân hàng trung ơng (NHTW)


NHTW có thể ra đời từ sự phát triển và phân hoá hệ thống NHTW kéo
dài nhiều thế kỷ theo mô hình ngân hàng Anh và các nớc Châu Âu bằng cách
thành lập hoàn toàn mới vào nửa đầu thế kỷ XX. Dù hình thành bằng con đờng nào thì các NHTW đều có chung một bản chất là một chế định công
cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc chính phủ, thực hiện chức năng độc
quyền phát hành tiến là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của chính
phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý nhà nớc về các hoạt động về tiền
tệ, tín dụng cho mục tiêu và ổn định của cộng đồng.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng trung ơng.
Ngày nay, tất cả các quốc gia lớn nhỏ trên thế giới đều có một NHTW
với những vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu đợc. Một mặt NHTW
đóng vai trò chủ ngân hàng đối với các NHTM, đảm bảo cho hệ thống ngân
hàng hoạt động không trục trặc. Mặt khác NHTW còn đóng vai trò chủ ngân
hàng đối với chính phủ, gánh trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và
việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách nha nớc của chính phủ là cơ quan duy
nhất có quyền phát hành tiền.
1.1.2.1. Phát hành tiền và điều tiết mức cung tiền
NHTW là ngân hàng độc quyền phát hành tiền và là ngân hàng đóng
vai trò quan trọng nhất trong điều tiéet mức cung tiền có nghĩa là NHTW là
ngời duy nhất đợc phép phát hành tiền theo các quyết định trong luật hoặc đợc chính phủ phê duyệt nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lu
thông tiền tệ của quốc gia, mọi hoạt động cung ứng tiền của NHTW sẽ ảnh
hởng đến tổng phơng tiện thanh toán trong xã hội và do ảnh hởng đến toàn
bộ nền kinh tế. Trách nhiệm của NHTW ở chức năng này, đó là việc xây
dựng số lợng tiền cần phát hành vào thời điểm phát hành cũng nh phơng thức
phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát hành kinh tế.
Ba công cụ quan trọng nhất mà NHTW có thể sử dụng để tác động vào
lợng cung ứng tiền tệ đó là: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ suất triết khấu và nghiệp
vụ thị trờng mở.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với tiền
gửi mà NHTW yêu cầu các NHTM phải duy trì.



+ Tỷ suất triết khấu: là lãi suất mà NHTW tính với các NHTM khi họ
muốn vay tiền.
+ Nghiệp vụ thị trờng mở phát sinh khi NHTW thay đổi cơ số tiền bằng
cách mua hoặc bán ra các chứng khoán tài chính trên thị trờng mở.
1.2.2. Ngân hàng trung ơng là ngân hàng của ngân hàng
Khi thực hiện chức năng này, NHTW cung ứng đầy đủ các dịch vụ của
một ngân hàng cho các ngân hàng trung gian bao gồm:
+ Mở tài khoản tiền gửi và quản lý tiền dự trữ của hệ thống NHTM tiền
gửi của NHTM tại NHTW gồm: tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh
toán.
Tiền gửi dự trữ bắt buộc hay còn gọi là dự trữ phát định là phần tiền đợc
giữ lại trong tổng số vốn mà NHTM huy động đợc, nó đợc gửi ở một tài
khoản của NHTW và NHTW quản lý phần tiền dự trữ này cho NHTM nhằm
đảm bảo khả năng thanh toán trớc nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng.
Tiền gửi thanh toán: các ngân hàng thế giới phải duy trì thờng xuyên
một lợng tiền gửi trên tài khoản tại NHTW để thực hiện các nhu cầu giao
dịch với các ngân hàng khác hoặc đáp ứng các nhu cầu giao dịch với NHTM.
+ Cấp tín dụng cho NHTM
NHTW cho các NHTM vay nhằm mục đích
Phát hành thêm tiền trung ơng theo kế hoạch.
Bổ xung lợng vốn khả dụng cho hoạt động của các NHTM một cách thờng xuyên.
Là cứu cánh cho vay cuối cùng sẵn sàng cho các ngân hàng và định chế
tài chính khác vay tiền khi cơn khủng hoảng tài chính đe doạ hệ thống tài
chính.
1.2.3. NHTW là ngân hàng của chính phủ
Các dịch vụ ngân hàng mà MHTW cung cấp cho chính phủ bao gồm
+ NHTW là đại diện của ngân hàng nhà nớc.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nhà nớc, chính phủ có thể uỷ quyền
cho bộ tài chính kho bạc đứng lên làm chủ tài khoản tại NHTW. Tiền thuế

thu đợc và những khoản thu khác của ngân sách đợc gửi vào NHTW. NHTW
tài trợ hay bù đắp thâm hụt ngân sách của nhà nớc.
+ NHTW là đại lý của ngân hàng
NHTW thay mặt cho nhà nớc trong các thoả thuận tài chính viện trợ
vay mớn, chuyển nhợng, thanh toán với nớc ngoài. Ngoài ra, trong t cách đại
lý nó phát hành trái phiếu, cổ phiếu, các loại phiếu vay nợ cho nhà nớc kể cả


trong nớc và nớc ngoài. Bằng việc thay mặt nhà nớc phát hành hoặc mua trái
phiếu NHTW trực tiếp làm tăng (hoặc giảm) lơng cung ứng tiền.
+ NHTW quản lý nhà nớc trong lĩnh vực tiền tệvà tín dụng NHTW là
ngời tổ chức và xây dựng thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT)
Cụ thể: NHTW là ngời chủ trì thiết kế và thực thi CSTT quốc gia, kế
hoạch cung ứng lợng tiền bổ sung cho CSTT, thực hiện việc đa ra lu thông,
rút tiền từ lu thông về theo tín hiệu của thị trờng làm tác động đến điều khiển
tín dụng và do đó tác động đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
1.2. Chính sách tiền tệ
Khái niệm chính sách tiền tệ
CSTT là một hệ thống những quan điểm, giải pháp những cách thức mà
NHTW thực hiện những tác động tới cung ứng tiền trong nền kinh tế và ảnh
hởng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mà trong đó NHTW
thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lợng tiền cung ứng nhàm đạt đợc các mục tiêu về sản lợng, giá cả và công ăn
việc làm.
1.2.1. Các loại hình chính sách tiền têk
Trong cơ chế thị trờng, CSTT bao gồm 3 chính sách cơ bản. Đó là chính
sách tín dụng, chính sách ngoại hối, chính sách đối với ngân sách nhà nớc.
1.2.1.1. Chính sách tín dụng
Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phơng tiện thanh toán
cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng dựa

trên các quỹ cho vay đợc tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ
thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trờng.
Khi các TCTD thiếu phơng tiện thanhtoán thì họ đến NHTW xin tái cấp
vốn. NHTW luôn là ngời cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ với các tổ
chức tín dụng.
1.2.1.2. Chính sách ngoại hối
Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh
toán đối ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trởng kinh tế
bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội.
Chính sách ngoại hối đợc thể hiện trên các phơng diện sau:
Thứ nhất, chính sách hối đoái: chính sách hối đoái thờng hớng vào việc
chặn tích trữ ngoại hối trong các pháp nhân và thể nhân, quản lý việc mua
bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW.


Thứ hai, dự trữ ngoại hối: mỗi nớc đều có dự trữ ngoại hối tuỳ thuộc
vào khả năng của nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu
thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lợng tiền trong nớc. Khi NHTW mua
ngoại tệ sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ, gia tăng khối lợng tiền tệ và ngợc
lại. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW can thiệp vào thị trờng, chủ động
tác động vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định.
Thứ ba, tỷ giá hối đoái phản ánh tơng quan sức mua giữa nội tệ và
ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái ảnh hởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá
hối đoái quá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu. Ngợc lại, nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu. Do tầm quan
trọng của nó, nên NHTW rất quan tâm và khi cần thiết dùng nhiều biện pháp
để ổn định tỷ giá hối đoái.
1.2.1.3. Chính sách đối với ngân sách nhà nớc.
Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không cân bằng mà ảnh
hởng tích cực hay tiêu cực voứi những mức độ khác nhau đối với lu thông
tiền tệ. Trờng hợp ngân sách thăng bằng vẫn có thể tác động mạnh tới CSTT.

