Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

phân tích các chỉ tiêu tài chính của công ty cổ phần dược vật tư y tế Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.54 KB, 79 trang )

Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Mục lục

1


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Lời mở đầu
Như ta đó biết, nhận thức, quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của quản
lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ các hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ vị trí đặc
biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ cần đạt tới trong
tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết định đúng và tổ chức
thực hiện kịp thời các quyết định đúng đương nhiên sẽ thu được những kết quả như mong
muốn. Ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới cỏc quyết định sai và nếu thực hiện các
quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể lường trước được.
Vi vậy phân tích tình hình tài chính thông qua các chỉ số tài chính là đánh giá đúng
đắn nhất những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơ sở đó kiến nghị các
biện pháp để tận dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu.
Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh nghiệp
mà cũng là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người cho vay, Nhà
nước và người lao động. Qua đó họ sẽ thấy được thực trạng thực tế của doanh nghiệp sau
mỗi chu kỳ kinh doanh, và tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh. Thông qua phân
tích họ có thể rút ra được những quyết định đúng đắn liên quan đến doanh nghiệp và tạo
điều kiện nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp. Do đó việc phân tích tài chính
trong một doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần


dược vật tư y tế Hải Dương em quyết định chọn đề tài: " phân tích các chỉ tiêu tài chính
của công ty cổ phần dược vật tư y tế Hải Dương "
Thực hiện đề tài này với mục đích dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản xuất
kinh doanh của Cụng ty để ứng dụng phương pháp phân tích, từ đó đánh giá hiệu quả sản
xuất kinh doanh của Cụng ty
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: cơ sở lý luận chung về phân tích tình hình tài chính
Chương 2: phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần dược vật tư y tế Hải Dương
Chương : một số giải pháp để nâng cao tình hình tài chính của công ty cổ phần dược vật
tư y tế Hải Dương

2


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp :
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho
phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh
giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người
sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá sản
tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh giá khả
năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên

cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết
quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai.
Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính - một trong các hướng dự
đoán doanh nghiệp. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau
: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu,
thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp )
1.1.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc phân tích
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh các số
liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá khứ nhằm mục đích đánh giá
tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Báo cáo tài chính
là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn và công nợ cũng như tình hình
tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối
việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những
người bên ngoài doanh nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của
nhiều nhóm người khác nhau như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông,
các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan chính phủ, người lao
động... Mỗi nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau.
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài chính
doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp
luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng
quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ,
nhà cung cấp, khách hàng... kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối
tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.
1.1.2.1. Đối với người quản lý doanh nghiệp :
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi
nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và

3



Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến
hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải giải
quyết ba vấn đề quan trọng sau đây :
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản xuất
kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải có tiền
để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên phải của bảng
cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ dài hạn, ngắn
hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn có thời hạn trên một năm.
Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của tổng tài sản và nợ của doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho
phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất. Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn
chủ sở hữu để đầu tư hay kết hợp với cả các hình thức đi vay và đi thuê? Điều này liên
quan đến vấn đề cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp.
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế
nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến vấn đề
quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với các
dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự lệch pha của các dòng
tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở để

đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và dựa
trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì lợi ích của cổ
đông của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của nhà quản lý tài chính đều nhằm
vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và
chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận
và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và
mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết định của nhà quản lý được đưa ra là
đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp, các nhà phân
tích tài chính trong doanh nghiệp là những người có nhiều lợi thế để thực hiện phân tích
tài chính một cách tốt nhất.
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng thanh
toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi, nhà quản lý
tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của
doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định hướng cho giám đốc tài chính cũng
như hội đồng quản trị trong các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập

4


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các
hoạt động quản lý.
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn, mức
sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt

