Mặt tích cực và tiêu cực
của thị trờng chứng khoán tại việt nam
I. Sự cần thiết phải có thị trờng chứng khoán ở Việt Nam.
Việt Nam là một nớc đang phát triển chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi
mới công nghiệp hoá hiện đại hoá. Chúng ta đã đạt một số kết quả ban đầu đáng
khích lệ nhng so với khu vực và thế giới chúng ta vẫn là một nớc chậm phát triển.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vốn cho sản xuất là vô cùng cần
thiết và không thể thiếu. Tiềm năng kinh tế của ta có, lực lợng lao động dồi dào
đang ngày càng có tay nghề cao trong nhiều lĩnh vực, chúng ta hoàn toàn có khả
năng phát triển nhanh hơn nữa. Vấn đề đặt ra là làm sao có vốn để đầu t khai thác
những tiềm năng sẵn có ấy phục vụ cho công cuộc phát triển đất nớc hiện
nay.Hiện nay dễ nhận thấy có hai nguồn vốn cơ bản mà chúng ta đang tập trung
khai thác đó là vốn đầu t nớc ngoài và vốn đầu t trong nớc.
Vốn từ nớc ngoài có nhiều u điểm hơn nữa nó còn đi liền với công nghệ hiện
đại và phơng pháp quản lý tiên tiến. Bên cạnh đó vốn từ nớc ngoài cũng có những
nhợc điểm nhất định. Thứ nhất, chúng ta phải đối mặt với lạm phát gia tăng và
nguy cơ khủng hoảng về tài chính giống nh một số nớc Đông Nam á trớc đây. Thứ
hai, các thành phần kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài có thể sẽ lấn át thành phần kinh
tế nhà nớc khiến chúng ta lệ thuộc về kinh tế từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị
Vốn đầu t trong nớc: Trong chiến lợc phát triển đất nớc hiện nay Đảng ta đã
xác định dựa vào nguồn lực trong nớc là chính do vậy vốn đầu t trong nớc đợc
Đảng và nhà nớc ta đặc biệt quan tâm. Đây là nguồn vốn có giới hạn nhng không
nhỏ. Làm sao thu hút đợc nguồn vốn này vào đầu t ? Chúng ta đã phát triển một
nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát huy mọi khả năng của các thành phần
kinh tế trong xã hội nhng có lẽ vẫn là cha đủ vì trong dân chúng còn rất nhiều các
khoản nhàn rỗi nh tiết kiệm, các quỹ tiết kiệm, quy bảo hiểm... Trong khi rất nhiều
tổ chức cá nhân và doanh nghiệp thì lại rất cần vốn, đi vay các ngân hàng thì
không đợc vì không có gì thế chấp mặc dù dự án là rất khả thi. Quan hệ tín dụng
không đợc phổ biến ở Việt Nam. Kinh nghiệm của các nớc phát triển cho thấy thị
trờng chứng khoán là công cụ rất tốt để huy động tối đa các khoản nhàn rỗi đa vào
phát triển. Nó phù hợp với tâm lý muôn hình muôn vẻ của các thành phần trong xã
hội, sẽ là bà đỡ cho các dự án khả thi và các doanh nghiệp.
1
Thị trờng chứng khoán Việt Nam ra đời đã đợc hơn một năm tuy quy mô của
thị trờng còn nhỏ hẹp, khối lợng cổ phiếu giao dịch còn ít và cha đại diện cho các
nghành kinh tế trọng điểm, vai trò tác động đến nền kinh tế còn hạn chế song nó
đã đánh dấu một bớc tiến quan trọng trong việc phát triển thị trờng tài chính Việt
Nam
II. Những mặt tích cực của thị trờng chứng khoán.
1. Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào
đầu t.
Thị trờng chứng khoán sẽ đa cho dân chúng những công cụ mới đa dạng,
phong phú phù hợp với từng loại đói tợng có tâm lý và suy nghĩ riêng. Cả một hệ
thống gồm hàng loạt các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau của nhiều ngành
kinh tế, ngời có vốn có thể tự mình lựa chọn, hoặc thông qua những nhà tài chính
chuyên môn lựa chọn những hình thức thích hợp nhất.
Mua cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trờng chứng khoán lợi nhuận thu đợc
hàng nămchỉ là một phần của lợi ích. Phần quan trọng hơnlà mệnh giá cổ phiếu
gia tăng do công ty tự tích luỹ, và giá chứng khoán trên thị trờng cao hơn mệnh giá
do uy tín của công của công typhát hành. Ngoài ra còn là việc thực hiên quyền
kiểm soát công ty... Đó chính là những tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm trong
dân chúng.
