Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Thực trạng phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.59 KB, 102 trang )

CHÚ THÍCH CHỮ VIẾT TẮT
TTTK: Thị trường chứng khoán
CK: Chứng khoán
TTCP: Thị trường cổ phiếu
TTTP: Thị trường trái phiếu
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
QTDN: Quản trị doanh nghiệp
CTNY: Công ty niêm yết
CTCP: Công ty cổ phần
HTX: Hợp tác xã
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
CPH: Cổ phần hóa
CTCK: Công ty chứng khoán
UBCKNN: ủy ban chứng khoán Nhà nước
BYC: Đường cong lợi suất trái phiếu chuẩn
TTTC: Thị trường tài chính
NHTM: Ngân hàng thương mại
CPH DNNN: Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
XK: Xuất khẩu
NH: Ngân hàng

1


Lời nói đầu
Thị trường vốn là yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường
hiện đại. Hoạt động của nó thể hiện hoạt động của nền kinh tế hàng
hóa, dịch vụ. Giá cả thị trường này phản ánh hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Do đó, người ta ví thị trường vốn như một “nền
kinh tế tượng trưng” cho nền kinh tế thực (nền kinh tế hàng hóa dịch
vụ). Qua đó, có thể “đo” được hiện trạng của nền kinh tế thực.


Thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận trọng yếu của
thị trường vốn tại Việt Nam, thị trường này khai trương hoạt động vào
tháng 7/2000, nhưng vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm và chưa
ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế. Những giải pháp nhằm hoàn thiện
cho thị trường vốn trong thời gian tới thực chất là hoàn thiện cho hoạt
động của thị trường chứng khoán.
Để đi tìm giải pháp cho hoàn thiện và phát triển thị trường vốn phải
tập trung nghiên cứu giải pháp cho hoàn thiện thị trường chứng khoán
đồng thời tạo ra mối liên hệ mật thiết với các thị trường khác trong hệ
thống tài chính như: thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu chính phủ,
…và nâng cao vai trò của hệ thông ngân hàng thương mại. Đây là
những vấn đề đòi hỏi phải được tiến hành trong thời gian tới. Vì tính
cấp bách và cần thiết của đề tài nhất là trong tình hình hiện nay thị
trường chứng khoán Việt Nam một kênh quan trọng nhất của thị
2


trường vốn đang đóng băng do đó những giải pháp hoàn thiện cho thị
trường vốn trong giai đoạn 2006-2010 là tìm ra những giải pháp nhằm
mang lại sự sôi động vốn có của nó, vì những lý do đó khiến tôi lựa
chọn đề tài: Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường vốn giai
đoạn 2006-2010
Trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp, các vấn đề
trên sẽ được đề cập tới và tìm những giải pháp chính sách nhằm tháo
gỡ những khó khăn đang hiện hữu cản trở sự phát triển của thị trường
vốn tại Việt Nam. Nội dung của đề tài được kết cấu qua ba chương:
Chương 1: Tổng quan về thị trường vốn và thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường vốn và thị trường chứng
khoán tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường

vốn Việt Nam giai đoạn 2006-2010
Trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp, các vấn đề
trên sẽ được đề cập tới và tìm những giải pháp chính sách nhằm tháo
gỡ những khó khăn đang hiện hữu cản trở sự phát triển của thị trường
vốn tại Việt Nam.
Một lần nữa tôi xin được cảm ơn tới CIEM, cơ quan mà tôi thực tập
đã giúp đỡ tôi rất nhiều về tài liệu và tạo điều kiện cho tôi hoàn thiện
chuyên đề này. Đồng thời xin cảm ơn tới Ths. Bùi Đức Tuân, người
đã hướng dẫn rất nhiệt tình cho tôi trong cả giai đoạn thực tập.

3


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN VÀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
I/Tổng quan về thị trường vốn
1. Khái niệm chung về thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường cho các khoản vốn dài hạn. Thị
trường này cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của Chính
phủ, của các doanh nghiệp và của các hộ gia đình. Thị trường vốn
gồm có thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
4


Các công cụ của thị trường vốn có thời hạn đáo hạn trên một
năm. So với các công cụ của thị trường tiền tệ, các công cụ của thị
trường vốn có độ rủi ro cao hơn, do đó chúng có mức lợi tức cao hơn.
Trong lịch sử hình thành thị trường tài chính, thị trường tiền tệ hình
thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư

chưa cao và ban đầu nhu cầu vốn cũng chủ yếu là vốn ngắn hạn. Sau
đó, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn
cho đầu tư xuất hiện và thị trường vốn ra đời để đáp ứng nhu cầu này
2. Nguyên nhân của sự hình thành thị trường vốn
2.1. Nhóm nguyên nhân khách quan
Việc hình thành thị trường vốn là một hiện tượng kinh tế cần thiết
khi phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Kinh nghiệm thế giới
cho thấy các nước phát triển theo cơ chế thị trường thì đều phải tuân
theo quy luật khắt khe của thị trường: Quy luật giá cả, cạnh tranh và
các quy luật của quan hệ cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường các
yếu tố sản xuất là hàng hóa và đòi hỏi khác quan phải có các thị
trường giành cho từng loại hành hóa đặc biệt đó. Vì thế trong cơ cấu
thị trường của các nước kinh tế thị trường bên cạnhh thị trường hàng
hóa cho tiêu dùng, còn có thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức
lao động, thị trường vốn và thị trường dịch vụ thông tin…Điều đó
chứng tỏ thị trường vốn là một yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng
của nền kinh tế thị trường và nó cũng có đầy đủ các đặc trưng của
một thị trường, nó tồn tại là khách quan và ra đời tự phát trong nền
kinh tế thị trường. Nhiệm vụ của chung ta là phải kịp thời nắm bắt
được nhu cầu khách quan, nghiên cứu và nhanh chóng đề ra các biện
5


