Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phân tích hệ thống tổ chức ngân sách nhà nước và công tác quản lý ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.26 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng trong nền tài chính quốc
gia, là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế. Ngân sách nhà nước
là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho các chỉ tiêu của nhà nước,
đồng thời là công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác quản
lý nguồn ngân sách nhà nước là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi quốc gia, trong đó
có Việt Nam.
Ra đời và có hiệu lực từ năm 1997, luật NSNN sau một thời gian đi vào
thực tiễn đã thể hiện vai trò của mình đối với nền kinh tế, đánh dấu bước đổi
mới quan trọng trong quản lý NSNN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, nó
vẫn bộc lộ một số nhược điểm, hạn chế nhất định. Vì vậy, tăng cường quản lý
NSNN là một nhiệm vụ cần thiết của Đảng, nhà nước cũng như mỗi địa phương
để nâng cao hiệu quả tiền, vốn và tài sản của nhà nước.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài “ Phân tích hệ thống tổ chức Ngân
sách nhà nước và công tác quản lý ngân sách nhà nước. Liên hệ thực tiễn ở Việt
Nam và ở địa phương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về NSNN và công tác quản lý
NSNN.
Phân tích thực trạng công tác quản lý NSNN để đánh giá kết quả đạt được,
hạn chế và tìm ra nguyên nhân của các hạn chế.
Đề xuất một số giải pháp khoa học, hợp lý nhằm hoàn thiện công tác quản
lý NSNN trong thời gian tới.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: tập trung vào công tác quản lý NSNN
Phạm vi nghiên cứu: công tác quản lý NSNN qua các khâu lập dự toán,
chấp hành, quyết toán và thanh kiểm tra của Việt Nam
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1




Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các kiến thức, thông tin,
số liệu phục vụ đề tài
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng để thực hiện việc phân tích,
so sánh số liệu thu nhập nhằm rút ra các kết luận phục vụ mục tiêu của đề tài
Phương pháp chuyên gia: tham khảo, hỏi ý kiến các chuyên gia vê vấn đề
cần tìm hiểu của đề tài, và các kết quả của đề tài

2


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
HỆ THỐNG TỔ CHỨC NSNN VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NSNN
1.1. Ngân sách nhà nước.
1.1.1. Khái niệm
Ngân sách nhà nước hay ngân sách chính phủ là một thành phần quan trọng
trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ ngân sách nhà nước tuy được sử dụng rộng
rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia nhưng vẫn chưa thực sự thống
nhất. Định nghĩa về NSNN được đưa ra khác nhau do tùy từng trường phái và
lĩnh vực nghiên cứu.
Theo luật ngân sách nhà nước Việt Nam thì: NSNN là toàn bộ các khoản
thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và
được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước.
NSNN được cơ quan lập pháp ban hành, là hệ thống mối quan hệ giữa nhà
nước và xã hội trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài
chính nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của mình. Nó bao gồm: quan hệ
kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các đơn vị hành
chính sự nghiệp, các tầng lớp dân cư, thị trường tài chính và hoạt động tài chính

đối ngoại với các quốc gia khác. Bản chất NSNN gắn liền với bản chất chính trị
và bản chất giai cấp cầm quyền, thông qua NSNN, nhà nước sẽ định hướng hình
thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất đồng thời chống độc
quyền.
1.1.2. Bản chất của NSNN Việt Nam.
NSNN là mối quan hệ kinh tế - xã hội giữa nhà nước với các chủ thế kinh
tế khác trong nền kinh tế, thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền
tệ tập trung của nhà nước.
Để có cách nhìn nhận đầy đủ hơn về bản chất của NSNN một cách toàn
diện vcả về phương diện khoa học lẫn thực tiễn, đồng thời với tư cách là công cụ
kinh tế của nhà nước, cần xem xét trên các góc độ sau:
Thứ nhất, trên góc độ khoa học – ngân sách là phạm trù kinh tế, lịch sử
3


Thứ hai, nhìn từ góc độ kinh tế - xã hội, ngân sách phản ánh tổng thể các
quan hệ kinh tế - xã hội thông qua quan hệ động viên các nguồn lực tài chính và
phân phối các nguồn lực tài chính đó cho các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ ba, trên góc độ nội dung vật chất – ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ
tập trung lớn nhất, được sử dụng để thực hiện các chức năng của nhà nước.
Thứ tư, nhìn trên góc độ quản lý – ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính
cơ bản của nhà nước hay là bảng cân đối thu – chi chủ yếu của nhà nước.
Thứ năm, từ góc độ pháp lý – ngân sách nhà nước là đạo luật tài chính cơ
bản trong năm tài chính.
Từ cách tiếp cận đó, có thể rút ra bản chất sâu xa của NSNN: Ngân sach
nhà nước là hệ thống (tổng thể) các quan hệ kinh tế, gắn liền với quá trình phân
phối các nguồn lực tài chính của xã hội để hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng
thời kì nhất định.
1.1.3. Vai trò của NSNN