động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh
nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc giảm giá cổ
phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết
định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được. Vì thế,
mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối
đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư
và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả
kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng
phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ
chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng
của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ
và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự
giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức
và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi
trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của cổ đông bao
gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị
trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài
chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu
nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy
mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố
như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên
một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá
cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu
tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực hiện
nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp thì phân tích
tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương mại cho doanh
nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được xem
xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn,
người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp, nghĩa
là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả. Nếu là những
khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh
lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ chủ
yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt đến số lượng

5


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn
để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân
hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số
vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ
thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng
cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài
chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ phải
quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không, họ cần
phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong thời gian sắp tới.
1.1.2.4. Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người được
hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính của doanh
nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác động trực

tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra trong một số
doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định.
Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn
với doanh nghiệp.
1.1.2.5. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước
thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh,
hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ và
luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa
vụ với Nhà nước và khách hàng...
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các
báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các phương
pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác
nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt
động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài
chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.1.3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài chính là
việc cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của doanh nghiệp, bao
gồm:
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn cho sản
xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết quả tài
chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh hưởng đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp có hiệu quả để khắc

6



Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm tàng của doanh nghiệp để
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra
quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai của doanh nghiệp
nên thông tin sử dụng để phân tích tài chính không chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu
các báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực :
- Các thông tin chung về kinh tế, thuế, tiền tệ.
- Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1. Thông tin chung
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác
động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và
thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm
là khả quan. Tuy nhiên khi những biến động của tình hình kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh
hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy để có được sự đánh
giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, chúng ta phải xem
xét cả thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan.
1.2.2. Thông tin theo ngành kinh tế
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành kinh tế là việc đặt sự phát triển của
doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh.
Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan tới:
-Tính chất của các sản phẩm.

- Quy trình kỹ thuật áp dụng.
- Cơ cấu sản xuất : công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ, những cơ cấu sản xuất
này có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ...
- Nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế.
Việc kết hợp các thông tin theo ngành kinh tế cùng với thông tin chung và các
thông tin liên quan khác sẽ đem lại một cái nhìn tổng quát và chính xác nhất về tình hình
tài chính của doanh nghiệp. Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu
trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể đánh giá, kết luận chính
xác về tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.2.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của
dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, thông tin số
lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra nhận xét, kết luận sát
thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh
đầy đủ trong các báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện
trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán.

7


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Các báo cáo tài chính gồm có:
1.2.3.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo tài chính phản ánh
tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, dưới hình thái
tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Xét về bản chất, bảng cân đối kế

toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở hữu và công nợ phải
trả( nguồn vốn).
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bản cân đối
kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình tài
chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế,
tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày:
- Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần nguồn vốn.
- Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần dưới là phần
nguồn vốn.
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn bằng
nhau.
Tài sản = Nguồn vốn
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả

• Phần tài sản: Bao gồm có tài sản lưu động và tài sản cố định.

Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản
lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai.
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về quy
mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của doanh
nghiệp.

• Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản ánh các
nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của
doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn( Nhà nước, ngân hàng, cổ đông, các bên liên
doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm của
doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh, về số tài sản hình thành và trách
nhiệm phải thanh toán các khoản nợ( với người lao động, với nhà cung cấp, với Nhà

nước...).
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản hiện có, căn
cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng thời phần nguồn vốn
cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán:

8


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

+ Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ
tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn.
+ Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản lưu
động, tài sản cố định.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các khoản phải
trả.
+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp.
1.2.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài
chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của vốn trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó cho phép dự tính khả năng hoạt động
của doanh nghiẹp trong tương lai. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng
giúp cho nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch
vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy,
báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh

tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những
thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ
thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Biểu mẫu “Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” có 3 phần:
+ Phần I: Lãi, lỗ.
+ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập trên cơ sở các
tài liệu:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
+ Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9.
+ Sổ kế toán các tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” và tài khoản 333
“Thuế GTGT phải nộp”.
Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu, lợi
nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh nghiệp. Do đó,
phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta đánh giá khái quát tình hình
tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh nghiệp kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ
suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là bao nhiêu. Từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của
kỳ này so với kỳ trước và dự đoán tốc độ tăng trong tương lai.