pháp, chính sách kích thích nhanh quá trình hình thành và điều chỉnh
xu hướng hoạt động của thị trường dặc biệt này và quỹ đạo hoạt động
có tổ chức và sử dụng hết các ưu thế, tác dụng của nó đối với phát
triển kinh tế-xã hội với mục đích cung ứng kịp thời các nguồn vốn
cho các nhu cầu về vốn đầu tư của nền kinh tế. Chúng ta có thể rút ra
một số nguyên nhân khách quan chủ yếu của sụ xuất hiện thị trường
vốn ở các nước, sau đây:

- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phát triển ngày càng tăng của phân
công lao động theo hướng chuyên môn hóa theo ngành, nghề trong cơ
cấu sản xuất của các doanh nghiệp. Quá trình chuyên môn hóa theo
ngành càng cao đòi hỏi khách quan sự giao lưu, sự luân chuyển các
yếu tố của lực lượng sản xuất, trong đó có sự luân chuyển các nguồn
vốn tài chính giũa các doanh nghiệp và công cụ thuận lợi nhất để thực
hiện sự giao lưu nói trên là các cổ phiếu và trái phiếu (ở các nước
TBCN chủ yếu dưới dạng cổ phần).
- Nguyên nhân thứ hai (bắt nguồn từ nguyên nhân t hứ nhất) thể
hiện ở chỗ: sự luân chuyển các nguồn vốn tài chính giữa các doanh
nghiệp thông qua các hoạt động mua-bán cổ phần chủ yếu được thực
hiện trên thị trường chứng khoán (thị trường chứng khoán là hình
thức biểu hiện của thị trường vốn) và thị trường “ngầm”.
- Nguyên nhân thứ ba là do quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế
giới ngày càng cao làm cho các quan hệ thị trường nội địa nhanh
chóng thay đổi theo quan tính của thị trường thế giới (đa số thị trường
vốn của các nước dang phát triển ở Mỹ la tinh, Đông Nam Á, Bắc

6


Phi, Trung Đông ra đời là do ảnh hưởng của quá trình quốc tế hóa nền
kinh tế hay có thể gọi là do ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài)
2.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Theo kinh nghiệm khái quát của các nước kinh tế thị trường phát
triển (Mỹ, Anh, Pháp, Nhật…) và của các nước kinh tế thị trường
đang phát triển (các nước Mỹ la tinh, Hồng Kông, Nam Triều Tiên,
Thái Lan, Xingapo, và các nước Trung Đông ) thì việc thành lập thị
trường vốn do những nguyên nhân chủ quan sau:
- Nguyên nhân bao quát nhất là nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các

nguồn vốn tài chính trong quá trình phát triển kinh tế và coi đây là
nhân tố quan trọng nhất để phát triển sản xuất. Thị trường vốn là
“van” điều tiết hữu hiệu nhất các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu
quả sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn
- Mở rộng nền tảng của quyền sở hữu của cải tài chính và bất động
sản. Thị trường vốn là nơi diễn ra quá trình chuyển nhượng quyền sở
hữu về vốn tài sản hết sức thuận lợi và là môi trường cho việc đa dạng
hóa các chủ thể sở hữu về vốn ở các doanh nghiệp
- Tạo điều kiện cho nhiều người sử dụng vốn đầu tư. Thị trường vốn
luôn bảo đảm và phục vụ được bất cứ ai có nhu cầu về vốn đầu tư sản
xuất thông qua các tổ chức tài chính trung gian (ngân hàng thương
mại, Sở giao dịch chứng khoán, các quỹ tín dụng, các công ty bảo
hiểm, các quỹ hưu trí…).
- Bảo đảm sẵn sàng các nguồn vốn cho đầu tư dài hạn. Thị trường vốn
khác với ngân hàng là luôn sẵn sàng cung cấp vốn dài hạn cho các
doanh nghiệp kịp thời, đúng lúc và đầy đủ số lượng cần thiết, không
7


phải thông qua các thủ tục hành chính khắt khe, mức độ vay hạn chế
hoặc chủ yếu là vay ngắn hạn, nếu quá hạn phải trả lãi cao hơn.
- Mở rộng các dịch vụ tài chính thông qua hoạt động của các tổ chức
tài chính.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính .
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài (những người đầu
tư chủ yếu trên thị trường vốn của các nước Đài Loan, Hồng Kông,
Malaixia,và Thái Lan là các công ty siêu quốc gia, công ty nước ngoài
và các chủ đầu tư tư nhân là người nước ngoài).
3.Cơ cấu thị trường vốn