1.1.3.1. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế quốc dân
NSNN – Công cụ huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi
tiêu của nhà nước.
Huy động các nguồn lực tài chính: NSNN là một công cu đắc lực của nhà
nước. NSNN giữ vai trò trọng yếu trong việc động viên và phân phối các nguồn
lực tài chính để đảm bảo việc thực thi các chức năng của nhà nước đương quyền,
thông qua các chính sách thuế: thuế trực thu, thuế gián thu, phí và các nguồn thu
khác.
Bảo đảm nhu cầu chi tiêu của nhà nước: chi NSNN nhìn một cách bao quát
là chi để đảm bảo việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của nhà nước
đương quyền. Trong đó, có thể phân thành 3 nội dung chi cơ bản: chi đầu tư
phát triển, chi thường xuyên và chi dự trữ quốc gia.
NSNN là công cụ điêù tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội
Vai trò điều tiết vĩ mô của NSNN trong nền kinh tế thị trường: điều tiết
kinh tế vĩ mô được thực hiện thông qua một hệ thống các công cụ như: chiến
4


lược, kế hoạch (định hướng và hướng dẫn), pháp luật (điều tiết hành vi) và các
công cụ kinh tế tài chính (thuế, lãi suất tín dụng, chiêt khấu..). Trong lĩnh vực tài
chính, NSNN giữ vai trò rất quan trọng thông qua chính sách động viên các
nguồn lực tài chính và đầu tư phát triển.
1.1.3.2. Vai trò của NSNN trong hệ thống tài chính
Căn cứ tổ chức, bộ máy nhà nước, cơ cấu thành phần kinh tế và đặc điểm
hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính cùng với phạm vi tác
động và chức năng hoạt động, các chủ thể trong nền kinh tế thị trường được chia
thành 5 khu vực thể chế và từ đó hình thành 5 khâu của hệ thống tài chính, đó là:
Tài chính nhà nước
Tài chính các tổ chức kinh tế
Các định chế tài chính trung gian

Tài chính kinh tế cá thể và hộ gia đình
Tài chính các tổ chức xã hội nghề nghiệp không vì mục đích sinh lợi và hỗ
trợ các hoạt động xã hội, từ thiện.
Trong các khâu của hệ thống tài chính, tài chính nhà nước được xem là
khâu quan trọng của hệ thống tài chính gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung; hoạt
động của nó liên quan đến viẹc thực hiện các chức năng của nhà nước về kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và phúc lợi xã hội.
1.2.

Hệ thống NSNN
Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ

hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân
sách.
Tại nước ta, tổ chức hệ thống nsnn gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy
nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước theo hiến pháp. mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng
cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. việc hình thành hệ thống chính quyền
nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm

5


vụ của nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. chính sự ra đời của hệ
thống chính quyền nhà nước nhiều cấp đó
Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất
theo nguyên tắc tập trung và dân chủ, thể hiện
Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành
một thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định

mức chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.
Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung
các nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự
chi phối của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm
bảo cân đối của ngân sách cấp mình.
Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân
sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền
chi phối ngân sách cấp mình.
Hiện nay theo khoản 1 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước 2002 thì: “Ngân
sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương”. Nhìn một
cách tổng thể, quy định này cho thấy mô hình về tổ chức hệ thống ngân sách nhà
nước gồm hai cấp là ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong hệ
thống ngân sách này, Quốc hội chỉ phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể
cho ngân sách trung ương, đồng thời xác định tổng khối lượng thu, chi trong
năm ngân sách cho ngân sách địa phương. Luật ngân sách nhà nước 2002 đã
trao quyền quyết định cho cơ quan quyền lực nhà nước cấp tỉnh trong việc phân
phối nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Các bộ
phận cấu thành của ngân sách địa phương theo quy định của Luật ngân sách
nhà nước 2002: “Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành
chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”(khoản 1 Điều 4). Vì
vậy ngân sách địa phương cũng gồm ngân sách tỉnh, ngân sách huyện và ngân
sách xã.

6


Như vậy, nói một cách đầy đủ, hệ thống ngân sách nhà nước ở Việt Nam
gồm 2 cấp: Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương trong đó ngân sách
địa phương gồm có ba cấp:
Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân

sách cấp tỉnh).
Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
ngân sách cấp huyện).
Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo nhành và giữ vai trò
chủ đạo trong hệ thống nsnn. nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền
trung ương được mạch của cả nước
Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp
chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. ngoài ngân sách
xã chưa có đơn vị dự toán, các cấp ngân sách khác đều bao gồm một số đơn vị
dự toán của cấp ấy hợp thành.
Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo
thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính
quyền cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương.
Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm
quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp
trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố tríđể phục vụ cho mục đích trực tiếp
của cộng đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào.
ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống nsnn, đảm bảo điều kiện tài
chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát triển
kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ
gìn an ninh, trật tự trên địa bàn.
Trong hệ thống ngân sách nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối phần
lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ được giao
nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa phương. quan hệ giữa
các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc sau:
7


Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được

phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể
Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để
đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. số bổ
sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới.
Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản
lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vị chi thuộc chức năng của mình, thì phải
chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện
nhiệm vụ đó.
Ngoài việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được
dùng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác trừ trường
hợp đặc biệt theo quy định của chính phủ.
1.3. Quản lý ngân sách nhà nước
1.3.1. Khái niệm
Quản lý NSNN là việc xây dựng kế hoạch tạo lập, sử dụng ngân sách nhà
nước tập trung các khoản thu, tổ chức và điều hòa vốn tiền mặt đảm bảo thực
hiện chi trả tiền ngân sách nhà nước.
1.3.2. Nội dung quản lý ngân sách nhà nước.
NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công
khai, có phân cấp trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các
cấp, các ngành.
Về thu ngân sách nhà nước.
Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung môt
nguồn tài chính quốc gia, hình thành quỹ NSNN nhằm phục vụ các nhu cầu,
mục tiêu phát triển của nhà nước.
Các nguồn thu chính của NSNN bao gồm:
Xét theo nguồn hình thành các nguồn thu
Thu từ các hoạt động kinh doanh trong nước: thu từ sản xuất, thu từ lưu
thông – phân phối hàng hóa, thu từ hoạt động dịch vụ
Thu từ nguồn thu nức ngoài: thu từ vay nợ và viện trợ ngoại quốc.
8



Xét theo tác dụng đối với quá trình cân đối ngân sách
Thu trong cân đối NSNN: thu từ thuế, phí, lệ phí (quan trọng nhất, chiếm tỷ
trọng lớn và là công cụ quản lý vĩ mô), thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc
sở hữu của nhà nước, thu lợi tức cổ phần của nhà nước, các khoản thu khác..
Thu đề bù đắp sự thâm hụt của NSNN: các khoản vay
Thu NSNN thường thông qua các phương thức huy động nguồn tài chính:
Phương thức huy động bắt buộc dưới hình thức thuế, phí, lệ phí
Phương thức huy động tự nguyện dưới hình thức tín dụng nhà nước.
Phương thức huy động khác.
Trong nguồn thu trên thì thuế là nguồn thu chính, cơ bản và chủ yếu để huy
động nguồn tài chính vào NSNN.
Về chi ngân sách nhà nước.
Về mặt pháp lý, chi NSNN là qua trình phân phối, sử dụng quỹ NSNN cho
việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Có thể nói, chi NSNN là việc cung
cấp các phương tiện tài chính cho chính phú hay các pháp nhân hành chính thực
hiện để đạt được các mục tiêu mà nhà nước đề ra.
Về mặt bản chất, chi NSNN là hệ thống những quan hệ phân phối lại các
khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nước nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở mang sự
nghiệp văn hóa – xã hội, duy trì bộ máy quản lý nhà nước và đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Nội dung cơ bản:
Chi đầu tư phát triển: Nhà nước đầu tư xây dựng những công trình thuộc
kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn, tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc mở
rộng đầu tư các ngành kinh tế khác
Chi thường xuyên: bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với
chức năng quản lý xã hội của nhà nước (chi quản lý nhà nước, chi an ninh quốc

phòng, chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp y tế..)
1.3.3. Cân đối ngân sách nhà nước
9


Cân đối NSNN là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý NSNN và hiện
nay trên thế giới đang tồn tại hai luồng quan điểm thu, chi NSNN.
Đầu tiên, đó là quan điểm thu được bao nhiêu chi bấy nhiêu. Quan điểm
này gắn liền với hệ số an toàn cao, giảm thiểu được nguy cơ suy thoái cho nền
kinh tế nhưng lại đi kèm với nhược điểm không thể tránh khỏi ở những nước có
nền kinh tế kém phát triển hay tăng trưởng kinh tế chậm là liệu thu ít thì tốc độ
tăng trưởng kinh tế sẽ ra sao.
Quan điểm thứ hai chính là quan điểm phát hành thêm tiền và đi vay để
phát triển nguồn thu cho NSNN.
Ưu điểm của quan điểm này là: đáp ứng được nhu cầu thiếu hụt của
NSNN, tạo điều kiện phát triển nguồn thu cho quốc gia.
Tuy vậy, biện pháp trên hết sức mạo hiểm
Đối với việc phát hành tiền để bù đắp chi ngân sách sẽ trở thành một loại
“thuế vô hình” đánh vào nguồn thu nhập của cư dân đồng thời đi kèm theo nó là
lạm phát, tiền lương đông cứng hay chậm lương
Đối với việc đi vay để tăng thu đi kèm theo sau là việc phải có trách nhiệm
hoàn trả cả vốn lẫn lãi khi đến kỳ hạn, đồng thời nếu sử dụng nguồn vốn vay
không hiệu quả thì gánh nặng với nước ngoài sẽ càng gia tăng.

10


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NSNN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011 – 2013
2.1.


Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 2011-2013
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễnbiến phức tạp,

kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo; trong nước, những hạn chế, yếu kém
vốn có của nền kinh tế chậm được khắc phục cùng với những vấn đề mới phát
sinh tác động không thuận đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Về tăng trưởng kinh tế:
Theo giá so sánh năm 2010, GDP năm 2011 tăng 6,24%, năm 2012 tăng
5,25% và năm 2013 tăng 5,42%. Bình quân 3 năm, GDP tăng 5,6%/năm. Tuy
chưa đạt kế hoạch đề ra ban đầu cũng như chỉ tiêu đã điều chỉnh, nhưng đây là
mức tăng có thể chấp nhận được và có phần cao hơn chút ít so với mức bình
quân của các nước ASEAN (5,1%/năm trong thời kì 2011-2013 – theo IMF)
Về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô:
Qua ba năm, nhờ kiên trì theo đuổi mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, áp
dụng đồng bộ các biện pháp, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm đã giảm từ mức
18,13% năm 2011 xuống 6,8% năm 2012 và năm 2013 lạm phát ở mức 6,04%.
Mặt bằng lãi suất huy động giảm từ mức 17-18% của năm 2011 xuống còn 710%/năm, mặt bằng lãi suất cho vay giảm còn 9-12%/năm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Bội chi ngân sách, nợ chính
phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia theo cách đánh giá của Việt Nam vẫn
trong giới hạn kiểm soát.