Nếu CSTT nhằm chống lạm phát, thì ngân sách thăng bằng vẫn có thể làm
tăng giá. Nếu CSTT nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể
chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hớng góp phần chống suy thoái bằng cách
làm tăng mức tiêu thụ.
Trờng hợp ngân sách thiếu hụt sẽ có 4 cách để tài trợ thiếu hụt. Đó là:
vay dân, vay hệ thống TCTD và thị trờng tài chính trong nớc, vay NHTW
vay ở nớc ngoài. Trong đó vay của NHTW sẽ làm tăng mạnh khối lợng tiền
tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau. Nhng trong trờng hợp cần thiết,
NHTW phải đảm bảo cung ứng phơng tiện thanh toán cho chính phủ.
1.2.2. Các công cụ chính sách tiền tệ
Để tác động mức cung tiền tệ, NHTW có thể sử dụng hàng hoạt các
công cụ. Tuỳ thuộc vào cơ chế tác động của các công cụ đó mà nó đợc gọi
là công cụ trực tiếp hay gián tiếp.
1.2.2.1. Công cụ trực tiếp.
Các công cụ trực tiếp là các công cụ mà thông qua chúng, NHTW có
thể tác động trực tiếp đến các mục tiêu mà không phải qua một biến số trung
gian nào khác.
+ ấn định lãi suất tiền gửi
Nếu lãi suất quy định cao, sẽ thu hút đợc nhiều tiền gửi, làm gia tăng
nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng
mở rộng kinh doanh tín dụng.


Nhợc điểm của biện pháp này là làm cho các TCTD mất đi tính linh
hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ động vốn ở
ngân hàng nhng lại thiếu vốn đầu t hoặc khuyến khích dân c dùng tiền vào
dự trữ ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt
cũng nh nguồn vốn cho vay.
+ ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay
NHTW có thể quy định khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu về lãi

suất) bắt buộc các TCTD phải thực hiện biện pháp này có u điểm là giúp
ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối u để cho vay, loại bỏ những dự án kinh
tế kém hiệu. Nhìn chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay
ngày càng ít đợc áp dụng ở các nớc theo cơ chế thị trờng. Bởi vì, trong cơ
chế thị trờng, lãi suất nhạy cảm với đầu t, nó phải đợc vận động theo quan hệ
cung cầu vốn trên thị trờng.
+ ấn định hạn mức tín dụng đối với các TCTD
Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với các
TCTD. Trên cơ sở quy mô, tình hình hoạt động cũng nh khả năng huy động
vốn của từng TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng
TCTD, đó chính là mức tối đa mà mỗi TCTD đợc phép vay từ NHTW. Với
việc sử dụng biện pháp này tạocho NHTW dễ đạt đợc các mục tiêu trung
gian CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trờng với sự biến động thờng xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp này tỏ ra không phù hợp vì
không điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền kinh tế.
Bên cạnh việc quy định mức tín dụng đối với các TCTD NHTW còn
quy định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế.
Trong trờng hợp này, NHTW có thể quy định giới hạn khối lợng tín
dụng mà các TCTD có thể cung cấp cho nền kinh tế. Nó đợc sử dụng để
kiếm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi NHTW thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ.

+ Phát hành tín phiếu NHTW.
Trong một số trờng hợp, NHTW có thể phát hành tín phiếu để giảm
khối lợng tiền trong lu thông. Việc phân bổ tín phiếu mang tính chất bắt
buộc đối với TCTD. Việc phát hành tín phiếu NHTW thờng áp dụng trong trờng hợp lạm phát cao, hoặc đợc sử dụng để hỗ trợ một số công cụ khác.
+ Phát hành trực tiếp cho NSNN và cho đầu t.


Trong trờng hợp NSNN bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp
sự thiếu hụt ấy. Biện pháp nàylàm gia tăng khối lợng trong lu thông, hậu quả

là gia tăng lạm phát. Phát hành trực tiếp cho đầu t có thể qua NSNN hoặc
qua con đờng tín dụng ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện
nền kinh tế suy thoái, d thừa tiềm năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích
cực, nếu phát hành này đợc sử dụng để khỏi tăng tiềm năng về tài nguyên và
con ngời.
1.2.2.2. Công cụ gián tiếp
Các công cụ gián tiếp là các công cụ mà sự tác động của chúng vào các
mục tiêu trung gian đợc thông qua một số khác thuộc về sự kiểm soát của
NHTW và phải thông qua cơ chế tự điều tiết của các lực lợng thị trờng,
thuộc về nhóm công cụ này bao gồm.
+ Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo quy định của
NHTW. Nó đợc xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số d tiền
gửi trong một khoảng thời gian nhất định.
Dự trữ bặt buộc đợc xác định bằng cách.
=
x
Tuỳ theo điều kiện của từng nớc, trong từng thời kỳ, có nhiều quy định
về việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau.
Dự trữ bắt buộc có thể quy định cho tất cả các TCTD hoặc có thể chỉ
tính cho một số các TCTD. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể đợc quy định chung
cho toàn bộ các nguồn vốn huy động đợc của các TCTD hoặc có thể chỉ đợc
quy định đối với tiền gửi không kỳ hạn và tìen gửi ngắn hạn dới một năm.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của
các TCTD mà quan trọng hơn là để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của
hệ thống TCTD. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động tới sự thay đổi sự
nhân tiền và qua đó tác động đến mức cung tiền.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không đổi, làm giảm
tiền trong lu thông. Ngợc lại, NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mở rộng
cho vay và đầu t của các TCTD, dẫn đến tăng mức cung ứng tiền.

Nh vậy thông qua công cụ dự trữ bắt buộc NHTW tác động cả về khối
lợng và giả cả tín dụng của các NHTM.
Về số lợng: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là thắt chặt
hay nới lỏng khả năng tạo tiền của NHTM.


Về chi phí: tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng
hoặc giảm cho phí tín dụng của các NHTM.
Do đó dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép (vừa tác động về khối lợng,
vừa tác động về chi phí) để buộc các NHTM có thể mở rộng hay hạn chế tín
dụng.
+ Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là cách để NHTW đa tiền ra lu thông, đồng thời khống chế
về số lợng và chất lợng tín dụng của cac TCTD.
Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái tái cấp vốn, NHTW tác động
đến chi phí vay mợn của các TCTD tại NHTW. Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng
lên, chi phí các khoản vay từ NHTW tăng lên các TCTD sẽ bất lợi trong vay
vốn. Trong điều kiện đó, các TCTD không có khả năng bành trớng tín dụng.
Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm xuống, các TCTD có khả năng bành trớc tín
dụng do đợc bất lợi trong việc vay vốn của NHTW.
Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là
- Còn hạn mức tín dụng dành cho TCTD đó
- Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu phải lành mạnh và đảm
bảo khả năng thu hồi nợ.
ở các nớc công cụ tái cấp vốn đợc sử dụng một cách phổ biến để tác
động đến cơ số tiền và cung ứng tiền tệ và qua đó thực hiện các mục tiêu về
tăng trởng kinh tế và ổn định tiền tệ. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là ngời cho vay cuối cùng tái cấp vốn đợc thực hiện trên nền các giấy tờ có giá,
nếu thời hạn vay mợn là rõ ràng, việc hoàn trả nợ tơng đối chắc chắn, tiền
vay vận động phù hợp với sự vận động của quy luật cung cầu thị trờng.
Mặc dù công cụ tái cấp vốn có nhiều công dụng trong việc thực hiện

chính sách tiền tệ, nhng việc kiểm soát cơ số tiền và mức tiền cung ứng thờng kém chặt chẽ. Sự tăng giảm của lãi suất tái cấp vốn có thể làm tăng hay
giảm khối lợng vay mợn của TCTD, nhng mức độ thay đổi là bao nhiêu lại
phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của TCTD. Vì vậy, đôi khi khối lợng tiền
vay mợn của TCTD nằm ngoài ý định của NHTW, do vậy NHTW không thể
kiểm soát chặt chẽ sự tăng giảm của mức cung ứng tiền.
+ Nghiệp vụ thị trờng mở
Nghiệp vụ thị trờng mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn
hạn của NHTW trên thị trờng tiền tệ.