Có thể phân biệt hai dạng cơ cấu của thị trường vốn căn cứ vào các
bộ phận cấu thành và vào tổ chức của thị trường vốn.
3.1.Các bộ phận cấu thành thị trường vốn
Về mặt lý thuyết, thị trường vốn bao gồm 3 bộ phận sau đây:
+Thị trường chứng khoán Nhà nước
+Thị trường trái phiếu
+Thị trường cổ phiếu
Tuy nhiên, trong thực tế ở mỗi nước, cơ cấu thị trường vốn có khác
nhau. Ví dụ, ở Malaysia có thị trường chứng khoán Nhà nước, nhưng
ở Nhật, Pháp, Anh, Mỹ thì lại không có mà chủ yếu là thị trường trái
phiếu và thị trường cổ phiếu.
3.1.1.Thị trường chứng khoán Nhà nước
Thị trường chứng khoán Nhà nước là nơi diễn ra các hoạt động mua
và bán các chứng khoán Nhà nước (các giấy ghi nợ của Nhà nước
8


như: phiếu công trái, tín phiếu kho bạc Nhà nước dài hạn và các loại
chứng chỉ đầu tư). Thị trường chứng khoán Nhà nước hoạt động
tương đối ổn định và có tỷ trọng khá cao trong thị trường chứng
khoán. Có thể giải thích bằng các lý do chủ yếu như: các chứng khoán
Nhà nước có lãi suất cố định; ngân sách Chính phủ luôn bội chi và do
đó Nhà nước vay nợ của dân ngày càng nhiều và với số lượng lớn. Do
đó, thị trường này được coi là chỉ dẫn mức nợ trong nước của Chính
phủ (Mỹ và Anh là hai nước có mức nợ trong nước lớn nhất thế giới.
3.1.2.Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán
các trái phiếu (các chứng khoán có lãi suất cố định). Đây là loại thị
trường ít gặp rủi ro, mạo hiểm hơn, vì các loại chứng khoán này để
giao dịch có lai suất cố định và có thời hạn hoàn vốn được ấn định

trước. Trường hợp công ty bị phá sản thì trái phiếu cũng là một món
nợ mà công ty cần phải ưu tiên thanh toán trước. Nhưng người ta ít
nói tới thị trường này vì giá cả của trái phiếu rất ít khi biến động so
với các thị trường khác như: thị trường cổ phiếu.
3.1.3.Thị trường cổ phiếu
Đây là nơi thực hiện quá trình mua và bán các cổ phiếu, thị trường
cổ phiếu là thị trường có dung tích cao nhất là hạt nhân cơ bản của thị
trường chứng khoán. Thị trường cổ phiếu gặp nhiều rủi ro và mạo
hiểm, cho nên quy mô và phạm vi hoạt động của nó cũng luôn luôn
thay đổi. Thị trường này cũng rất nhạy cảm với những biến động về
kinh tế như: lạm phát, khủng hoảng, thất nghiệp, chiến tranh…Lý do
cơ bản nhất để giải thích ở đây, vì lãi suất cổ phiếu phụ thuộc vào tình
9


hình sản suất, kinh doanh của các con nợ- người kinh doanh.Lợi
nhuận kinh doanh càng cao, thì xí nghiệp càng có nhiều khả năng trả
lợi tức cổ phần cao. Do đó, giá trị của xí nghiệp có ảnh hưởng lớn tới
giá trị cổ phần. Thị trường cổ phiếu thường có doanh số cao nhất về
trao đổi cổ phiếu so với các dạng thị trường khác. Vì vậy, thị trường
này là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán. Nói thị trường
chứng khoán phát triển, tức là nói tới thị trường cổ phiếu phát triển
hoặc xây dựng thị trường chứng khoán xét cho cùng là xây dựng và
thiết lập thị trường các cổ phiếu.
3.2.Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn
Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn, trước hết, gồm: Hệ thống các
ngân hàng, các tổ chức tài chính khác và sở giao dịch chứng khoán.
Thực chất, đây là các tổ chức tài chính trung gian làm nghiệp vụ môi
giới chứng khoán. Nói đến thị trường chứng khoán, nhiều người cho
rằng đây là Sở giao dịch chứng khoán. Thực ra, các hoạt động giao

dịch chủ yếu diễn ra trên sở giao dịch. Nhưng về mặt lý thuyết, người
ta phân ra làm hai nấc: Thị trường sơ cấp (phát hành và phân phối các
chứng khoán) và thị trường thứ cấp (Sở giao dịch chứng khoán – mua
và bán các chứng khoán ). Thị trường sơ cấp hàm ý chỉ hoạt động
mua bán cổ phiếu, trái phiếu mới phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng
thêm quy mô đầu tư vốn. Thị trường thứ cấp là hoạt động mua bán
các cổ phiếu, trái phiếu… đến tay thứ hai, mà không làm tăng thêm
quy mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính
mới. Ở nhiều nước (các nước NIC châu Á) không có sự phâm biệt rõ
ràng giữa hai loại thị trường trên. Các nước phương Tây và Mỹ phân
10