9


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, ta biết
được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số thuế còn phải nộp lớn

chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không khả quan.
Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có những
nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh
nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc
của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát
sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ
được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình
hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng vào ra của tiền và các khoản coi
như tiền được tổng hợp thành ba nhóm : lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất
thường.
1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình
sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải thích thêm
một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày nhằm giúp cho người
đọc và phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn
về sự thay đổi những khoản mục trong bảng cân đối kế toán và kết quả hoạt động kinh
doanh.
“Thuyết minh báo cáo tài chính” được lập căn cứ vào những số liệu và những tài
liệu sau:
+ Các sổ kế toán kỳ báo cáo.
+ Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước.
“ Thuyết minh báo cáo tài chính” trình bày 7 chỉ tiêu nhằm cụ thể hoá các chỉ tiêu
mà bảng cân đối kế toán không thể nêu lên hết được bao gồm:
+ Chỉ tiêu 1: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.

+ Chỉ tiêu 2: Chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp.
Khi lập hai chỉ tiêu này, phải quán triệt các nguyên tắc chung sau:
- Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu.
- Phần trình bày bằng số liệu phải thống nhất với số liệu trên cỏc báo cáo khác

10


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

- Các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải thống nhất
trong cả niên độ kế toán d?i với các báo cáo quý. Nếu có sự thay đổi phải trình bày rõ
ràng những lý do thay đổi.
- Trong các biểu số liệu, cột “số kế hoạch” thể hiện số liệu kế hoạch của kỳ báo
cáo, cột” số thực tế kỳ trước” thể hiện số liệu của kỳ ngay trước kỳ báo cáo.
- Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp chỉ sử
dụng trong thuyết minh báo cáo tài chính năm.
+ Chỉ tiêu 3: “Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính” bao gồm:

o Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố: phản ánh toàn bộ chi phí sản xuất
kinh doanh phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp, được phân chia theo các yếu tố
chi phí như sau:

-

Chi phí nguyên vật liệu.
Chi phí nhân công.
Chi phí khấu hao tài sản cố định.

Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Chi phí khác bằng tiền.
o Tình hình tăng giảm tài sản cố định: phản ánh tổng số tăng giảm của tài sản cố
định hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính, tài sản cố định vô hình theo từng
nhóm tài sản trong kỳ báo cáo như nhà cửa, máy móc, thiết bị...cả về nguyên
giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại và lý do tăng, giảm chủ yếu.
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được lấy từ các tài khoản 211, 212, 213, 214 trong
sổ cái.

o Tình hình thu nhập của công nhân viên: phản ánh tổng số thu nhập bình quân
của công nhân viên từ tiền lương và các khoản tiền thưởng, các khoản phụ cấp,
trợ cấp có tính chất luong và các khoản tiền thưởng trước khi trừ các khoản
giảm trừ trong kỳ báo cáo.

o Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu: phản ánh tổng số tăng giảm các nguồn vốn
chủ sở hữu trong kỳ báo cáo như nguồn vốn kinh doanh, quỹ đầu tư phát triển,
quỹ dự phòng tài chính...theo từng loại nguồn vốn và theo từng nguồn cấp như
ngân sách cấp, chủ sở hữu góp, nhận vốn góp liên doanh...và lý do tăng giảm
chủ yếu.

o Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào đơn vị khác: phản ánh tổng số tăng,
giảm, kết quả các khoản đầu tư vào đơn vị khác theo từng loại đầu tư trong kỳ
báo cáo như đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh ngắn hạn, dài hạn...và lý
do tăng giảm chủ yếu.

o Các khoản phải thu và nợ phải trả: phản ánh tình hình tăng giảm các khoản phải
thu và nợ phải trả, các khoản đã quá hạn thanh toán, đang tranh chấp hoặc mất
khả năng thanh toán trong kỳ báo cáo theo từng đối tượng cụ thể và lý do chủ
yếu.