ở các nớc phát triển, nghiệp vụ thị trờng mở là một công cụ quan trọng
trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW nhằm đạt đợc mục đích là
điều tiết mức dự trữ của TCTD điều tiết mức cung tiền.
Nếu ý muốn gia tăng khối lợng tiền trong lu thông, mở rộng tín dụng,
NHTW thực hiện nghiệp vụ mua các giấy tờ có giá trên thị trờng tiền tệ. Ngợc lại, khi muốn giảm mức cung ứng tiền thu hẹp tín dụng, NHTW bán các
giấy tờ có giá đăng nắm giữ.
Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của
NHTM, tác động tới khả năng tín dụng của ngân hàng này và từ đó làm tăng
hay giảm khối lợng tiền tệ. Công cụ thị trờng mở có u điểm là nó trực tiếp
tác động ngay đến dự trữ của các TCTD và buộc các ngân hàng này phải gia
tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối với nền kinh tế. Nếu không có sự tham
gia mua bán của NHTW trên thị trờng tiền tệ mà chỉ có việc mua bán tín
phiếu kho bạc giữa các TCTD với nhau thì khối lợng tiền tệ sẽ không tăng
giảm. Bởi vì một TCTD này bán tín phiếu cho TCTD thì chỉ có sự chuyển
dịch tín phiếu và một phần dự trữ thừa từ TCTD này qua TCTD khác mà
thôi.
1.2.3. Tác động của chính sách tiền tệ
Tác động của chính sách tiền tệ trong một nền kinh tế mở với hệ thống
tỷ giá cố định, t bản vận động hoàn toàn tự do. Giả định nền kinh tế đang ở
trạng thái cân bằng E. NHTW quyết định thực hiện chính sách tiền tệ mở

rộng, với việc tăng cung ứng tiền danh nghĩa. Với mức giá đã cho, cung tiền
thực hiện tăng lên, đờng Thơng mại dịch phải đến LM'. Lãi suất giảm xuống
dới mức lãi suất của thế giới. Các nhà đầu t trong nớc sẽ "tìm kiếm cơ hội
đầu t ở nớc ngoài". Một luồng vốn chạy ra nớc ngoài. Ngân hàng trung ơng
phải bán dự trữ ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái không đổi.
Quá trình này kéo dài cho đến khi mức cung tiền và lãi suất trở lại mức
ban đầu
Nh vậy, CSTT tỏ ra kém hiệu lực hơn so với nền kinh tế đóng. ở đây tác
động của sự mở rộng tiền tệ đã bị tiêu bởi luồng vận động của t bản ra nớc
ngoài do lãi suất giảm đi, mặc dù, đầu t t nhân trong nớc tăng lên.
i
LM
LM'

i =i

E

E''
CM
E'
IS


+ Tác động của CSTT trong nền kinh tế mở với hệ thống tỷ giá linh
hoạt, t bản vận động hoàn toàn tự do. Mở rộng tiền tệ làm tăng cung ứng tiền
thực tế, đờng LM chuyển đến LM'. Lãi suất giảm làm giá hối đoái của đồng
nôi địa giảm (e giảm, E tăng) đồng nội địa giảm giá làm tăng khả năng cạnh
tranh. Xuất khẩu ròng tăng lên, làm đờng IS giảm chuyển sang bên phải đến
đờng IS'. Lãi suất trở về mức lãi suất của thị trờng thế giới, cân bằng mới đợc

lập tại E'. Chính sách tiền tệ đợc mở rộng làm sản lợng tăng lên. Tuy nhiên,
về mặt dài hạn sản lợng tăng lên làm giá cả và tiền lơng tăng. Cân bằng tiền
tệ thực tế giảm. Đờng LM' chuyển về vị trí ban đầu LM, lãi suất tăng dần.
Đồng tiền nội địa lại tăng giá, IS dần trở lại vị trí ban đầu IS. Cân bằng đợc
thiết lập ở vị trí cũ.
i

i =i'

LM
LM'
E''

E
E'

IS'

IS trong nền kinh tế mở, tỷ giá linh
Nh vậy, CSTT có tác động lớn hơn
hoạt, t bản chuyển động tự do hoàn toàn. Nhng tác động đó bị hạn chế trong
dài hạn, lúc mà giá cả tăng lên, sản lợng trả lại mức bình thờng, song tiền
công thực tế và tỷ giá hối đoái cũng tăng cùng với tốc độ tăng của giá cả.


Chơng II.
Ngân hàng trung ơng và chính sách tiền tệ ở
Việt Nam trong thời gian qua.
2.1. Sơ lợc về ngân hàng trung ơng Việt Nam
Sự ra đời và phát triển của ngân hàng nhà nớc Việt Nam.

Ngân hàng trung ơng của Việt Nam với tên gọi là ngân hàng nhà nớc
Việt Nam đợc thành lập từ năm 1951 trong điều kiện nền kinh tế nông
nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Nó là hệ thống ngân hàng một cấp phù hợp với
cơ chế quản lý nền kinh tế theo kế hoạch hoá tập trung và mang tính bao cáp
triệt để. Hệ thống ngân hàng một cấp này chỉ có một ngân hàng duy nhất là
NHTW vừa thực hiện chức năng quản lý, vừa thực hiện chức năng kinh
doanh cơ cấu mạng lới theo cơ cấu quản lý hành chính.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng, năm 1986 hệ thống
ngân hàng một cấp đợc chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Tuy nhiên,
chỉ sau khi ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng (23/5/1990) thì hệ thống
ngân hàng 2 cấp ở Việt Nam mới thực sự đợc xây dựng phù hợp với mô hình
ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trờng. Khái niệm NHTW lần đầu tiên
đợc đề cập trong pháp lệnh ngân hàng (5/1990) và trong luật ngân hàng nhà
nớc (12/1997).
"NHNN Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là NHTW của nớc
CHXHCN Việt Nam, ngân hàng nhà nớc đợc thực hiện chức năng quản lý
Nhà nớc về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền,
ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ".
Đặc điểm của hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam.
Phân biệt rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ giữa ngân hàng nhà nớc và
các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng nhà nớc đóng vai trò là ngân hàng phát hành tiền và các tổ
chức tín dụng.
Ngân hàng nhà nớc đóng vai trò là ngân hàng phát hành tiền và thực
hiện quản lý nhà nớc trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nhằm vào các mục tiêu
của chính sách tiền tệ với trọng tâm là ổn định tiền tệ. Ngân hàng thơng mại
và các tổ chức tín dụng khác là những doanh nghiệp kinh doanh về tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
2.2. Chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua.
2.2.1. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ chính sách tiền

tệ những năm qua ở Việt Nam.