định rõ ràng hai cấp thị trường. Việc phân định rõ hai cấp của thị
trường chứng khoán có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tiếp
cận thị trường: nghiên cứu, tìm hiểu các quan hệ cung-cầu quan hệ cơ
bản nhất có tác dụng định tính và định luợng quy trình hoạt động của
thị trường. Việc phát hành và phân phối các chứng khoán chỉ là những
bước ban đầu chuẩn bị tiền đề vật chất để thực hiện hành vi chủ yếu
của thị trường chứng khoán-mua và bán các chứng khoán (Sở giao
dịch chứng khoán), Do đó, việc Nhà nước cho phép
4.Các công cụ, chủ thể và đối tượng hoạt động của thị trường vốn
4.1.Các công cụ tham gia thị trường vốn
Công cụ của thị trường vốn bao gồm nhiều loại với các tên gọi riêng
biệt. Nhung theo cách gọi mang tính thống nhất, nếu xét về mặt lịch
sử thì các công cụ của thị trường này có tên chung là các chứng khoán
dài hạn:
Cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, ghi nhận quyền sở hữu
vốn đóng góp vào công ty cổ phần, đồng thời đảm bảo cho người có
cổ phiếu được quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng

với số tiền ghi trên mặt phiếu. Thu nhập này gọi là lợi tức cổ phần. Có
hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi được hưởng
một số khoản ưu đãi nhất định so với cổ phiếu thường)
Chứng khoán có thu nhập cố định là các loại giấy tờ ghi nợ có xác
định tỷ lệ tiền lãi hàng năm phải trả cho người sở hữu. Thuộc loại này
gồm có: Trái phiếu Nhà nước, trái phiếu cầm cố, trái phiếu của các
công ty công nghiệp, tin phiếu dài hạn của kho bạc.

11


-Trái phiếu: Khác với cổ phiếu người phát hành trái phiếu là người
mắc nợ đối với người mua trái phiếu.
Đối với người mua trái phiếu vìi nhận lợi tức hàng năm hay hàng quý
do vậy, nếu lạm phát xảy ra sẽ giảm giá trái phiếu trên thị trường
- Trái phiếu của Nhà nước là giấy tờ ghi nợ do các cơ quan chính
quyền Nhà nước Trung ương phát hành để huy động vốn trong nền
kinh tế. Thuộc loại này có trái phiếu của Chính phủ (công trái quốc
gia), trái phiếu của các ngành trong Chính phủ (như ngành đường sắt,
bưu điện).
- Trái phiếu của chính quyền các địa phương được phát hành nhằm
mục đích thực hiện các chương trình công cộng trong khi các nguồn
vốn của của ngân sách địa phương bị mất cân đối. Bên cạnh trái
phiếu, chính quyền địa phương còn huy động vốn bằng cách vay của
các ngân hàng.
-Trái phiếu cầm cố là giấy tờ ghi nợ có bảo đảm bằng tài sản cầm cố
của chính quyền địa phương đối với ngân hàng khi nhận tiền vay dài
hạn. Bên cạnh trái phiếu cầm cố (khế ước vay nợ). Khi vay dài hạn
ngân hàng, chính quyền địa phương có thể phát hành trái phiếu công
cộng(vì, mục đích vay là để đầu tư cho các công trinh công cộng) loại

trái phiếu này tuy không ghi vật cầm cố, nhưng trên thực tế, chính
quyền phải bảo đảm trả nợ bằng mọi tài sản của mình (các nguồn thu
thuế đã và sẽ có)
-Trái phiếu công nghiệp là loại giấy tờ do các tập đoan công nghiệp
phát hành để huy động thêm vốn, khác với cổ phiếu, trái phiếu được

12


hưởng một tỷ lệ lãi suất nhất định và sẽ được hoàn trả lại vốn ban đầu
dần cho người mua sau nhữung thời hạn nhất định ghi trên trái phiếu.
-Tín phiếu kho bạc loại giấy ghi nợ của kho bạc khi huy động vốn để
bổ xung quy ngân sách. Tín phiếu kho bạc có hai loại, loại dài hạn và
loại ngắn hạn. Tín phỉếu ngắn hạn được lưu thông trên thị trường tiền
tệ. Tín phiếu dài hạn được lưu thông trên thi trường vốn. Nói chung,
loại tín phiếu dài hạn ít được phát hành, kho bạc chủ yếu phát hành
các loại tín phiếu ngắn hạn (dưới 1 năm)
-Trái phiếu đầu tư là chứng chỉ về tỷ lệ tham gia vào quỹ đầu tư của
tập đoàn đầu tư. Trái phiếu đầu tư cũng đem lại thu nhập cho chủ sở
hữu, nhưng chúng không thuộc vào các loại chứng khoán đã nêu ở
trên, mà ngược lại chúng có thể được phát hành dưới dạng các chứng
khoán có thu nhập cố định, hoặc dưới dạng các cổ phiếu. Bên cạnh
chứng khoán đầu tư, các nhà đầu tư còn bổ xung quỹ đầu tư của mình
bằng cách mở ra quỹ tiết kiệm đầu tư dể thu hút nguồn tiết kiệm hàng
tháng của các chủ nguồn vốn và của nhân dân.
4.2.Các chủ thể và đối tượng trên thị trường vốn
Khi nghiên cứu về thị trường vốn còn phải đề cập tới các chủ thể
tham gia thị trường vốn. Thông thường hai loại chủ thể quan trọng
trên bất kì loại thị trường nào làm về mặt pháp lý, người mua và
người bán có thể là các pháp nhân. Trong đó:

-Thể nhân là các công dân Việt Nam và các ngoại kiều.
-Pháp nhân, bao gồm: các công ty nặc danh, công trách nhiệm hữu
hạn; các hiệp hội tư thương hây cổ phần; các HTX hay liên HTX, Các
DNNN; các cơ quan nhà nước tự chủ về tài chính; mọi pháp nhân
13


khác có tính chất kỹ nghệ hay thương mại hoặc các nghiệp vụ đem lại
lợi tức; các hội dân sự, các hiệp hội đoàn thể và các tổ chức có những
hoạt động hay những nghiệp vụ đem lại lợi tức … Để trở thành một
pháp nhân các tổ chức cơ sở sản xuất, kinh doanh phải có đủ các điều
kiện cơ bản sau:
+ Một là tổ chức được Nhà nước thành lập, thừa nhận hoặc cho
phép hoạt động với một cơ cấu tổ chức thống nhất.
+Hai là có tài sản riêng
+Ba là trách nhiệm độc lập về hoạt động của mình trên cơ sở tài sản
đó.
+Bốn là có tên gọi riêng và hoạt động có danh nghĩa riêng.
Trên thị trường vốn các thể nhân và pháp nhân xuất hiện với những
mục đích khác nhau, có thể là những chủ thể mua chứng khoán hay
bán chứng khoán hoặc làm môi giới trung gian. Trên thị trường vốn,
đối tượng mua và bán là quyền sử dụng các nguồn tài chính dài hạn,
khác với thị trường hàng hóa, nơi mà đối tượng mua bán là sản phẩm
và dịch vụ, trên thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói
riêng, đối tượng mua bán lại khá đơn giản, sự đa dạng hóa hình thức
mua bán trên thị trường vốn là tùy thuộc nhiều vào người mua, Vì thế,
những người mua trên thị trường vốn có vai trò chủ đạo cao.
Những người bán quyền sử dụng vốn trên thị trường vốn có rất nhiều
loại. Nhưng với sự phát triển dần của thị trường vốn và trong điều
kiện sự phức tạp của các mối quan hệ thị trường tăng lên, nảy sinh

nhưng cơ quan, tổ chức trung gian, làm nghèo đi những hiện tượng

14


mua bán trực tiếp. Lúc này người bán quyền sự dụng vốn được gọi
bằng chính cái tên: nhà kinh doanh vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường. Các nhà
kinh doanh vốn trên thị trường có nhiều loại. Đó là: các nhà kinh
doanh tư nhân, những tổ chức như: các quỹ hưu trí, các quỹ tương hỗ,
các công ty bảo hiểm, các ngân hàng, các công ty đầu tư quốc gia, các
quỹ bảo hiểm xã hội, các quỹ cứu trợ…
Các tổ chức trung gian trên thị trường vốn có vai trò quan trọng như
cầu nối giữa người phát hành chứng khoán đễ được nhận sự đầu tư
vốn (mua quyền sử dụng vốn) với các tổ chức và cá nhân (bán quyền
sử dụng vốn). Theo sự khái quát kinh nghiệm đó thì: Các công ty môi
giới, những người tạo thị trường (các người bán hộ chứng khoán), các
công ty tài chính -chứng khoán.
Để thực hiện sự quản lý Nhà nước đối với thị trường vốn, ở các nước
đề thành lập Ủy ban chứng khoán mà trong thành phần của nó thường
bao gồm: Bộ Tài chính, Bộ Thuơng mại và ngân hàng. Bên cạnh đó, ở
những nước phát triển những người bán chứng khoán thường liên kết
với nhau để thành lập các hiệp hội tự điều hòa.
5.Cơ chế vận động của thị trường vốn
Chúng ta đã biết thị trường hàng hóa và cơ chế hoạt động của nó.
Trong lĩnh vực tài chính, thị trường vốn cũng vận hành theo theo một
cơ chế đặc biệt, bao gồm: cơ chế xác định giá chứng khoán, cơ chế
hoạt động của sở giao dịch chứng khoán ảnh hưởng đến sự hoạt động
của thị trường vốn
5.1.Cơ chế giá chứng khoán

15


Thị trường vón là một thị trường được phân làm hai cấp: thị tường
cấp 1 và thị trường cấp 2. tương ứng với mỗi cáp của thị trường là
một loại giá của chứng khoán . Vì thế có thể phân biệt hai laọi giá của
chứng khoán: giá cấp 1 và giá cấp 2
- Giá cấp 1 (giá phát hành chứng khoán hay còn gợi là giá trị danh
định của chứng khoán) là giá trị được in trên chứng khoán, nó được
xác định bằng giá trị danh định của đợt phát hành chia cho tổng số
chứng khoán cần phát hành. Chứng khoán có nhiều loại, nhưng người
ta phân chia jhai laọi chứng khoán chủ yếu: chứng khoán có lãi suất
cố định và chứng khoán có lãi suất biến động. Do đó ở đây chúng ta
có thể phân biệt được giá cấp 1 đối với hai loại chứng khoán nói trên.
- Giá cấp 2 (giá thị trường chứng khoán) là giá trị mà chứng khoán
thực sự được mua bán lại trên thị trường, nó phụ thuộc vào cung cầu
của chứng khoán. Trên thực tế cũng có thể phân biệt giá trị thị trường
của hai dạng chứng khoán , chứng khoán có lãi suất cố định và chứng
khoán có lãi suất biến động
+ Giá trị thị trường của cácchứng khoán có lãi suất cố định là giá
thực tế mua bán lại chứng khoán trên thị trường, nó phụ thuộc vào lãi
suất thị trường. Sau khi phát hành, các trái phiếu được mua bán theo
giá thị trường . Giá thị trường của trái phiếu có thể tăng hay giảm so
với giá trị danh định, dẫn đến giá lãi suất thực tế khác với lãi suất
danh định. Lãi suất thực tế có thể cao hoặc thấp hơn lãi suất danh
định.
+ Giá trị của thị trường cổ phiếu là giá trị thực sự của cổ phiếu
được mua bán trên thị trường . Nó thay đổi hàng giờ, hàng ngày, hoặc
16