11


Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu 2011-2013
Đơn vị: %
STT
1
2

3
4
5
6
7

Nội dung
Tăng trưởng GDP thực tế
Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Tổng vốn ĐTPT so với GDP
Tốc độ tăng xuất khâu
Nhập siêu so kim ngạch xuất khẩu
Tỷ lệ hộ nghèo
Tỷ lệ thất nghiệp thành thị

2011
6.2
18.1
33.3
34.2
-10.2
12.6
3.6

2012
5.3
6.8
31.1
18.2
0.7

11.1
3.2

2013
5.4
6.0
30.4
15.4
0.7
9.9
3.6

(Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê – Tổng cục thống kê)
2.2.

Cân đối thu – chi NSNN giai đoạn 2011 -2013
Thu NSNN tăng đều qua các năm về con số tuyệt đối: Năm 2011 là

595.000 tỉ đồng, 2012 là 740.500 tỉ đồng, năm 2013 là 816.000 tỉ đồng song
về tỉ lệ huy động trên GDP thì vẫn khá ổn định và có xu hướng giảm dần
qua các năm: Năm 2011 là 26,15%, năm 2012 là 25,36%, năm 2013 là
24,17%. Trong đó, thu từ thuế và phí lệ phí chiếm tỉ trọng trên 94% tổng thu
NSNN.
Về thực hiện thu NSNN, năm 2011 và 2012 cao hơn so với dự toán (năm
2011 đạt 121,31%, năm 2012 đạt 100,36%). Tuy nhiên đến năm 2013, số thực
hiện so với dự toán giảm (đạt 96,91%)
Về dự toán chi NSNN năm 2011 là 676.360 tỉ đồng chiểm tỉ lệ 29,73%
GDP, năm 2012 là 852.760 tỉ đồng, chiểm tỉ lệ 29,72% GDP, năm 2013
là 917.190 tỉ đồng chiếm tỉ lệ 27,17% GDP. Trong đó chi thường xuyên
chiếm tỉ trọng 74% năm 2011, năm 202 là 76% và năm 2013 là 78% tổng chi

NSNN; Chi đầu tư phát triến có xu hướng giảm về tỉ trọng. Điều này thể hiện
rõ mục tiêu ưu tiên đảm bảo xã hội, trợ giúp nền kinh tế ổn định và phát triển
trong giai đoạn có nhiều khó khăn này.
Về thực hiện, chi NSNN năm 2011 đạt 140,92% so với dự toán. Đến năm
2012, rút kinh nghiệm so với năm trước, chi NSNN được hạn chế tối đa, đạt
99,72% so với dự toán. Đến năm 2013, tỷ lệ giữa thực hiện chi NSNN so với dự
toán đạt 101
12


2.3.

Thu ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2011 - 2013
Ta có thể nhận thấy, tổng thu NSNN qua 3 năm có sự dao động mạnh

(giảm tới 192.450 tỷ đồng từ năm 2011-2012 và tăng đáng kể 25.210 tỷ đồng từ
2012 tới 2013). Tuy nhiên trong khi thu cân đối 2 năm 2011 và 2012 đều vượt
dự toán thì năm 2013 không đạt dự toán đặt ra.
Năm 2011, tổng thu NSNN đạt 962.982 tỷ đồng (bao gồm cả chuyển
nguồn từ năm 2010), vượt 126.804 tỷ đồng (21,3%) so với chỉ tiêu được
Quốc hội giao. Trong đó, cả 4 nguồn thu chủ yếu của NSNN đều tăng so với
dự toán được giao. Thu từ dầu thô tăng 40.905 tỷ đồng, thu nội địa từ sản
xuất kinh doanh tăng 35.812 tỷ đồng, thu cân đối từ xuất nhập khẩu tăng
17.065 tỷ đồng, thu về nhà đất tăng 25.918 tỷ đồng. Theo Ủy ban Tài chínhNgân sách của Quốc hội, số thu NSNN vượt dự toán chủ yếu từ yếu tố khách
quan, nhất là do giá cả tăng (chỉ số giá tiêu dùng năm 2011 tăng 18,13% so
với năm 2010, giá dầu thô tăng 28 USD/thùng so với giá dự toán, tỷ giá tính
thuế thực tế cao hơn tỷ giá khi xây dựng dự toán). Bên cạnh đó, tăng thu còn
nhờ việc điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng không
khuyến khích nhập khẩu và tăng thu các khoản về nhà đất. Thu từ sản xuất
kinh doanh chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng số tăng thu. Điều này phản ánh