2.2.1.1. Công cụ nghiệp vụ thị trờng mở.
Nghiệp vụ thị trờng mở bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động
nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tham gia thị trờng, đa
dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn tạo ra khả năng phối kết hợp
giữa thị trờng liên ngân hàng - thị trờng mở - thị trờng chứng khoán trong
các thị trờng tài chính ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động của ngân hàng thơng mại đợc ban hành theo quyết định số
85/2000/QĐ - ngân hàng nhà nớc ngày 09/03/2000. Qua nửa năm hoạt động,
nghiệp vụ thị trờng mở đã góp phần khắc phục khó khăn bớc đầu trong vận
hành.
Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trờng mở và ngân hàng nhà nớc bao
gồm 15 thành viên là ngân hàng ngoại thơng Việt Nam, ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng công thơng Việt Nam,
quỹ tín dụng nhân dân trung ơng, ngân hàng đầu t và phát triển Việt Nam,
ngân hàng thơng mại cổ phần Đông á, ngân hàng CHINFON, ngân hàng thơng mại cổ phần Sài Gòn thơng tín, ngân hàng thơng mại cổ phần quốc tế,
ngân hàng thơng mại cổ phần Phơng Nam, ngân hàng thơng mại cổ phần các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngân hàng thơng mại cổ phần quân đội,
ngân hàng thơng mại cổ phần Tân Việt, ABN AMBO Bank, công ty tài chính
bu điện. Tuy cha phải là nhiều song số lợng các tổ chức tín dụng này đã đại
diện cho các tổ chức tín dụng hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch,
số thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành
viên tham gia dự thầu, thấp nhất là một thành viên, trong đó các ngân hàng
thơng mại quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các tổ
chức tín dụng khác hầu nh không tham gia dự thầu. Khối lợng giao dịch qua
nghiệp vụ thị trờng mở từ 12/7/2000 đến ngày 15/11/2000 của ngân hàng
công thơng Việt Nam là 810,420 tỷ đồng, ngân hàng ngoại thơng Việt Nam
là 228,620 tỷ đồng. Ngân hàng đầu t và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ

đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có
giá ngắn hạn mới đợc mua bán ở thị trờng mở, song cho đến nay, chỉ có tín
phiếu kho bạc và tín phiếu ngân hàng nhà nớc đợc mua bán. Tín phiếu ngân
hàng nhà nớc đợc mua bán nhiều nhất với số lợng 1.070 tỷ/1.448.500 tỷ
đồng. Tín phiếu kho bạc nhà nớc chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá
trị khi đến hạn thanh toán. Nh vậy hàng hoá ở thị trờng mở là khá đơn điệu
và chỉ tập trung ở các ngân hàng thơng mại quốc doanh.


Về phơng thức giao dịch các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phơng thức mua bán hẳn với tín phiếu ngân hàng nhà nớc, phơng thức mua có
kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nớc, còn phơng thức bán hẳn ít đợc thực
hiện và đặc biệt phơng thức bán có kỳ hạn cha đợc thực thi. Tính đến ngày
15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là
480,50 tỷ đồng doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phơng thức đấu thầu thờng
là đấu thầu lãi suất.
2.2.1.2. Công cụ lãi suất cho vay chiết khấu.
Lãi suất tái chiết khấu là một công cụ quan trọng giúp ngân hàng trung
ơng thực hiện chính sách tiền tệ, nhng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam
những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phơng tiện làm
căn cứ để NHNN thực hiện cho vay chiết khấu còn cha hoàn thiện (đó là các
thơng phiếu, hối phiếu).
Trong quá trình c ho vay chiết khấu, NHNN luôn điều chỉnh lãi suất
cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ. Có thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay
chiết khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành chính sách tiền
tệ của NHNN Việt Nam. Việc điều chỉnh lãi suất cho vay chiết khấu ở
NHNN những năm vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
các NHTM và khả năng huy động vốn trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều.
Cụ thể: trong năm 1997 lãi suất chiết khấu đợc điều chỉnh nhiều lần phù hợp

với diễn biến của nền kinh tế. Từ tháng 3 đến tháng 7/1997: mức lãi suất
chiết khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi suất chiết khấu quy định là
0,9%/tháng. Năm 1998, NHNN quyết định tăng lãi suất cho vay chiết khấu
lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho vay chiết
khấu đối với các NHTM lần 1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2 còn
0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày 02/08/2000,
quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành
theo lãi suất cơ bản đã đợc ban hành và trên cơ sở đó các NHTM đợc chủ
động quy định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền gửi xoay quanh mức lãi
suất cơ bản. Trong những tháng 08,09,10,11,12/2000 lãi suất cơ bản đối với
nội tệ (VND) vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng nhng lãi suất tái chiết khấu
tăng từ 0,4% lên 0,45/tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN đợc
điều chỉnh từ 0,4% lên 0,5%.
2.2.1.3. Công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc (DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để
điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Theo pháp lệnh ngân hàng (ban


hành năm 1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn
huy động của các NHTM. Song xét theo hoàn cảnh thực tế bấy giờ, tiềm lực
của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã đợc kiềm chế ở mức
đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ DTBB đối với các tổ chức tín dụng với
mong muốn khuyến khích đầu t, thúc đẩy tăng trởng.
2.2.1.4. Công cụ hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng đợc NHNN áp dụng để điều hành chính sách
tiền tệ trong những năm đầu cuả thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để
điều hành chính sách tiền tệ cha phát huy đầy đủ hiệu quả. Việc đa ra và áp
dụng công cụ này trong những năm qua có những kết quả nhất định, chứng
tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam những năm đầu
chuyển sang kinh tế thị trờng chẳng hạn, do lạm phát những năm 1990 1991 còn ở tỷ lệ cao, để khống chế lạm phát NHNN chủ trơng giảm bớt lợng

tiền cung ứng hạn mức tín dụng đối với tất cả NHTM là 34,5% (năm 1992)
và đã đạt đợc kết quả thực tế rất khả quan là mức tăng trởng kinh tế tăng gấp
2 lần so với dự kiến, mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều, tiền tệ dần đi
vào ổn định. Những năm sau đó, để kiểm soát lạm phát, NHNN cũng đa ra
tỷ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM nhng tình hình thực
tế có khác đó là hầu hết các NHTM đều có xu hớng vợt qua chỉ tiêu mức tín
dụng theo kế hoạch đã đợc giao. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ
hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng
của tổng phơng tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai
đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trởng kinh tế, nên tiếp tục thực hiện
hạn mức tín dụng sẽ tạo ra thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM
trong việc mở rộng tín dụng, vì vậy từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp
dụng công cụ này nh 1 công cụ thờng xuyên để điều hành CSTT.
2.2.1.5. Công cụ lãi suất.
ở Việt Nam lãi suất đợc sử dụng nh công cụ của CSTT. Đặc biệt những
năm gần đây, việc điều chỉnh lãi xuất theo hớng từng bớc nới nỏng của
NHNN đợc coi nh một đối sách nhạy bén trớc những tăng giảm của cung
cầu về tiền tệ trong giai doạn đầu của thời kỳ quá độ, năm 1989 NHNN
thực hiện một cơ cấu kiểm soát lãi xuất cho vay và lãi xuất tiền gửi phức tạp,
ổn định các mức lãi xuất tiền gửi, lãi xuất cho vay cụ thể theo đối tợng,
ngành nghề kinh tế và kỳ hạn vay mợn.
Năm 1990, cơ chế lãi xuất trần tín dụng và sàn tiền gửi đã đợc áp dụng
nhng vẫn đợc phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng.