11


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

+ Chỉ tiêu 4: “Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh”.
+ Chỉ tiêu 5: “Phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài
chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ” bao gồm:

-

Bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn.
Khả năng thanh toán.
Tỷ suất sinh lời.
+ Chỉ tiêu 6: “ Đánh giá tổng quát các chỉ tiêu”. Đây là phần doanh nghiệp tự
đánh giá khái quát tình hình thực hiện các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo của mình cùng những
khó khăn, thuận lợi mà doanh nghiệp gặp phải trong kỳ báo cáo.
+ Chỉ tiêu 7: “ Các kiến nghị”
Doanh nghiệp đề xuất các kiến nghị với các cơ quan hữu quan về các vấn đề liên
quan đến chế độ, chính sách...trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác dụng của việc phân tích” Thuyết minh báo cáo tài chính”
Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung những thông tin chi
tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp. Cụ thể:
+ Phân tích chỉ tiêu “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” sẽ cho ta biết tình
hình biến động của chi phí trong kỳ theo từng yếu tố chi phí: nguyên vật liệu, nhân công,
khấu hao.

+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm tài sản cố định” sẽ cho ta biết được
tình hình biến động của tài sản cố định trong kỳ theo từng loại. Qua đó, đánh giá được
tình hình đầu tư, trang bị tài sản cố định của doanh nghiệp và xây dựng được kế hoạch
đầu tư.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình thu nhập của công nhân viên” sẽ giúp ta có những
đánh giá chính xác hơn về sự phát triển của doanh nghiệp bởi vì không thể nói một doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả nếu thu nhập của người lao đông có xu hướng giảm theo
thời gian và thấp so với mặt bằng chung được. Thu nhập của công nhân viên phải gắn liền
với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu” để thấy được
tình hình biến động của tổng số nguồn vốn chủ sở hữu cũng như từng loại nguồn vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp. Qua đó, đánh giá được tính hợp lý của việc hình thành và sử
dụng từng nguồn vốn chủ sở hữu.
+ Phân tích “Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác” để nắm
được tình hình đầu tư và hiệu quả đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Phân tích chỉ tiêu “Các khoản phải thu và nợ phải trả” sẽ nắm được tình hình
thanh toán các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh nghiệp.

12


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Tình hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản phải trả là một trong
những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất lượng hoạt động tài chính. Nếu hoạt động tài
chính tốt, lành mạnh doanh nghiệp sẽ thanh toán kịp thời các khoản nợ phải trả cũng như
thu kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh được tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau cũng
như tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, tình trạng tranh chấp, mất khả năng thanh toán.

+ Phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận sẽ phản ánh hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Các tỷ suất lợi nhuận càng lớn so với trước thì chứng tỏ hiệu
quả kinh doanh càng tăng.
1.3. Tiến hành phân tích tài chính
1.3.1.Các bước tiến hành phân tích tài chính
1.3.1.1. Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh
thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Nó
bao gồm cả những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những thông tin kế
toán và những thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị...trong đó
các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là
những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là
phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
1.3.1.2. Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu thập
được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng
khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt
ra : Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định
nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt
được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
1.3.1.3. Dự đoán và quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để
người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra những quyết định tài chính. Có thể nói
mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính. Đối với chủ doanh
nghiệp, phân tích tài chính nhằm đưa ra những quyết định liên quan đến mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá
trị doanh nghiệp.
1.3.2.Trình tự phân tích tài chính
Trình tự tiến hành phân tích tài chính tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng với
từng giai đoạn dự đoán tài chính theo sơ đồ sau :


13


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Giai đoạn dự đoán

Nghiệp vụ phân tích

Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin
- Thông tin kế toán nội bộ
- Thông tin khác từ bên ngoài

áp dụng các công cụ phân tích
- Xử lý thông tin kế toán
- Tính toán các chỉ số
- Tập hợp các bảng biểu

Xác định các biểu hiện đặc trưng

Giải thích và đánh giá các chỉ số,
bảng biểu

- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn
- Điểm mạnh và điểm yếu

- Cân bằng tài chính

- Năng lực hoạt động tài chính
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi

Phân tích thuyết minh
- Nguyên nhân khó khăn
- Phương tiện thành công và điều kiện bất lợi

Tổng hợp quan sát

Xác định :
Tiên lượng và chỉ dẫn
- Hướng phát triển
- Giải pháp tài chính hoặc GP khác
Tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết cũng có thể thay đổi hoặc bỏ qua
một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng doanh nghiệp.
1.4. Các phương pháp phân tích tài chính
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng tài
sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình hình biến
động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài chính với
nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương pháp:
phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài chính.
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến động cả
về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính, còn phân
tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ
tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài chính với nhau để rút ra kết luận.