ổn định trong thời gian ngắn.Giá trị của cổ phiếu này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, yếu tố quyết định nhất là quan hệ cung cầu, đến lượt
mình quan hệ cung cầu lại do một loạt các yếu tố khác quyết định .
Ngoài ra giá trị của cổ phiếu còn phụ thuộc vào cổ tức (lãi suất cổ
phần)
Người bán cổ phiếu bao giờ cũng muốn bán với giá cao, còn người
mua lại muốn mua với giá thấp. Giá trị cân bằng do hai thái cực được
tạo ra bởi bên mua và bên bán sẽ cân bằng tại điểm cân bằng cung
cầu. Đó chính là cách xác định giá cấp 2 của cổ phiếu.
5.2.Cơ chế hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán
Để hiểu được nội dung và phương thức hoạt động của các Sở giao
dịch chứng khoán cần phải nhận thức rằng , thị trường chứng khoán
không tham gia vào hoạt động mua bán chứng khoán, nó chỉ là nơi
giao dịch, một trung tâm tạo điều kiện cho các giao dịch đựoc tiến
hành một cách thuận lợi, dễ dàng. Hạ thấp các chi phí bằng những
luật lệ phù hợp. Thị trường chứng khoán không ấn định giá cổ phiếu,
không can thiệp hình thành giá cổ phiếu, nó chỉ đảm bảo cho việc đấu
thầu hoặc thỏa thuận mua bán chứng khoán diễn ra đúng pháp luật,
công khai và tránh lừa đảo. Thị trương chứng khoán cũng không kiểm
soát việc mua bán mà chỉ đóng vai trò như quan tòa để xử lý các kiện
cáo trong mua bán chứng khoán.
Như vậy, trong điều kiện kinh tế hiện đại các Sở giao dịch chứng
khoán chính là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có
tổ chức tuân theo những luật định nhất định.
6.Các điều kiện cho sự hình thành và phát triển thị trường vốn
17


Kinh nghiệm khái quát của các nước cho thấy để có một thị trường

vốn phải có 5 điều kiện chủ yếu sau:
Điều kiện thứ nhất- Yếu tố con người và guồng máy quản lý
Cho tới nay, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường, khuyến khích các thành phần kinh tế, chấp nhận cạnh tranh và
đặc biệt quan tâm tới yếu cầu phát triển thị trường vốn. Như vậy, về
mặt lý thuyết, yếu tố con người phần nào đã được đáp ứng. Vấn đề
còn lại là tổ chức bộ máy quản lý sao cho bộ máy này có đủ khả năng
nhập cuộc, lĩnh hội và điều hành thị trường vốn. Vấn đề này chúng ta
còn qua chậm trễ, thậm chí cho tới nay vẫn chưa có sự chuẩn bị theo
một chương trình cụ thể. Mọi người vẫn rất mơ hồ về thị trường vốn,
không biết bắt đầu từ đâu và triển khai ra sao. Đội ngũ cán bộ quản lý
chưa được đào tạo có bài bản về các nghiệp vụ trên thị trường.
Điều kiện thứ hai- phát triển kinh tế hàng hóa và quan hệ thị
trường (điều kiện vật chất)
Thị trường bao gồm ba chủ thể có quan hệ với nhau: người mua,
người bán và người môi giới. Nguời mua phải có tiền và người bán
phải có hàng hóa. Có như vậy mới hình thành thị trường. Do đó, hàng
hóa và tiền để tiêu thụ hàng hóa là điều kiện tiên quyết để hình thành
thị trường
- Đối với yếu tố hàng hóa, trên thị trường vốn, các loại hàng hóa
phải đuợc đa dạng hóa. Nhưng như đã phân tích ở các phần trên tất
cả các hàng hóa trên thị trường này đề do Nhà nước (Chính Phủ),
các trung gian tài chính và các doanh nghiệp tạo ra. Vậy, ở nước

18


ta, loại hàng hóa nào sẽ được “sản suất” để đem ra tiêu thụ trước
và với điều kiện nào? Thời gian nào?
- Đối với yếu tố người mua, Thu nhập của dân cư được chia làm hai