Kể từ năm 1993, NHNN đã bỏ hản hình thức lãi xuất theo ngành , chủ
quy định các mức trần, lãi xuất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng vào thời gian
này, cơ chế lãi xuất thoả thuận đã đợc thí điển áp dụng đối với nguồn vốn
hình thành do phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Trên thị trờng vì cầu tín dụng
cao hơn nên cũng lên lãi xuất cho vay đã đợc đẩy lân rất cao và cơ chế lãi

xuất thoả thuận đã bị loại bỏ.
Bắt đầu 01/01/1996 NHNN thực thi chính sách, trần lãi xuất, tín dụng
và quản lý chênh lệch giữa lãi xuất đầu vào và lãi xuất đầu ra (bỏ việc điều
tiết trực tiếp lãi xuất tiền gửi). Cũng vào thời gian này chế độ thuế doanh thu
đánh vào hoạt động tín dụng bị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính đợc điều
chỉnh giảm mạnh, nên trần lãi xuất tín dụng cũng đã đợc điều chỉnh giảm
mạnh. Lãi xuất tín dụng trung và dài hạn lần đầu tiên đã đợc điều chỉnh cao
hơn lãi tín dụng ngắn hạn.
Năm 1998 là năm tự do hoá hoàn toàn lãi xuất tiền gửi thông qua xóa
bỏ chênh lệch lãi xuất đầu vào và lãi xuất đầu ra, NHNN chỉ quản lý duy
nhất trần lãi xuất tín dụng. Cuối năm 1998, lãi xuất cho vay ngắn hạn giảm
xuống còn 1, 1% / tháng, cho vay trung hạn, dài hạn còn 1,15% tháng.
Sau mấy tháng đầu năm 1999, thống đốc NHNN đã ban hành quyết
định số 198/1999/ QĐ - NHNN 1 điều chỉnh giảm trần lãi xuất cho vay
ngắn, trung và dài hạn đợc thống nhất ở mức chung là 1,15%/ tháng, đợc áp
dụng chung cho các NHTM ỏ cả thành thị và nông thôn. Đến tháng
10/1999, trần lãi xuất cho vay bằng VNĐ của cácđ NHTM đợc quy định ở
mức chung là 1,05%/ tháng.
Vào năm 2000, việc kiểm soát lãi xuất tiến kiệm ngoại tệ cũng đã đợc
xoá bỏ. Ngày 05/08/2000, NHNN đã chính thức chuyển sang cơ chế điều
hành theo lãi xuất cơ bản, các NHTM đã chủ động quy định các mức lãi
xuất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh, mức lãi xuất cơ bảm,
trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi xuất tiền gửi.
Theo cơ chế mới hàng tháng, NHNN công bố mức lãi xuất cơ bản, lãi
xuất tái cập vốn và lãi xuất tái tiết khấu.
Trong tất cả các tháng 08/0902000, lãi xuất cơ bản đối với tiền VNĐ
vẫn đợc giữ nguyên ở mức 0,75% /tháng với biên độ 0,3% đối với cho vay
ngắn hạn, 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi xuất cho vay ngoại tệ
(USĐ) đợc xác định trên cơ sở lãi xuất SiBor kỳ hạn 3 tháng cộng với trong
các tháng cuối năm 200, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi xuất rất lớn,

các NHTM cạnh tranh nhau đồng loạt tăng lãi xuất huy động vốn lên một


giới hạn nhất định, còn lãi xuất cho vay thì hầu hết nh không tăng, mức lãi
xuất tiền gửi VNĐ cao nhất của kỳ hạn 12 tháng ở các NHTM cổ phần lên
tới 0,6 -0,65%/ tháng, kỳ hạn 6 tháng: 0,4-0,55%/ tháng tiền gửi USĐ kỳ hạn
12 tháng phổ biến ở các ngân hàng là 5,5 % -6% năm. Nh vậy, hiện tại lãi
xuất cho vay nội tệ (VNĐ) hiện nay ở các Việt Nam 7,5% -10%/ năm thấp
nhất trong hơn 10 năm qua và lãi xuất cơ bản là 0,75%/ tháng.
2.3. Đánh giá chung việc điều hành và thực hiện chính sách tiền tệ
ở Việt Nam, thời gian qua.
2.3.1. CSTT với kiểm soát lạm phát tỷ lệ lạm phát thấp là mục tiêu
của mọi nền kinh tế. Với vai trò to lớn của mình để làm đợc điều đó, NHNN
Việt Nam đã giảm tiến hành thực hiện những công cụ của CSTT theo hớng
có lợi nhất. Theo từng thời kỳ đạt đợc những kết quả to lớn nhất.
Có thể thấy tỷ lệ lạm phát ở nớc ta các thời kỳ:
Năm
91
92
93
94
95
96
97
98
99
Lạm
6,8 17,5 5,2
14,4 12,7 4,5
3,7

9,2
0,1
phát (%)
Nguồn: Tạp chí ngiên cứu kinh tế năm 200.
Năm 1991, lạm phát mức cao 68%. Với mục tiêu đẩy mạnh lạm phát,
NHNN "thắt chặt" cung tiền, nhờ vậy đến năm 1992 lạm phát đẩy lùi xuống
còn 17,6%. Đến năm 1993, NHNN tiếp tục "thắt chặt" cung tiền với những
biện pháp nh ấn định hạn mức tín dụng, áp dụng quy chế DTBB...nhờ đó
lạm phát tiếp tục giảm (chỉ còn 5,2%). Năm 1994 lạm phát bị đẩy lên cao
(14,4%) là do nhiều nguyên nhân song tỷ lệ này lại bị giảm ngay vào các
năm sau đó. Có đợc kết quả nh vậy là do NHNN đã áp dụng các công cụ
nhằm "thắt chặt" cung tiền. Năm 1998, do nhiều nguyên nhân trong và ngoài
nớc, tốc độ lạm phát ở mức cao hơn so với 2 năm trớc đó: 9,2%. Tuy nhiên
lạm phát vẫn đợc kiềm chế ở mức dới 10% theo chỉ tiêu quốc hội đã đề ra.
Từ năm 1999 đến nay tình trạng giảm phát xuất hiện, đặc biệt là năm 2000.
Mặc dù 2 tháng đầu năm 2000, lạm phát là 2,0%, nhng cả năm giảm phát là
0,6%.
Nh vậy, những năm vừa qua, chính sách tiền tệ và việc điều hành chính
sách tiền tệ của NHNN Việt Nam có thể coi là bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và
kiềm chế lạm phát. Lạm phát bị đẩy lùi trớc hết làm cho giá cả ổn định, đời
sống của nhân dân nói chung và ngời lao động nói riêng có xu hớng đợc cải
thiện, ngoài ra nó còn tạo môi trờng đầu t lành mạnh cho các nhà doanh
nghiệp trong và ngoài nớc.
2.3.2. Chính sách tiền tệ tăng trởng kinh tế.


Tăng trởng kinh tế là mục tiêu kinh tế vĩ mô đồng thời cũng là mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Kết quả đổi mới kinh tế trong thời gian qua đặc biệt là
đổi mới chính sách tiền tệ đợc đánh dấu bằng sự ổn định và tăng trởng của
nền kinh tế. Bức tranh toàn cảnh trên đợc thể hiện qua một số số liệu sau:

Năm
GDP (%)
CN(%)
NN (%)
Dịch vụ
91
6
9,9
2,2
8,3
92
8,6
12,6
6,3
8,6
93
8,1
12,1
3,8
9,2
94
8,5
13,0
4,5
10,3
95
9,5
13,9
4,7
10,9