14



Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ yếu trong
phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến đổi của chỉ tiêu phân
tích.
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc vào mục
đích và yêu cầu của việc phân tích.
+ So sánh chỉ tiêu thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hoặc định mức. Đây
là phương thức quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu kế hoạch, định mức
và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề ra.
+ So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm cho thấy sự
biến đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của doanh
nghiệp cùng loại hoặc của doanh nghiệp cạnh tranh.
+ So sánh các thông số kinh tế- kỹ thuật của các phương án sản xuất kinh doanh
khác nhau của doanh nghiệp.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh
được của các chỉ tiêu:
+ Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội dung, cơ cấu
của các chỉ tiêu.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu này bằng
những đơn vị tính đổi nhất định.
+ Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh bằng các

chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường hợp, việc so sánh các
chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không mang một ý nghĩa kinh tế nào cả,
nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối thì hoàn toàn cho phép và phản ánh đầy
đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu.
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số tương đối.
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển không
đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách khác, số bình quân đã
san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu...Số bình quân có thể biểu thị dưới dạng
số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ suất). Khi so sánh bằng số bình quân sẽ thấy
mức độ đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành, xây dựng các định
mức kinh tế kỹ thuật.

15


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện tượng kinh tế.
Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, cách tính toán xác
định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường.
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của hiện
tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để phân tích so sánh.
Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên trong cũng như quy mô của
hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt
đối và số tương đối.
1.4.2. Phương pháp loại trừ
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích, để nghiên cứu ảnh

hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Trong thực tế phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích kinh tế dưới 2
dạng là: phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
1.4.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn.
Là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần lượt
và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu
khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ
tiêu khi chưa có biến đổi cuả nhân tố cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của
nhân tố đó.
Điều kiện áp dụng phương pháp là mối quan hệ giữa nhân tố cần đo ảnh hưởng và
chỉ tiêu phân tích phải thể hiện được dưới dạng công thức. Ngoài ra việc sắp xếp các nhân
tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đối với các chỉ tiêu phân tích phải theo
thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhấn tố chất lượng. Trình tự thay thế các nhân tố phải tuân
theo nguyên tắc nhất định vừa phù hợp với ý nghĩa của hiện tượng nghiên cứu vừa phải
đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ về thực chất của các nhân tố.
Trình tự thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn:
+ Bước 1: Sơ bộ phân tích về mặt lý luận mối quan hệ giữa các nhân tố và chỉ tiêu
kết quả và phân loại các nhân tố thành nhân tố số lượng và nhân tố chất lượng.
+ Bước 2: Sắp xếp các nhân tố theo thứ tự: nhân tố đứng sau chất lượng hơn nhân
tố đứng trước.
X= a* b* c* d
Số liệu kế hoạch: X0=a0*b0*c0*d0
Số liệu thực tế:

X1= a1*b1*c1*d1

+ Bước 3: Lập các tích số trung gian và ở mỗi tích số sau, chỉ tiêu báo cáo được
thay thế tương ứng cho chỉ tiêu kế hoạch.
X01= a1*b0*c0*d0
X02= a1*b1*c0*d0