thu NSNN tuy tăng cao nhưng chưa bắt nguồn từ nội lực kinh tế và chưa thực
sự vững chắc.
Dự toán thu cân đối NSNN năm 2012 là 740.500 tỷ đồng. Tuy những
tháng cuối năm thu NSNN vẫn rất khó khăn nhưng với quyết tâm cao, nên thực
hiện thu ngân sách cả năm đạt 743.190 tỷ đồng, bằng 100,4% dự toán; Tỷ lệ
huy động thu nội địa (trừ thu tiền sử dụng đất, tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà
nước) đạt 14,3% GDP,giảm 27.170 tỷ đồng và thu cân đối ngân sách từ hoạt
động xuất nhập khẩu giảm 26.072 tỷ đồng so dự toán nhưng lại được bù đắp
bằng số vượt thu từ dầu thô 53.107 tỷ đồng so dự toán.
Năm 2013, theo số liệu ước tính thực hiện lần 1 thu NSNN là 790.800 tỉ
đồng, đạt 96,91% so với dự toán. Trong đó thu tự thuế, phí lệ phí là 678.598
tỉ đồng, chỉ đạt 93,19% so với dự toán. Nguyên nhân là do tình hình kinh tế có
13


nhiều khó khăn, số lượng doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động tăng cao
(60.737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm 2012), hàng tồn kho cao, lưu
thông hàng hóa chậm... Tuy nhiên thực tế đến ngày 30/12/2013, theo Báo cáo
tại hội nghị tổng kết toàn ngành sáng 30/12, Bộ Tài chính và Chính phủ đã
dự báo về khả năng ngân sách 2013 sẽ vượt khoảng 1% khi tính đến ngày
29/12 con số này đã ở khoảng 0,33%. Có được kết quả này là do sự chỉ đạo
kiên quyết của chính phủ, các địa phương đã mạnh "tay thu". Trong số này đã
thu vào ngân sách trên 20.000 tỷ đồng cổ tức doanh nghiệp Nhà nước và phần
lợi nhuận còn lại sau khi trích nộp các quỹ theo quy định của pháp luật của
các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ theo Nghị
quyết của Quốc hội và Nghị định số 204/2013/NĐ-CP ngày 5/12/2013 của
Chính phủ"(Bộ Tài chính).

14



2.4.

Chi ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoan 2011 – 2013
Nhìn chung trong 3 năm chi NSNN liên tục tăng về con số tuyệt đối, song

vẫn đảm bảo bám sát dự toán được phê duyệt.
Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm 2011, kết hợp với dự kiến phân bổ sử
dụng nguồn dự phòng và nguồn vượt thu năm 2011, tổng chi NSNN quyết
toán năm 2011 đạt 706.428 tỷ đồng (Nếu bao gồm cả chi kết chuyển năm sau
thì tổng chi là 953.118 tỷ đồng), tăng 4.45% so với dự toán. Trong đó chi đầu
tư phát triển thực hiện cả năm bằng 137.04% dự toán, chiếm 29.49% tổng chi
NSNN,(trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 134.55% dự toán, các nhiệm
vụ chi về vốn khác đạt 191.10% dự toán). So với dự toán, số chi đầu tư phát
triển tăng 56,306 tỷ đồng được tập trung sử dụng cho các dự án quan trọng, cấp
bách có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2011 - 2012, các dự án đầu
tư sửa chữa, nâng cấp công trình sạt lở đê kè cấp bách và giảm nhẹ tác hại
thiên tai, bổ sung tăng dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực...Chi
thường xuyên đạt 98.45% dự toán, chiếm 70.51% tổng chi NSNN (chi quản lý
hành chính đạt 116.70% dự toán, chi sự nghiệp kinh tế đạt 91.47% và chi sự
nghiệp xã hội đạt 91.33% dự toán). Các khoản chi này chủ yếu để khắc phục
hậu quả thiên tai, dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội
Năm 2012 là năm thứ hai trong thời kỳ ổn định ngân sách mới (20112015), vì vậy dự toán cơ bản được thực trên cơ sở dự toán NSNN hiện
hành, đồng thời đảm bảo an ninh quốc phòng trong tình hình mới, tiếp tục ưu
tiên đầu tư cho con người... Trên cơ sở đó, tổng chi NSNN năm 2012 là
852.760 tỷ đồng. Trong đó chi đầu tư phát triển 180.000 tỷ đồng, bằng
86.41% so với thực hiện năm 2011 và chiếm 21.11% tổng chi NSNN. Chi
thường xuyên chiếm 651.060 tỷ đồng, tăng 152.938 tỷ đồng so với thực hiện
năm 2011 và chiếm 76.35% tổng chi NSNN.
Trên cơ sở tổng hợp dự toán chi NSNN đầu năm, số phân bổ sử dụng từ

dự phòng NSNN, ước thực hiện lần 2 năm 2012 chi NSNN đạt 850.385tỷ
đồng, bằng 99.72% so với dự toán. Trong đó, chi đầu tư phát triển thực
hiện tăng 8.36% dự toán, chiếm 22.94% tổng chi NSNN và bằng 6,6% GDP,
15


(chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 108.05% dự toán, các nhiệm vụ chi về vốn
khác đạt 117.56% dự toán). So với dự toán, số chi đầu tư phát triển tăng
15.054 tỷ đồng chủ yếu do được bổ sung từ nguồn vượt thu tiền sử dụng đất so
dự toán của ngân sách địa phương, nguồn dự phòng NSNN cho các công trình,
dự án phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, tăng bổ sung dự trữ quốc gia để
đảm bảo an ninh lương thực và một số mặt hàng dữ trữ khác... Chi thường
xuyên tăng 0.66% dự toán, chiếm 77.06% tổng chi NSNN (chi quản lý hành
chính đạt 112.39% dự toán, chi sự nghiệp kinh tế đạt 105.43% và chi sự
nghiệp xã hội đạt 110.83% dự toán). So với dự toán số chi thường xuyên tăng
4.271 tỷ đồng về cơ bản đã đảm bảo được các nhu cầu chi theo dự toán đã giao
cho các đơn vị sử dụng ngân sách.
Số liệu ước thực hiện lần 1 năm 2013, tổng chi NSNN ước tính đạt
930.730 tỷ đồng, bằng 101.48% dự toán năm. Trong đó chi đầu tư phát
triển 201.555 tỷ đồng, tăng 15.17% và chiếm 21.66% tổng chi (chi đầu tư xây
dựng cơ bản 196,348 tỷ đồng, chiếm 21.1%, đạt 115.46% dự toán, chi về
vốn khác đạt 105.34% dự toán). Chi thường xuyên ước tính đạt 729.175 tỷ
đồng, tăng 1.44%, chiếm78.34% tổng chi NSNN (chi quản lý hành chính đạt
102.09% dự toán, chi sự nghiệp kinh tế đạt 104.51% và chi sự nghiệp xã hội đạt
101.82% dự toán).
Trong bối cảnh cân đối NSNN hạn hẹp nhưng vẫn còn tình trạng một số
nhiệm vụ chi còn chưa thực hiện hiệu quả, tiết kiệm khiến NSNN còn thất thoát.
Ban hành nhiều chính sách mới, những chính sách chi kém hiệu quả chưa được
bãi bỏ kịp thời, nhiều khoản chi còn lãng phí, chưa chủ động cắt giảm những
khoản chi chưa thực sự cần thiết.


16


2.5. Những kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại
2.5.1. Kết quả đạt được
Mặc dù nguồn thu NSNN còn nhiều khó khăn nhưng với chính sách điều
hành chi ngân sách linh hoạt, chủ động, tăng cường tiết kiệm chi ngân sách nên
NSNN vẫn đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách đầy
đủ, kịp thời. Trong bối cảnh yêu cầu thực hiện các Nghị quyết của Quốc
hội, Chính phủ về tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội, có thể nói, công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển
khai tích cực, chủ động. Trong điều kiện thu khó khăn, chi ngân sách được điều
hành theo đúng chủ trương thắt chặt chính sách tài khoá,công tác quản lý chi
NSNN được tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả, tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát chi NSNN, đảm bảo chi ngân sách đúng chế độ.
Chi đầu tư phát triển tập trung cải tạo và xây dựng kết cấu hạ tầng,
xây dựng các công trình kinh tế mũi nhọn, trọng yếu, tạo điều kiện cho phát
triển kinh tế - xã hội, khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài.
NSNN đã đảm bảo nguồn đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi theo dự
toán, đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi về đảm bảo quốc phòng, an
ninh và chi các sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, đảm bảo xã
hội; Phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh... Nguồn chi thực
hiện cải cách tiền lương đã được phân bổ, sử dụng phù hợp với số đối tượng
thụ hưởng thực tế và đúng chính sách, chế độ. Chính sách an sinh xã hội
được đảm bảo, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, đảm bảo
đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. Các bộ, ngành và địa phương cũng
đã nghiêm túc thực hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
chi thường xuyên; Rà soát, sắp xếp lại, cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện
các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết.


17


Trong chỉ đạo điều hành, Chính phủ đã tập trung kinh phí thực hiện
các chính sách an sinh xã hội. Bên cạnh việc đảm bảo chi cho những chính
sách đã được bố trí dự toán đầu năm và thực hiện chi trả tiền lương, lương
hưu và trợ cấp xã hội theo mức tiền lương tối thiểu mới theo đúng kế hoạch,
Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện một số chính sách mới như:
Trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, người có công và hộ
nghèo đời sống khó khăn…
Đặc biệt, NSNN đã chú trọng đầu tư cho con người. Chi ngân sách
cho giáo dục – đào tạo,dạy nghề là một trong những khoản mục chiếm tỷ
lệ lớn trong tổng chi(năm 2011: 14,07%, năm 2012: 17,94%, năm 2013: 18,05)
và có tốc độ tăng khá nhanh trong những năm gần đây (năm 2011 là
27.06%, năm 2012 là 53.56%, năm 2013 là 10.09%), khẳng định chủ trương
của Nhà nước ưu tiên cho giáo dục.
2.5.2. Những hạn chế còn tồn tại
Chi NSNN vẫn chưa dứt bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp, không tính đến
hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực tài chính Nhà nước. Tình trạng gia hạn
nợ đọng thuế hoặc đảo nợ, giảm nợ… cho các DNNN làm ăn thua lỗ vẫn tiếp
tục diễn ra. Điều này về lâu dài sẽ tạo nên gánh nặng cho NSNN.
Bên cạnh đó, việc quản lý, điều hành chi đầu tư phát triển cũng còn tồn
tại, trong đó vẫn còn những dự án tiến độ triển khai chậm so với yêu cầu nhiệm
vụ. Bố trí vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục; Phân bổ vốn không đúng với
cơ cấu, chương trình hỗ trợ được giao; Một số cơ quan, đơn vị ở Trung ương và
địa phương còn chần chừ, thiếu kiên quyết trong cắt giảm đầu tư công, khởi
công dự án mới trái quy định... Các hoạt động đầu tư bằng vốn NSNN
không thật sự được công khai hóa, sự phân định trách nhiệm thiếu minh
bạch, thiếu sự giám sát toàn diện từ công chúng, năng lực quản lý của các bộ

ngành yếu kém không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế, dẫn đến
thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của NSNN

18


CHƯƠNG III: MÔT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2013

3.1.