96
9,3
14,2
4,4
8,8
97
8,2
13,6
4,3
8,8
98
5,8
12,1
3,5
4,9
99
4,8
10,4
5,2
2,3
00
01
02
Nguồn thời báo kinh tế Việt Nam 2000 - 2001.
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã đợc tốc độ tăng trởng
cao và tơng đối ổn định. Có đợc kết quả nh vậy là nhờ NHNN đã có những
điều chỉnh, quyết định đúng đắn, đặc biệt là về vấn đề lãi suất đã có những
cải cách và điều chỉnh hợp lý.
Tăng trởng kinh tế cao và ổn định từ năm 1992 đến 1997 (tốc độ tăng
trởng bình quân của nền kinh tế là 8,45 từ 1992 đến 1998). Kể từ 1991 trở đi,

năm 1998 và 1999tuy có tăng trởng song ở mức thấp nhất và có xu hớng
chậm lại ở một số ngành.
Năm 2000, tốc độ tăng trởng kinh tế đạt 6,7% vợt mức chỉ tiêu đầu năm
do Quốc hội đề ra là 5,5 -6% và cao hơn nhiều so với năm 1999 là 4,8%.
Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp cả năm tăng 15,5% (kế hoạch là 10,5 11%) giá trị sản xuất lâm, ng nghiệp là 4,9% (kế hoạch 3,5% - 4%) dịch vụ
tăng 6% (kế hoạch là 5 - 5,5%). Đến năm 2002 tốc độ tăng trởng kinh tế nớc
ta đạt 7% chỉ đứng sau Trung Quốc.
Nh vậy, qua bức tranh tổng thể ta thấy nền kinh tế Việt Nam đã có
những tăng trởng khá cả về lợng tuyệt đối cũng nh tốc độ (so với cùng kỳ
các năm trớc). Nét nổi bật là giá trị sản xuất nông nghiệp và dịch vụ đều tăng
so với cùng kỳ năm trớc, ngành công nghiệp duy trì đợc tốc độ tăng 2 chữ
số với mức cao nhất so với cùng kỳ trong 4 năm trớc đó.
2.3.3. Chính sách tiền tệ với ổn định việc làm.
Tăng trởng kinh tế cao ổn định đã góp phần giải quyết nhiều mặt về xã
hội trong đó đặc biệt lu tâm tới việc làm. Từ trớc đến nay lao động trong lĩnh


vực nông nghiệp vẫn chiếm đa số (70% dân số). Đây là loại hình lao động có
tính chất mùa vụ. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự dịch chuyển cơ cấu
kinh tế theo hớng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp. Sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch
vụ trong thời gian qua đòi hỏi phải đợc bổ sung lực lợng lao động. Bên cạnh
đó là việc mở rộng vốn đầu t cho mỗi thành phần kinh tế cũng cần phải sử
dụng số lợng lao động lớn hơn. Đây là những yếu tố giúp tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống.
Theo báo cáo thống kê thì những năm gần đây, Việt Nam có tỷ lệ tạo
việc làm nhanh hơn việc tăng dân số, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hớng
giảm đi. Ước tính trong mỗi năm bình quân giải quyết việc làm mới cho
khoảng 1,3 triệu ngời. Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu t tín dụng cho
các thành phần kinh tế, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và dịch

chuyển cơ cấu kinh tế, công ăn việc làm cho ngời lao động đợc cải thiện.
2.3.4. Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
2.3.4.1. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Trong những năm qua với chính sách tỷ giá tơng đối ổn định đã tạo
điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu tăng đặc biệt là xuất khẩu.
Do những điều chỉnh kịp thời về tiền tệ và tỷ giá của NHNN, mà cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ của khu vực có tác dụng không lớn đến nền
kinh tế Việt Nam, năm 1997, trong đó xuất khẩu vẫn tăng 4% (vào năm
1998) xuất khẩu nớc ta năm 1998 đã có những bớc tiến dài so với năm 1998.
Đến năm 2000, với những điều chỉnh đúng đắn của NHNN đã tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế về mọi mặt, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt
xấp xử 14 tỷ USD tăng 21,3% so với kế hoạch đề ra là 11 - 12%, nếu trừ yếu
tố tăng, giảm giá hàng xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu thì nhịp tăng kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 13% kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu ngời đạt
trên 180 USD (năm 1999 là 1500 USD/ ngời) vợt qua ngỡng 1700 USD/ ngời
đợc xếp vào các nớc có nền ngoại thơng tăng.
Quý I/ 2001 kim ngạch xuất khẩu tăng 14,3% so với quý I/ 2000, trong
đó khu vực kinh tế trong nớc tăng cao hơn (15,4%), khu vực có vốn đầu t nớc ngoài tăng 14,9%. Tổng kim ngạch nhập khẩu quý I/ 2001 ớc tính tăng
8,4% so với cùng kỳ thấp hơn tốc độ xuất khẩu và thấp hơn tốc độ tăng trởng
quý I/ 2000
Nhờ vậy, nhập siêu đã giảm mạnh.


2.3.4.2. Góp phần ổn định tỷ giá hối đoái.
Trong một thập kỷ qua, tỷ giá hối đoái nói chung ổn định (có biến động
nhng ở mức có thể chấp nhận đợc). Kết quả đó là do những cố gắng của nhà
nớc và của hệ thống NHVN trong quản lý và kiểm soát thị trờng.
Sau hai quyết định số 64 và 65/1999/ QĐ - NHNN của NHNNVN cơ
chế tỷ giá đợc cải tiến một bớc mới: về cơ bản NHNN chỉ công bố tỷ giá
giao dịch bình quân qua thị trờng ngoại tệ liênngân hàng và biên độ dao

động rất thấp. Nh vậy, tỷ giá không còn đợc điều chỉnh, mà là đợc hình
thành trên thị trờng.
Thông qua can thiệp và công bố giá giao dịch bình quân trên thị trờng
ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá giữa đồng Việt Nam và
đô la Mỹ (USD) dần dần, đều đặt qua các phiên giao dịch, không gây ra các
cú sốc về tăng đột biến tỷ giá, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và thị trờng.
Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua, NHNNVN đã không ngừng đẩy
mạnh và phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế và
với ngân hàng các nớc, nhằm tranh thủ các nguồn tài trợ, các nguồn vay vốn
từ các tổ chức này nhằm: một mặt tăng cờng đầu t khôi phục và phát triển
nền kinh tế trong nớc, mặt khác đẩy nhanh quá trình thiết lập và hội nhập với
cộng đồng tài chính, tiền tệ quốc tế của Việt Nam.
Ngoài những thành tựu kể trên, quá trình thực thi CSTT của hệ thống
NHVN những năm qua còn góp phần đáng kể vào các quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc vẫn còn những vấn đề tồn tại
trong quá trình thực thi CSTT ở Việt Nam.
2.3.5. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thực thi ở Việt Nam
những năm qua.
2.3.5.1. Về việc sử dụng các công cụ của CSTT
a. Những tồn tại của sử dụng nghiệp vụ thị trờng mở
Có thể nhận xét hoạt động của thị trờng mở vừa qua rằng:
+ Các tổ chức tín dụng cha tham gia thờng xuyên vào các phiên giao
dịch cách 10 ngày/ 1 lần, tạo ra quang cảnh khá buồn tẻ ở từng phiêi hội.
+ Hàng hoá giao dịch ở thị trờng mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có giá trị
ngắn hạn mà tập trung vào 2 loại là tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc.
Đây là khó khăn lớn nhất của nghiệp vụ thị trờng mở hiện nay.
+ Các phiếu đấu thầu lãi suất có tính cạnh tranh cao nên các NHTM và
các TCTD nhỏ không đủ tham gia, tạo ra tình huống cha sôi động của thị trờng.
+ Thị trờng thứ chấp của thị trờng mở bán lại tín phiếu giữa các TCTD

mà khách hàng của họ) cha phát triển, các thị trờng liên ngân hàng cha hoàn
thiện gây ảnh hởng lớn đến nghiệp vụ thị trờng mở.