16


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

X03= a1*b1*c1*d0
+ Bước 4: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách lấy tích số thứ
hai trừ đi tích số thứ nhất, tích số thứ ba trừ đi tích số thứ hai, tích số thứ tư trừ đi tích số
thứ thứ ba...
Xa=( a1*b0*c0*d0)-(a0*b0*c0*d0)
Xb=( a1*b1*c0*d0)-( a1*b0*c0*d0)
Xc=(a1*b1*c1*d0)-(a1*b1*c0*d0)
Xd=(a1*b1*c1*d1)-(a1*b1*c1*d0)
Như vậy, khi có n nhân tố thì có( n- 1) lần thay thế tức là lập được( n- 1) tích số
trung gian. Khi thay đổi trình tự thay thế thì mức độ ảnh hưởng của các nhân tố sẽ thay
đổi, còn tổng mức độ ảnh hưởng của chúng thì không đổi.
Ưu điểm của phương pháp thay thế liên hoàn: Xác định được mức độ và chiều
hướng ảnh hưởng của các nhân tố, sắp xếp các nhân tố theo mức độ ảnh hưởng của
chúng, từ đó sẽ có biện pháp nhằm khai thác, thúc đẩy những nhân tố tích cực và hạn chế
những nhân tố tiêu cực.
Nhược điểm của phương pháp thay thế liên hoàn:
- Không có khả năng luận cứ rõ ràng trình tự cụ thể về sự thay thế của các nhân tố
cũng như tính quy ước của việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng thành các nhân tố số
lượng và các nhân tố chất lượng. Điều này càng trở nên khó khăn khi có nhiều nhân tố
trong tính toán phân tích.
- ảnh hưởng của mỗi nhân tố được xem xét tách rời, không tính đến mối quan hệ
qua lại của nó với các nhân tố khác, mặc dù sự thay đổi của một trong các nhân tố dẫn tới

sự thay đổi của các nhân tố khác.
1.4.2.2. Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch thực chất là phương pháp rút gọn của phương pháp
thay thế liên hoàn. Do vậy, nó cũng đòi hỏi những điều kiện và cũng có những ưu điểm,
hạn chế như thay thế liên hoàn.
Theo phương pháp này, mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó đối với chỉ tiêu
tổng hợp được xác định bằng số chênh lệch của nhân tố đó nhân với các nhân tố khác
được cố định trong khi lập tích số.
Trình tự tiến hành phương pháp số chênh lệch:
- Xác định số chênh lệch tuyệt đối với dấu tương ứng của mỗi một nhân tố.
- Nhân số chênh lệch của mỗi một nhân tố với số kế hoạch của các nhân tố khác
chưa đo ảnh hưởng và với số thực tế của các nhân tố khác đã đo ảnh hưởng.

17


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

1.4.3. Phương pháp liên hệ
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ
phận...Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu, trong phân tích
kinh doanh còn phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: liên hệ cân đối, liên
hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan.
1.4.3.1. Phương pháp liên hệ cân đối
Phương pháp liên hệ cân đối thường thể hiện dưới hình thức phương thức trình
kinh tế hoặc bảng cân đối kinh tế.
Nội dung chủ yếu của bảng cân đối kinh tế gồm hai hệ thống chỉ tiêu có quan hệ
trực tiếp với nhau về mặt chỉ tiêu. Khi thay đổi một thành phần hệ thống chỉ tiêu đó sẽ

dẫn tới sự thay đổi một hoặc một số thành phần khác nhưng sự thay đổi đó vẫn đảm bảo
sự cân bằng của bảng cân đối kinh tế. Khi phân tích thường dùng để kiểm tra việc ghi
chép hoặc để tính toán các chỉ tiêu.
Để tính mức độ ảnh hưởng của nhiều nhân tố một cách đồng thời đến một chỉ tiêu
nào đó:

Tổng=
1.4.3.2. Phương pháp liên hệ thuận nghịch.
C=
Trong đó: C- chỉ tiêu cá biệt mà ta đang nghiên cứu.
T- chỉ tiêu trực tiếp hoặc chỉ tiêu thuận chiều.
N- chỉ tiêu ngược chiều.
- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố trực tiếp(T).