Ngoài ra trong hoạt động của xã hội luôn có những loại quỹ có vốn bằng tiền
nh bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể, và các loại quỹ tơng trợ khác. Một phần vốn
của quỹ này đợc gửi vào ngân hàng để thực hiện việc thanh toán. Số còn lại quan
trọng hơn nhiều, những nhà quản lý quỹ luôn tìm cách làm cho số vốn của họ đợc
sinh lợi nhiều nhất nhng lại phaỉ an toàn và phải có tính tạm thời... thị trờng chứng
khoán có khả năng giải quyết các yêu cầu đó.
Mỗi ngời trong xã hội chỉ có một lợng tiền nhỏ, nhng kết hợp lại sẽ thành
một lợng lớn khổng lồ. Số tiền này đợc tập trung qua thị trờng chứng khoán để đa
vào công cuộc đầu t có tính sản xuất.
Nhờ thị trờng chứng khoán, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ
phiếu quỹ đầu t, đại đa số dân chúng đều có thể tham gia đợc vào công cuộc đầu t
bằng số vốn ít ỏi của mình. Chẳng hạn một sinh viên cũng có thể tham gia vào thị
trờng chứng khoán với vài trăm nghìn mà ngơì thân cho bằng cách mua một vài cổ
phiếu cua một công ty nào đó. Với hàng nghìn ngời nh vậy sẽ tạo ra một số tiền rất
lớn phục vụ đàu t sản xuất. Hoạt động của thị trơng tài chính và khả năng mang lại
2
lợi nhuận của nó đã khiến ngời ta thấy nắm giữ tiền mặt và những tài sản khác là
rất vô lý.
2. Thị trờng chứng khoán là một công cụ giúp nhà nớc thực hiện chơng
trình phát triển kinh tế xã hội.
Nhà nớc nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế
tăng trởng hay suy thoái trớc hết phụ thuộc vào các chính sách và các biện pháp
can thiệp của nhà nớc. Ngân sách nhà nớc càng lớn thì các chơng trình phát triển
kinh tế xã hội càng dễ thành công.Để có vốn cho chi tiêu của nhà nớc, nhà nớc
thực hiện chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo nên ngân sách
nhà nớc. Nhng thông thờng tiền thu từ thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có
nguồn thu khác, đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phơng...một hình thức vay tiền của dân. Không có thị trờng tài chính thì
nhà nớc cũng phát hành đợc trái phiếu nhng việc phát hành sẽ khó khăn và tính
lỏng của trái phiếu sẽ rất thấp.
3. Là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu t nớc ngoài.
Về khả năng thu hút vốn đầu t của TTCK. Không có thông tin đầy đủ chính
xác thì dù có thừa vốn nhà đầu t cũng không giám đầu t. TTCK hoạt động trên
nguyên tắc công khai nghĩa là mọi đối tợng tham gia phải công khai hoá và cập
nhật toàn bộ những thông tin có liên quan đến giá trị chứng khoán và công khai
khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Nh vậy TTCK sẽ
khắc phục đợc tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực cho cả
hai phía.
Về khả năng kiểm soát vốn đầu t vốn nớc ngoài của TTCK. Đầu t thông qua
thị trờng chứng khoán tức là đầu t mua bán trên thị trờng có tổ chức.Trong mỗi
loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần đợc bán cho ngời nớc ngoài.
Chẳng hạn khống chế một tỷ lệ nhất định mà cá nhân tổ chức có thể mua nhằm
chống sự tham gia quản lý và kiểm soát công ty. Đó là u điểm cơ bản của phơng
thức thu hút vốn đầu t nớc ngoài thông qua TTCK.
TTCK còn là tấm gơng phản chiếu chất lợng của hoạt động kinh doanh vì giá
cổ phiếu phản ánh tình hình hoạt động của công ty. Sự tăng nhu cầu vào một loại
chứng khoán nào chứng tỏ công ty đó đang hoạt động tốt.
4. TTCK lu động hoá các nguồn vốn trong nớc.
Các cổ phiếu, trái phiếu tợng trng cho một số vốn đầu t đợc mọi ngời mua đi
bán lại trên thị trờng chứng khoán. Ngời có vốn không sợ vốn của họ bị đông
3
trên thị trờng vì khi cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu của họ và mua
các loại cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác. Trong thị trờng chứng khoán vốn
luôn đợc luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu t khác nhau. Qua đó nó làm cho
mọi nguồn vốn trở nên lu động hơn.