Giải pháp tài chính – ngân sách
Về chính sách tài khóa, tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán NSNN,

trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và nắng hạn mang tính khả thi
gắn với việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc
thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập.
Đồng thời tiến hành rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách hiện hành để đảm
bảo tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, bao
gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan đến trợ cấp.
Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính nhà
nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của ngân sách
nhà nước tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, và bảo đảm vốn cho các công trình trọng điểm quóc gia và các mục tiêu,
nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền vững, xóa
đói, giảm nghèo.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất vai
trò chủ đạo và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi
với tăng cường trách nhiệm và tính chủ động trong quản lý ngân sách của các

bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng ngân sách.
Về thị trường vốn, tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy
động vốn dài hạn, an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước
hội nhập với thị trường vốn khu vực và thế giới; tăng cường tính công khai,
minh bạch của thị trường, thực hiện giám sát và cưỡng chế thực thi nghiêm
ngặt, từng bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị
trường chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam – trước mắt là các doanh nghiệp lớn- tham gia vào thị
trường vốn quốc tế.
Về cái cách doanh nghiệp, xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài
19


chính doanh nghiệp, đảm bảo bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát
huy mọi nguồn lực bên trong và ngoài doanh nghiệp để phát triển sản xuất,
kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp
gắn liền với việc tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp trong
nước.
Về quản lý tài sản công, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tài sản công theo
hướng tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ và đồng bộ để quản lý chặt chẽ và khai thác
có hiệu quả nguồn lực từ đất đai, tài nguyên và công sản, Từng bước phát triển
thị trường nhà đất lành mạnh, đặc biệt là thể chế chính sách đối với các hoạt
động chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhằm phát huy những tác động tích
cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Về hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về
tài chính, xác định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hóa từng bước
luồng vốn trong điều kiện hội nhập, thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn, đa
phương hóa quan hệ đối tác, hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài, quản

lý nguồn vốn ODA. Hoàn thiện bộ máy, tăng cường nhân lực trong quản lý nợ
nước ngoài.
Về cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đồng bộ hóa hệt hống văn
bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý tài chính – ngân
sách; tiêu chuẩn hóa cán bộ tài chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ
về số lượng, có cơ cấu hợp lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại
hóa quản lý tài chính – ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để
nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, trước hết là thuế, hải quan,
kho bạc; tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý thuế,
điều hành công tác tài chính theo tiêu chuẩn quản lý quốc tế.
Tăng cường công khai minh bạch trong hệ thống tài chính, xấy dựng và
tăng cường công tác kế toán, kiểm toán, thanh tra giám sát, công bố thông tin
20


đối với các hoạt động thu, chi tài chính, ngân sách, các cấp ngân sách, đơn vị sử
dụng ngân sách và các công ty nhà nước. Phân định trách nhiệm và tăng cường
phối hợp giữa cơ quan kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm soát nội
bộ, mở rộng dịch vụ kiểm toán độc lập với các đơn vijthu, chi tài chính, ngân
sách. Nâng cao năng lực giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội
nghề nghiệp và nhân dân.
3.2.

Tăng cường chỉ đạo công tác thu – chi ngân sách nhà nước.
Nhà nước tăng cường chỉ đạo công tác thu ngân sách nhà nước, chống thất

thu, gian lận thuế, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất dự toán thu ngân sách
nhà nước đã được Quốc hội quyết định. Thực hiện tốt các nhiệm vụ chi ngân
sách nhà nước, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn ngân sách nhà nước, đặc biệt là kiểm tra các khoant chi đầu tư, chi kích cầu
đầu tư, kích cầu tiêu dùng từ ngân sách nhà nước.
Duy trì và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thu và các lực lượng
chức năng kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thu
vào ngân sách nhà nước. Có biện pháp tích cực chống thất thu thuế, phí và lệ
phí; chống buôn lậu và gian lận thương mại, thực hiện thu hồi các khoản nợ,
đọng thuế. Xác định rõ ràng trách nhiệm của những người, tổ chức để thất thu,
để nợ đọng và chiếm dụng tiền thuế của nhà nước. Có biện pháp đôn đốc và hỗ
trợ các địa phương chủ động phấn đấu.
3.3.

Xây dựng dự toán ngân sách nhà nước.
Nhà nước bảo đảm quán triệt tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp

về thúc đẩy quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế bền vững, duy trì ổn định
kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.
Dự toán thu ngân sách nhà nước phải được xây dựng tích cực, vững chắc,
có tính khả thi cao, Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại các khoản chi ngân sách (kể cả
chi thường xuyên và đầu tư phát triển) để triệt để tiết kiệm và nâng cao hiệu
quả chi ngân sách, đảm bảo nguồn lực để phát triển dự án, chương trình chính
sách an sinh xã hội, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững, giữ vững an ninh
tài chính quốc gia.
21


Chủ động dự kiến các nhu cầu kinh phí thực hiện chính sách, chế độ
nhiệm vụ mới; bảo đảm cho các chính sách, chế độ, dự kiến ban hành phải
được cân đối đủ nguồn lực, hạn chế không để xáy ra tình trạng thiếu kinh phí
thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, các chính sách chế độ đã ban hành và
các nhiệm vụ mới được các cấp có thẩm quyền quyết định.