Với những tồn tại trên, do vậy mà những tác động và hiệu quả của
nghiệp vụ thị trờng mở tới CSTT cha sâu rộng và thiết thực.
b. Những tồn tại của sử dụng lãi suất cho vay triết khấu và dự trữ bắt
buộc việc sử dụng công cụ laĩ suất cho vay triết khấu và DTBB của NHNN
nhiều khi không đạt hiệu quả nh mong muốn.
Mặc dù NHNN đã ra những quy chế đầy đủ rõ ràng về quyền hạn nghĩa
vụ của các TCTD trong việc gửi tiền dự trữ tại NHNN, thế nhng cho đến nay
vẫn còn một số tổ chức tín dụng vẫn cha phải thực hiện DTBB, tức là trong
lĩnh vực này, NHNN vẫn cha thực sự tạo ra một "sân chơi bình đẳng" đối với
cá TCTD hoạt động trong nớc.
Mặt khác, trong những năm gần đây, NHNN liên tục giảm tỷ lệ DTBB
và giảm lãi suất cho vay triết khấu đối với các TCTD với mong muốn khuyến
khích đầu t, thúc đẩy tăng trởng. Tuy nhiên sau một loạt giải pháp nhằm "nới
lỏng" CSTT, tốc độ tăng trởng tín dụng đối với nền kinh tế vẫn cha có
chuyển hớng mạnh mẽ.
c. Những tồn tại của sử dụng lãi suất
Những năm gần đây, do đầu t giảm sút, tăng trởng kinh tế chững lại, để
"kích cầu" NHNNVN quyết định giảm trần lãi suất đối với cá TCTD. Nhng
sau nhiều lầm giảm lãi suất, đầu t vẫn cha tăng mạnh. Hơn nữa, việc NHNN
liên tục điều chỉnh lãi suất trong một thời gian ngắn đã gây khó khăn cho các
TCTD. Cha nảy sinh hình tợng: các TCTD e dè trong việc huy động vốn (đặc
biệt là vốn dài hạn) vì sợ lãi suất rẻ còn bị hạ nữa nên còn bị lỗ nhiều hơn,
còn về phía các tổ chức kinh tế thì cũng có ý chờ lãi suất hạ nữa thì mới xin
vay tiếp.
Việc ban hành lãi suất cơ bản của NHNNVN mới chỉ đợc thực hiện cha
đầy một năm, vì thế mà những tồn tại của nó cha bộc lộ ra bênngoài và cha

đợc thống kê.
d. Những tồn tại sử dụng hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế
trong giai đoạn đầu, nhng trong tơng lai sẽ còn phù hợp nữa. Nếu trong thời
kỳ đầu của quá trình đổi mới, công cụ này có tác dụng tích cực đối với việc
kiểm soát cung tiền nhằm đẩy lùi lạm phát, thì nay, hiệu quả của nó giảm
hẳn. Vì vậy từ quý II/ 1998, NHNN đã bỏ việc ấn định hạn mức tín dụng đối
với các TCTD.
e. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng.
Với chính sách và thành tựu đổi mới kinh tế, Việt Nam đã xây dựng đợc
những cơ sở quan trọng cho một nền kinh tế và một hệ thống ngân hàng
đang đợc nhanh chóng đổi mới, có tính bớc ngoặt phù hợp với cơ chế thị trờng. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới ngành ngân hàng và quá trình hội
nhập khu vực và quốc tế, hệ thống NHVN đã bộc lộ những yếu kém bên


trong về khuôn khổ pháp lý, hiệu quả quản lý và kinh doanh đòi hỏi phải có
những biện pháp cải cách mạnh mẽ và hết sức cấp bách không thể trì hoãn đợc.
f. Những tồn tại khác
Việc bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nớc của NHTW là một trong
những nguyên nhân làm cho lạm phát của Việt Nam tuy bị đẩy lùi nhng vẫn
còn tiềm ẩn với tỷ lệ cao.
Qúa trình thực thi CSTT của hệ thống ngân hàng đôi khi còn thiếu tính
tự chủ.
Những hạn chế trên đây chứng tỏ quá trình thực thi CSTT của Việt Nam
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trờng vẫn cần phải tiếp tục bổ
sung và hoàn thiện. Có nh vậy thì CSTT mới thực sự phát huy vai trò điều
tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trờng.


Chơng III: Một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới

và hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Giải pháp sử dụng các công cụ của CSTT
3.1.1. Nghiệp vụ thị trờng mở thực chất là hoạt động của NHTW:
Trên thị trờng mở để tác động tới lợng tiền cung ứng trong từng thời kỳ.
Để cho các TCTD ngoài quốc doanh tham gia nghiệp vụ thị trờng mở
một cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là
giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín
dụng thơng mại.
Ngoài ra cần phải tuyên truyền thờng xuyên, sân rộng cho các TCTD về
nghiệp vụ này (các THTM quốc doanh đợc vay theo chỉ định, nếu có nhiều
lợi thế trong giao dịch trên thị trờng mở nhờ đợc vay với giá rẻ để mua giấy
tờ có giá có lãi suất lớn hơn các NHTM cổ phần. Điều này không kích thích
cầu tín dụng, tạo ra phân biệt đáng kể trên thị trờng).
+ Tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trờng mở
Tuy không phải là nhiều, nhng các loại trái phiếu hiện có, có thể giao
dịch ở thị trờng mở không phải là ít. Riêng tín phiếu kho bạc (thời hạn dới 1
năm) và trái phiếu kho bạc (thời hạn 1 năm) từ tháng 6/1995 đến tháng
9/2000 đợc đấu thầu qua NHNN với 39 đợt đấu thầu là 18.282,8 tỷ đồng
trong đó có 11.126,7 tỷ đồng là trái phiếu kho bạc 4.156,1 tỷ đồng là tín
phiếu. Nếu đợc phép giao dịch thì loại trái phiếu kho bạc này sẽ là một hàng
hoá tốt cho thị trờng mở. Ngoài ra các loại trái phiếu ngân hàng, trái phiếu
công ty đã phát hành cũng nếu đợc chấp nhận trên thị trờng mở. Rõ ràng
sự khan hiếm về hàng hoá của thị trờng mở đã làm cho thị trờng này không
thể hiện đúng bản chất vốn có của nó. Tuy nhiên nếu nh nghiệp vụ thị trờng
mở đợc phép sử dụng các trái phiếu kho bạc đã phát hành khi chúng còn thời
gian ngắn hạn từ luân chuyển vốn sẽ đa dạng hơn.
+ Về phơng thức giao dịch
Phơng thức giao dịch phù hợp nhất với nghiệp vụ thị trờng mở là mua
bán có kỳ hạn mà NHTW là ngời chủ động quyết định mua bán với số lợng
bao nhiêu, thời gian nào theo phơng thức nào tuỳ theo yêu cầu của CSTT

trong từng thời kỳ.
Theo quy chế nghiệp vụ thị trờng mở, NHTW có thể thực hiện đấu thầu
khối lợng hoặc đấu thầu lãi suất. Việc đấu thầu khối lợng xảy ra khi lãi suất
cố định đợc tính toán và chỉ đạo, còn đấu thầu lãi suất sẽ xác định lãi suất sẽ


trúng thầu tại thời điểm mà khối lợng cần bơm vào hay rút ra khỏi lu thông
đạt đợc. Chính các mức lãi suất này sẽ quyết định giá của giấy tờ có giá trị
trên thị trờng mở. Để khuyến khích các TCTD tham gia nghiệp vụ thị trờng
ở, NHNN cần kết hợp cả hình thức đấu thầu khối lợng và đấu thầu lãi suất.
+ Hoàn thiện thị trờng liên ngân hàng
Thị trờng mở và nghiệp vụ thị trờng mở chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở
thị trờng liên ngân hàng phát triển. Trong lịch sự thị trờng liên ngân hàng
hoạt động trớc khi thị trờng mở hoạt động. Thị trờng liên ngân hàng chính là
nơi xác định nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các NHTM, nơi mà
NHTW nắm bắt đợc một cách nhanh nhậy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua
hoạt động của NHTM để quyết định sử dụng công cụ CSTT thích hợp. ở Việt
Nam, thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng có vai trò khá lớn trong luân chuyển
vốn ngoại tệ, thị trờng nội tệ liên ngân hàng gần nh đóng băng, điều này đã
làm giảm đáng kể khả năng quản lý của NHNN cũng nh sự phối hợp giữa thị
trờng chứng khoán - thị trờng mở - thị trờng tiền tệ. Vì vậy, việc hoàn thiện
thị trờng liên ngân hàng cần phải xem là cơ sở cho các hoạt động khác của
NHNN trong bối cảnh các thị trờng tài chính đã thiết lập và đi vào hoạt
động, hệ thống ngân hàng sẽ có sự cải cách mạnh mẽ, xu thế hội nhập quốc
tế sẽ trở thành hiện thực ở Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống liên ngân hàng
nêu là một mối quan tâm đặc biệt của NHNN trong thời gian tới.
3.1.2. Chính sách lãi suất
Tính đến thời điểm hiện nay, một bộ phận lớn lãi suất tiền gửi bằng
đồng Việt Nam (trừ lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của NHTM) lãi suất tiền gửi
và cho vay ngoại tệ (trừ lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của các pháp nhân