phần: phần để chi phí cho tiêu dùng thường xuyên (ăn, ở, đi lại,
giải trí…) và phần tiết kiệm dùng cho mục đích khác. Chính phần
tiết kiệm này là đối tượng thu hút của thị trường tài chính và thị
trường vốn. Do đó khối lượng và tỷ trọng tiết kiệm trong tổng thu
nhập sẽ quyết định mức độ hoạt động của thị trường vốn. Người ta
đã tổng kết rằng, khi thu nhập bình quân đầu người thấp, thì tỷ
trọng chi cho tiêu dùng cao, tỷ trọng này càng giảm, khi thu nhập
bình quân đầu người càng tăng. Nghĩa là, việc hình thành và phát
triển thị trường vốn phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập bình quân
đầu người. Do đó nâng cao thu nhập cho người dân đồng thời thực
hiện các chính sách nhằm tận dụng được các khoản tiết kiệm nhàn
rỗi để tái đầu tư là một trong những điều kỉện để thức đẩy sự phát
triển của thị trừong vốn.
Điều kiện thứ ba-ổn định tiền tệ, đây là điều kiện tiên quyết, vì
nếu đồng tiền không ổn định, thì thị trường vốn không thể hoạt động
được do mức độ rủi ro quá cao.
Nói đến ổn định tiền tệ là nói tới chống lạm phát, vì biểu hiện của
lạm phát là sự mất giá của đồng tiền. Để phát triển thị trường vốn
việc đầu tiên cần làm là có thể khống chế được lạm phát.
Phát triển thị trường vồn còn đòi hởi phải phát triển đồng bộ thị
trường tiền tệ (một bộ phận quan trọng khác của thị trường tài chính),
thị trường vốn phải được xây dựng dự vào hoạt động của hệ thống
19


ngân hàng . Vì thế, các biện pháp, chính sách xoay quanh các mục
tiêu phát triển đồng bộ các thị trường trong hệ thống tài chính.
Điều kiện thứ tư- Đây là những điều kiện về pháp lý, bao gồm hệ
thống luật pháp và quy chế cần thiết cho hoạt động của thị trường tài
chính và thị trường vốn. Thị trường vốn càng phát triển thì khung

pháp lý điều chỉnh cũng phải đầy đủ hoàn thiện.Luật pháp phải bảo
vệ được những quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia thị
trường vốn.
II/Tổng quan về thị trường chứng khoán
Để huy động được các nguồn vốn dài hạn bên cạnh việc đi vay
ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và một
số các công ty còn thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành
các chứng khoán. Khi các chứng khoán này được phát hành thì tất yếu
sẽ nảy sinh nhu cầu về trao đổi mua bán qua lại các chứng khoán này.
Vì vậy, thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là một bộ phận của
thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán
các loại.
Với tư cách là bộ phận chủ yếu của thị trường vốn. Thị trường
chứng khoán là một nội dung trọng tâm khi đề cập tới thị trường vốn.
Để di sâu hơn tìm hiểu thị trường vốn nói chung và thị trường chứng
khoán nói riêng, những phần sau sẽ từng bước đề cập tới những nội
dung quan trong của thị trường chứng khoán. Đồng thời có những
nhóm giải pháp tháo gỡ riêng cho những khó khăn của loại hình thị
trường này.
1. Những khái niệm cơ bản
20


1.1.So sánh giữa thị trường chứng khoán và thị trường vốn
Thị trường vốn là nơi những công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài
hạn (thường có thời gian đáo hạn trên 01 năm) do các tổ chức Nhà
nước và các công ty phát hành được trao đổi, mua bán, chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật. Các trái phiếu dài hạn và các cổ
phiếu đều được giao dịch trên thị trường này. Đây cũng là các công cụ
trao đổi trên thị trường chứng khoán. Ở đây có sự đồng nhất giữa thị

trường vốn và thị trường chứng khoán. Để phân biệt sự khác nhau
giữa thị trường vốn và thị trường chứng khoán thì phải xem xét chúng
trong tổng thể cơ cấu của thị trường tài chính. Sự phân chia này chỉ
nhằm phân tích xem xét về mặt lý thuyết và quản lý, trên thực tế các
thị trường trong hệ thống tài chính các tác động đan xen rất khó có thể
phân định ranh giới
Sơ đồ 1: Phân chia cấu trúc của thị trường tài chính

21


Thị trường tài chính
Thị trường tài chính
Thị trường tiền
Thị trường tiền
tệ
tệ

Thị trường
Thị trường
hối đoái
hối đoái

Cho vay
Cho vay
ngắn hạn
ngắn hạn
của các
của các
định chế

định chế
tài chính
tài chính
trung gian
trung gian

Thị trường vốn
Thị trường vốn

Thị trường
Thị trường
liên ngân
liên ngân
hàng
hàng

Thị trường
Thị trường
tín dụng
tín dụng
thế chấp
thế chấp

Thị trường
Thị trường
chứng
chứng
khoán
khoán


Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán
phi chính thức( OTC)
phi chính thức( OTC)

Thị trường
Thị trường
tín dụng
tín dụng
thuê mua
thuê mua

Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán
(thị trường chính thức)
(thị trường chính thức)

Rõ ràng, thị trường chứng khoán là một bộ phân của thị trường vốn,
nhưng nếu xét về mặt nội dung, thị trường vốn biểu hiện các quan hệ
bản chất bên trong của quá trình mua và bán các chứng khoán. Thị
trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn
cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau,
mà nó là thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên
ngoài của thị trường tư bản. Vì vậy, trên thực tế, người ta hay nói đến
thị trường chứng khoán - hình thức giao dịch vốn, mà ít nói tới thị
trường vốn –quan hệ mua, bán, chuyển nhượng các giấy tờ có giá.
1.2.Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trong hoạt động của thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể
khác nhau tham gia, hoặc là bán chứng khoán hoặc là mua chứng
khoán, hoặc chỉ làm trung gian môi giới cho hai bên mua bán để