3.4.

Giám sát hoạt động của ngân sách nhà nước
Giám sát ngân sách nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của

cơ quan quyền lực nhà nước các cấp ở mọi quốc gia. Đó là hệ quả tất yếu của
quá trình phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan công quyền kể từ khi xuất
hiện ngân sách nhà nước và là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả hoạt động
của ngân sách nhà nước.
Một số công cụ mà cơ quan quyền lực nhà nước có thể sử dụng để giám
sát ngân sách nhà nước:
Công cụ pháp luật: Đây là công cụ sớm nhất và chung nhất để phục vụ cho
quản lý nhà nước ở mọi quốc gia. Muốn thực hiện quyền giám sát ngân sách
nhà nước, đòi hỏi các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp phải
hiểu rõ các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thu, chi NSNN từ luật
NSNN, luật thuế GTGT, luật thuế TNDN…, các văn bản hướng dẫn thi hành
các luật này, hiểu rõ các sắc luật điều chỉnh vào hoạt động quản lý tài chính –
tiền tệ ngoài phạm vi hoạt động của NSNN và các sắc luật điều chỉnh các hoạt
động kinh tế khác.
Mục lục NSNN: là bảng phân loại thu, chi NSNN theo những tiêu thức
khoa học giúp cho quá trình hạch toán kiểm toán và thống kê NSNN được
nhanh, chính xác. Qua số liệu thống kê ở mục lục NSNN có thể thấy được trách
nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức liên quan đến thu chi ngân sách nhà
nước; thứ tự ưu tiên phân bổ ngân sách gắn với các ngành kinh tế; giám sát
mức độ gắn kết giữa các nguồn thu và cơ chế sử dụng nguồn thu của NSNN
mỗi cấp…
Kế hoạch hóa: Để thực hiện được quyền giám sát NSNN khi sử dụng công
cụ kế hoạch hóa, các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước cần căn cứ vào
22



các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà thẩm tra, đánh giá tính
phù hợp của các chỉ tiêu thu, chi trong dự toán NSNN. Đồng thời cũng phải căn
cứ vào mức độ của các chỉ tiêu thu, chi đã được xác lập trong dự toán NSNN
mà điều chỉnh lại mức độ của các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội.
Kiểm toán: Cùng với triển khai thực hiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế
thị trường, thì vấn đề công khai, minh bạch NSNN đã trở thành một đòi hỏi tất
yếu. Đối với nước ta, kiểm toán NSNN hàng năm là nhiệm vụ của cơ quan
KTNN đã được chính thức thể chế hóa trong Luật NSNN. Do vậy, NSNN các
cấp, các đơn vị sử dụng ngân sách đều thuộc phạm vi kế toán của KTNN.
Thông tin: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát NSNN, cơ quan
quyền lực phải thu thập thông tin từ nhiều phía. Nên thông tin vừa là phương
tiện, vừa là công cụ phục vụ cho quá trình giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước các cấp.
Chuyên gia: Phạm vi tác động của NSNN rất rộng, có liên quan tới hoạt
động của mọi ngành, mọi cấp, mọi lĩnh vực. Do vậy, đòi hỏi một đại biểu
quyền lực nhà nước có thể am hiểu tường tận tất cả các lĩnh vực là không thể có
được. Nhưng họ lại có trách nhiệm khi biểu quyết hay thực hiện giám sát bất cứ
vấn đề nào của NSNN, yêu cầu cần thuê chuyên gia ở lĩnh vực khác nhau tư
vấn cho các đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước trước mỗi vấn đề mà đại biểu
không đủ tự tin.

23


KẾT LUẬN
Ngày nay, kinh tế thị trường càng phát tiển thì vị trí và vai trò của tài
chính nhà nước ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì
vậy, xây dựng nền tài chính tự chủ vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong

thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, trong đó đóng vai trò chủ đạo
là NSNN.
Quản lý NSNN gắn liền với việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính
trị, xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ. Điều này chứng tở các khoản thu –
chi của NSNN có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh, chính trị, xã hội của đại
phương và đất nước. Vì vậy, việc khai thác, huy động nguồn thu vào NSNN và
sử dụng vốn NSNN, chi tiêu NSNN một cách tiết kiệm, có hiệu quả là một bộ
phận không thể tách rời của vấn đề phát triển kinh tế - xã hội.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Quản lý công – PGS.TS Phan Huy Đường, Đại học Quốc gia
Hà Nội
Luận án Tiến sĩ kinh tế của NCS Tô Thiện Hiền – 2012
Bộ Tài chính – Dự toán NSNN (nhiều năm);
3/2/2014.
Bộ Tài chính – Quyết toán NSNN (nhiều năm);
3/2/2014.
Bộ Tài Chính (2013),“Ngân sách Việt Nam 2012 –2013”,
/>7088, 5/2/2014.
Các luận văn tham khảo tại trang web:



25



×