5. TTCK là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá.
Cổ phần hoá là quá trìnhchuyển từ doanh nghiệp nhà nớc sang công ty cổ
phần, quá trình đó đòi hỏi phải có TTCK bởi lẽ công ty cổ phần và TTCK là nh
hình với bóng. Nừu không có TTCK thì vốn đầu t qua cổ phiếu sẽ kém lỏng hơn
rất nhiều, nh vậy sẽ khó khăn cho việc khát hành. Cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nớc và các doanh nghiệp khác với mục tiêu chủ yếu là thu hút những nguồn
vốn trong tay quần chúng vào đầu t. Do vậy TTCK là điều kiện tiền đề cật chất
cho quá trình cổ phần hoá.
6. TTCK kích thích các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng.
Nhờ có TTCK mà các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành cổ phiếu
trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCKchỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của các
công ty đủ tiêu chuẩn: Kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, kinh doanh có
lợi và ngời ta cũng chỉ mua cổ phiếu của công ty thành đạt và có uy tín. Nh vậy
những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng. Hơn nữa
TTCK buộc các doanh nghiệp phải công bố công khai các bản báo cáo cân đối tài
chính do đó công chúng có thể đánh giá hoạt động của công ty.
III. Những mặt tiêu cực của thị trờng tài chính.
TTCK có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn vào đầu t nhng nó cũng
có những mặt tiêu cực. đó là:
1. Yếu tố đầu cơ:
Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những ngòi chấp nhận rủi ro. Họ có thể
mua cổ phiếu hôm nay và hy vọng ngay mai giá cả sẽ tăng dể bán ra thu chênh
lệch. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hởng dây chuyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng
hay giảm giả tạo.Sự cấu kết giữa nhiều ngời sẽ tạo ra sự khan hiếm hay thừa thãi
giả tạo làm cho giá cổ phiếu lên xuống đột ngột.
Nói chung luật về TTCK không cấm đầu cơ nhng cấm cấu kết dói mọi hình
thức.
4
Đây là vấn đề rất phức tạp ở Việt Nam. Trớc hết là do TTCK mới thành lập
luật vềTTCK còn nhiều điều còn đang bàn cãi. Tiếp đó là mới chỉ có một số it ng-
ời tham gia vào TTCK với số lợng lớn do đó rất đễ câu kết với nhau. Đây là vấn đề
rất khó phát hiện và giải quyết.
2. Mua bán nội gián.
Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm đợc những thông tin nội bộ của đơn vị
kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thờng nhằm
thu lợi riêng cho mình ảnh hởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trờng. Mua bán
nội gián đợc coi là vi phạm quyền lợi chung vi sử dụng nguồn thông tin từ bên
trong.
3. Bán cổ phiếu ngoài thị trờng chứng khoán.
Nếu việc mua bán này đợc tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lờng. Vì bộ
phận quản lý sẽ không thể nào biết đợc việc chuyển nhợng quyền sở hữu cổ phần
của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán từ bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho
các nhà đầu t khác, thậm chí dẫn đến việc không chế hay thay đổi lãnh đạo của
đơn vị. Vì vậy hầu hết các TTCK đều quy định mỗi mua bán cổ phiếu đã đăng ký
với TTCK phải đợc thực hiện thông qua TTCK.
4. Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hoạt động của
một đơn vị kinh tế.
5. Liên tục mua vào một loại cổ phiếu nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp
với mục tiêu làm ảnh hởng đến giá của cổ phiếu để đầu cơ.
Những mặt tiêu cực đó có thể hạn chế và khắc phục bằng việc ban hành
một số hệ thống luật lệ hoàn chỉnh, và có sự giám sát của Uỷ ban chứng khoán
quốc gia.
IV. TTCK ở Việt Nam khó khăn thuận lợi và một số giải pháp.
1. Thuận lợi
Nền kinh tế đã ra khỏi khủng khoảng với mức tăng trởng cao và liên tục
trong vài năm năm liên tiếp gần đây. Yếu tố này đã kích thích sự tăng lên về nhu
cầu t, nhất là đầu t dài hạn. Ngời đầu t có thể yên tâm đầu t vào các mục đích sinh
lợi khác nhau, trong đó có các chứng khoán trên thị trờng. Mặt khác, trớc khi hình
thành thị trờng chứng khoán hoàn chỉnh chung ta đã có một số công cụ tài chính
5