taọ các TCTD) lãi suất thị trờng nội tệ liên ngân hàng đã đợc tự do hoá. Lãi
suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với nền kinh tế vẫn còn bị khống chế.
Vì vậy lộ trình tiếp theo cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam thời
gian tới nên thực hiện theo trình tự sau:
Bớc 1: Xoá bỏ việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của
pháp nhân tại các TCTD, tự dohoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Bớc 2: Tách hoạt động cho vay, chính sách ra khởi các hoạt động cho
vay Thơng mại của các NHTM, nhằm thực hiện việc xoá bỏ các hình thức lãi
suất cho vay u đãi trong hệ thống ngân hàng.
Bớc 3: Mở rộng biên độ lãi suất cho vay nội tệ, tiến tới bỏ biên độ lãi
suất cho vay trung và dài hạn trớc, sau đó biên độ lãi suất cho vay ngắn hạn.


Nói cách khác, tự do hoá lãi suất cho vay trung và dài hạn trớc và cuối cùng
là lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam.
Bớc cuối cùng: thả nổi lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu bằng đồng Việt
Nam và ngoại tệ của các TCTD.
Nh vậy, đến đây đã hoàn tất quá trình tự do hoá lãi suất đợc hình thành
hoàn toàn dựa trên quan hệ cung - cầu tín dụng trên thị trờng.
3.2. Giải pháp sử dụng kết hợp chính sách tiền tệ với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác.
Phối hợp chính sách tài khoản và tiền tệ
Chính sách tài khoản với thuế và chi tiêu của chính phủ tác động trực
tiếp đến tyếu tố G hoặc gián tiếp đến tiêu dùng ( C), đầu t (I), xét cho cùng là
tác động trực tiếp đến tổng cầu. Chính sách tiền tệ với các quyết định về mức
cung tiền tác động trực tiếp đến thị trờng tiền, qua đó tác động trở lại đến
tổng cầu (C, I, X). Cả hai chính sách đều tác động đến quy mô của tổng cầu
nhng mỗi chính sách lại gây ra sự thay đổi khác nhau về các thành phần của
tổng cầu có thể nói vận dụng tốt cả hai chính sách này có khả năng kiểm
soát đợc tổng cầu để ổn định đợc thu nhập (sản lợng) ở mức dự kiến (sát với

sản lợng tiềm năng)
Khi cho rằng tổng cầu ở mức quá thấp có thể dùng chính sách mở rộng
tài chính và nới lỏng tiền tệ, đờng IS và LM dịch chuyển xa sang bên phải,
tổng cầu và sản lợng tăng mạnh.
Nếu tổng cầu ở mức quá cao, có thể dùng chính sách tài chính thắt chặt
và tiền tệ chặt để giảm mạnh tổng cầu.
Khi tổng cầu ở mức vừa phải, sản lợng tơng đối ổn định ở mức dự kiến,
có thể sử dụng hỗn hợp tài chính chặt chẽ - tiền tệ nới lỏng hoặc tài chính
chặt chẽ - tiền tệ nới lỏng hoặc tài chính mở rộng - tiền tệ chặt chẽ để làm
biến đổi thành phần của tổng cầu. Với hỗn hợp tài chính chặt chẽ và tiền tệ
nới lỏng vừa đủ để tổng cầu không thay đổi, nhng tiêu dùng và đầu t tăng
lên, chi tiêu chính phủ giảm xuống. Hỗn hợp này có thể ổn định sản lợng
hiện taị nhng có lợi cho sự tăng trởng tơng lai nhờ mở roọng quỹ vốn, sẽ có
thêm việc làm với năng suất cao hơn.
Khi thực hiện chính sách tiền tệ để quản lý (kiểm soát) tổng cầu thờng
gặp phải trở ngại là lạm phát trong những điều kiện nào đó về cung, chính
sách tiền tệ nới lỏng có thể gia tăng của mức cung tiền tệ nới lỏng có thể
không đẩy đợc đờng LM sang phải, toàn bộ phần gia tăng của mức cung tiền


không có ảnh hởng đến tổng cầu mà chuyển toàn bộ vào giá làm cho lạm
phát trở nên trầm trọng.
3.3. Đổi mới thủ tục hành chính và bộ máy hành chính.
Những năm gần đây, NHTW đã điều chỉnh rất nhiều vấn đề để phù hợp
với nền t thị trờng hiện nay. Xong vấn đề các TCTD và các doanh nghiệp
quan tâm đó là thủ tục hành chính còn quá rắc rối, nhiều thủ tục trung gian,
bộ máy hành chính cồng kềnh không thích hợp với cơ chế thị trờng linh
động. Để đáp ứng yêu cầu trên Đảng và nhà nớc trên cơ sở tiếp thu, ứng
dụng mô hình của hệ thống NHTW của một số nớc đã thành công.
+ Làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận về ngân hàng, vai trò của Nhà nớc đối

với lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trên cơ sở phân tích sâu sắc cơ
sở khoa học về sự cần thiết của việc cải tổ hệ thống ở nớc ta để ổn định và
phát triển trong cơ chế mới cho những thập kỷ tới.
+ Nêu rõ hiện trạng côn tác quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động ngân hàng đặc biệt là hoạt động giám sát và thanh tra đối với các
TCTD nhằm thực hiện mục tiêu: góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống các
TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời gửi tiền, phục vụ việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Nội dung cải cách bộ máy hành chính và thủ tục hành chính: yêu cầu về
tổ chức, bộ máy về công nghệ và hoạt động nghiệp vụ của các TCTD, về
thực hiện điều hành TSTT, về hoạt động quản lý và giám sát thanh tra, về về
môi trờng kinh tế, môi trờng pháp lý, về công tác cán bộ, phát triển nguồn
nhân lực.
Yêu cầu về trợ giúp tài chính của chính phủ nhằm mục tiêu đáp ứng cho
việc lành mạnh hoá tài chính và xử lý tồn tại cũ phục vụ cho việc sắp xếp lại
các TCTD thiết lập hành lang pháp lý, hành lang quy phạm theo hệ thống
quốc tế tạo điều kiện tiền đề cho việc chấn chỉnh, củng cố, sắp xếp cơ cấu lại
các TCTD.
Xác định bớc đi trong quá trình thực hiện, cải tổ hệ thống ngân hàng
Việt Nam phù hợp với sự phát triển chung. Để tăng cờng vai trò của Nhà nớc
về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh cơ chế thị
trờng, trong điều kiện quốc tế hoá, cơ chế phải kết hợp giữa ngân hàng và
các cơ quan pháp luật trong việc đảm bảo an ninh ngân hàng, phòng ngừa
ngăn chặn vi phạm xử lý vi phạm, ngăn chặn các hoạt động phá hoại kinh tế
tiền tệ, trong việc điều tra xét xử các vụ án kinh tế liên quan đến ngân hàng.


×