CT=

(%)

- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố ngược chiều(N) đến chỉ tiêu nghiên cứu:

N

=

(%)

- Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu nghiên cứu:

C=
Trong đó:


T

+

N

=

(%)

18


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang
T,

MSV: 0441270007

N: số chênh lệch tương đối của chỉ tiêu T và N.

CT, CN, C: mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu T, N và của 2 chỉ tiêu T, N đến
chỉ tiêu cá biệt đang nghiên cứu.
1.4.3.3.Phương pháp liên hệ tương quan
Là phương pháp phân tích tương quan nhằm xác định sự tồn tại và dạng của mối
liên hệ giữa các đại lượng ngẫu nhiên và cho phép đánh giá mức độ chặt chẽ giữa các
mối quan hệ đó.
Trình tự tiến hành:
- Phân tích lý luận để giải thích sự tồn tại và bản chất mối liên hệ.
- Thăm dò các mối quan hệ đó.

- Lập phương trình hồi quy căn cứ vào số tiêu thức, số lần quan sát.
- Tính toán các tham số của chương trình.
- Giải thích ý nghĩa kinh tế của các tham số.
1.4.4.Phương pháp dupont
Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tương hỗ giữa các
tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy, nó được gọi là phương
pháp Dupont. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên
nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của
phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như
thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số
của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh
hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp.
Trước hết ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu
(ROE) với tỷ số doanh lợi tài sản (ROA)

Lợi nhuận sau thuế
ROA =

Doanh thu
x

Doanh thu

Lợi nhuận sau thuế
=

Tổng tài sản

(1)
Tổng tài sản


Tỷ ROA cho thấy tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu
- Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu

19


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Tiếp theo, ta xem xét tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE):

Lợi nhuận sau thuế
ROE

=
Vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu.
Nếu tài sản của doanh nghiệp chỉ được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và
doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau vì khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn.
Lợi nhuận sau thuế

Lợi nhuận sau thuế

ROA =

=


= ROE(2)

Tổng tài sản

Vốn chủ sở hữu

Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên hệ
giữa ROA và ROE:
Tổng tài sản
ROE

=

x ROA (3)
Vốn chủ sở hữu

Kết hợp (1) & (3) ta có:

Lợi nhuận sau thuế
ROE =

Doanh thu
x

Doanh thu

x
Tổng tài sản


Lợi nhuận sau thuế
=

Vốn CSH

Doanh thu
x

Doanh thu

Tổng tài sản

Tổng tài sản
x

Tổng tài sản

20

Tổng tài sản – Nợ


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Lợi nhuận sau thuế
=

Doanh thu

x

Doanh thu

1
x

Tổng tài sản

1- Rd

Với Rd = Nợ / Tổng tài sản là hệ số nợ và phương trình này gọi là phương trình
Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn chủ sở hữu vào doanh lợi tiêu
thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ.
Từ đây ta thấy sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu nếu
doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận càng cao và ngược
lại, nếu doanh nghiệp đang bị lỗ thì sử dụng nợ càng tăng số lỗ.
Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện và
tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có thể dựa vào
hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont để tìm ra nguyên nhân chính
xác. Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành,
các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt động của doanh nghiệp trong
một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà
phân tích nếu biết kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp phân tích Dupont
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp.
Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên, người ta còn sử dụng một số phương
pháp khác: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp toán tài chính,... kể
cả phương pháp phân tích các tình huống giả định.
Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các phương

pháp sẽ đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân tích tài chính kết
quả mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem xét nó trong mối quan hệ với
các chỉ tiêu khác. Do vậy, phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ tổng quát đánh giá
chung cho đến các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận tình hình tài
chính trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh giá các chỉ số tổng quát về
tình hình tài chính và để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của
doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó, đồng thời so sánh với tỷ lệ tham chiếu để
cho thấy được xu hướng biến động cũng như khả năng hoạt động của doanh nghiệp so với
mức trung bình ngành ra sao.
1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai cách sau:
- Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính

21


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

- Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
1.5.1. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung phân tích
mà đồ án sử dụng . Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài
chính, không được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình bày chi tiết ở phần sau ( Chương
2).
1.5.1.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải so sánh
tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể thấy được sự thay
đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của

doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều
nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
trong bảng cân đối kế toán.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai loại tài
sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu, nhưng cân đối này chỉ mang
tính lí thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp đủ trang trải các loại tài sản
cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng. Thực tế thường xảy ra
1 trong 2 trường hợp sau:
- Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng.
- Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải đi vay
hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài.
Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị chiếm
dụng (hoặc đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và nợ phải
trả.
Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ tiêu tỉ
suất tài trợ đẻ thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh
doanh của công ty (phần này được trình bày trong phân tích kết cấu nguồn vốn của doanh
nghiệp). Bên cạnh đó, về khả năng thanh toán cũng cần được quan tâm chú ý ( được trình
bày ở phần nhu cầu và khả năng thanh toán)
1.5.1.2. Phân tích chi tiết tình hình tài chính
Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân bổ vốn,
xem xét doanh nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa? Để phân tích, ta
tiến hành xác định tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì và cuối kì và so sánh sự
thay đổi về tỉ trọng giữa đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra nguyên nhân của sự chênh lệch
này. Qua so sánh ta thấy được sự thay đổi về số lượng, quy mô và tỉ trọng của từng loại
vốn. Để có thể thấy được tình hình thay đổi của tài sản là hợp lí hay không cần đi sâu
nghiên cứu sự biến động của tài sản. Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm trang thiết bị, đổi
mới công nghệ để tạo tiền đề tăng năng suất lao động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả
hoặc đầu tư tài chính dài hạn được xem xét thông qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ
suất đầu tư tài sản cố định, tỉ suất đầu tư tài chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân tích kết

cấu nguồn vốn; phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán; phân tích hiệu quả và

22


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

khả năng sinh lợi của vốn; phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh sẽ được phân tích một cách cụ thể và được trình bày cụ thể trong Chương 2 của đồ
án này.
1.5.2. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
1.5.2.1. Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân thành 4
nhóm chính. Đó là : nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả năng cân đối
vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lãi. Nhìn chung, mối
quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài chính là tình hình tài chính của doanh nghiệp
có lành mạnh không? Liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng được những khoản nợ đến
hạn không? Nhưng tuỳ theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú
trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ lệ này hay nhóm tỷ lệ khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn
đặc biệt quan tâm đến tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà
đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động có lãi và hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả
năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu chi trả hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính
khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ lệ cân
đối vốn vì sự thay đổi tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về từng
vấn đề cụ thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân tích là phải
tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết luận khái quát về toàn bộ tình

hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ
tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các
năm khác nhau của chính doanh nghiệp đó và so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh
nghiệp hoạt động trong cùng ngành.
Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được
lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để phân
tích và đánh giá hoạt động tài chính doanh nghiệp.
1.5.2.1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán :
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình
các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến nguồn tài trợ
khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình
thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi đến quyết định có cho
doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều quan tâm đền khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các
khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Việc
phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được
rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân
doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc
điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán.

23


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm :


24


Họ tên: Nguyễn Thanh Quang

MSV: 0441270007

Hệ số thanh toán hiện hành
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản lưu
động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự
trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các
tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác...Cả tài sản lưu
động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán
chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ
các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển
thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó.
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau :
Tài sản lưu động
Hệ số thanh toán hiện
=
hành(ngắn hạn)
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp càng tốt và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp
không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá cao thì có
nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu cầu. Thông
thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ
kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho
hợp lý.

Hệ số thanh toán nhanh:
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp có thể
đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi phí thấp
hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong tài sản lưu
động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến hệ số thanh
toán nhanh của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ
ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành
tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Hàng tồn kho là tài sản
khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ
lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không
phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn kho).
Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu
Hệ số thanh toán nhanh
=
(thanh toán tức thời)
Nợ ngắn hạn
Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống như
trương hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh toán tức thời
là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu hệ số
này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.
1.5.2.1.2.Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp
so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ đòn bẩy tài
chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số

25



×