22


hưởng hoa hồng môi giới. Bên cạnh đó, còn có các chủ thể là Nhà
nước, người tổ chức thị trường và các tổ chức phụ trợ.
• Các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người tạo ra
hàng hóa ở thị trường sơ cấp và mua bán các loại chứng khoán ở thị
trường thứ cấp. Doanh nghiệp là công ty cổ phần có vị trí quan trọng
nhất, nó tạo ra một khối lượng lớn hàng hóa qua việc phát hành cổ
phiếu để bán lần đầu ở thị trường sơ cấp, nhằm tạo vốn cho công ty
mới thành lập, hoặc phát hành bổ xung để tăng vốn phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty cổ phần không chỉ là
chủ thể bán chứng khoán, mà nó cũng là người mua chứng khoán do
các công ty phát hành với nhiều mục đích khác nhau như đầu tư vào
cổ phiếu của công ty khác, mua bán chứng khoán của chính mình
hoặc tham gia các hoạt động mang tính tiêu cực như: thủ tiêu đối thủ
cạnh tranh hoặc khống chế, thao túng nhằm nắm quyền kiểm soát
công ty… Các doanh nghiệp khác cũng có thể phát hành thêm trái
phiếu, hoặc cũng có thể là nhưng chủ thể mua bán chứng khoán hoặc
tạo ra tính thanh khoản cho những chứng khoán của mình.
• Các nhà đầu tư riêng lẻ
Là chủ thể quan trọng tham gia thị trường chứng khoán với tư ncách
là người mua bán chứng khoán, họ là những người tiết kiệm và muốn
đầu tư số tiền dể dành của mình vào chứng khoán để được hưởng lợi
tức hàng năm. Họ cũng là người bán lại các chứng khoán của mình
trên thị trường chứng khoán để rút vốn trước thời hạn hoặc để có

23



những khoản chênh lệch giá. Họ tham gia thị trường bằng nhiều cách
khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp.
• Các tổ chức tài chính.
Các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ tham gia thị
trường chứng khoán với tư cách vừa là người mua, vừa là người bán
để tìm kiếm lợi nhuận thông qua hình thức nhận cổ tức, lãi trái phiếu,
hoặc tìm kiếm giá trị thăng dư, hoặc tìm kiếm thanh khoản. Vai trò
của các tổ chức này ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển
ngày càng to lớn. Các ngân hàng thương mại tham gia thị trường
chứng khoán với tư cách là người phát hành cổ phiếu để tạo nguồn
vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ xung, cũng như phát hành trái
phiếu để huy động vốn. Ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch
vụ trên thị trường chứng khoán như tư vấn về phát hành, làm đại lý
phát hành để được hưởng phí hoa hồng, hoặc bảo lãnh phát hành toàn
bộ đẻ hưởng phí bảo lãnh.
Ngoài ra , Ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ khác với
tư cách là nhà trung gian môi giới chứng khoán như mua bán chứng
khoán hộ cho khách hàng để hưởng phí hoa hồng, lưu giữ chứng
khoán, nhận và trả cổ tức cho khách hàng, làm dịch vụ thanh toán
chứng khoán.
• Nhà môi giới kinh doanh chứng khoán
Nhà môi giới là những người trung gian thuần túy, họ hoạt động
như các đại lý cho những người mua bán chứng khoán. Sự tham gia
của họ trên thị trường chứng khoán góp phần bảo đảm các loại chứng
khoán được giao dịch trên thị trường là chứng khoán thực, giúp cho
24


thị trường hoạt động lành mạnh, đề đặn, hợp pháp , phát triển và bảo

vệ lợi ích cho nhà đầu tư. Với tư cách là người kinh doanh chứng
khoán họ thực hiện việc mua bán chứng khoán cho chính bản thân
mìnhnhằm mục tiêu lợi nhuận. Đây là lĩnh vực kinh doanh có nhiều
rủi ro lớn, nếu các chứng khoán tăng lên , người kinh doanh có lời
ngược lại thì lỗ. Các công ty chứng khoán thường làm cả hai nghiệp
vụ là môi giới để hưởng phí hoa hồng hoặc tự kinh doanh để tìm
chênh lệch giá.
• Người tổ chức thị trường
Là người cung cấp địa điểm và phương tiện để phục vụ cho việc mua
bán chứng khoán, đó là Sở giao dịch chứng khoán . Ngoài ra, người
tạo lập thị trường còn thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt
động diễn ra tại đây nhằm đảm bảo minh bạch, công khai trong giao
dịch chứng khoán
• Nhà nước
Nhà nước là đối tượng tham gia thị trường với hai tư cách khác
nhau:
Sự tham gia của Nhà nước cho đảm bảo thị trường được hoạt động
công bằng, công khai, trật tự, tránh những tiêu cực có thể xảy ra.
Nhà nước còn tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là người
cung cấp hàng hóa cho thị trường. Nhà nước tạo hàng hóa cho thị
trường chứng khoán thông qua việc Chính phủ hoặc chính quyền địa
phương phát hành trái phiếu để vay nợ từ nhân dân và các tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước ở thị trường sơ cấp, nhằm phục vụ cho
các mục tiêu đã đề ra. Ở thị trường thứ cấp, Nhà nước đóng vai trò là
25


×