Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tiểu luận môn đường lối lịch sử và cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.8 KB, 9 trang )

Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

Câu hỏi:
Bài làm
A. GIỚI THIỆU
Quá trình công nghiệp hóa ở nước ta bắt đầu từ sau năm 1954, khi miền bắt bước vào
thời kì tiến lên chủ nghĩa xã hội, còn miền nam tiến hành kháng chiến chống Mĩ. Đây là giai
đoạn đầy thăng trầm, khó khăn của đất nước khi bước đầu xây dựng lại đất nước, có nhiều
thành tựu đáng kể nhưng đồng thời cũng có nhiều khuyết điểm, sai lầm. Chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu quá trình công nghiệp hóa ở nước ta thông qua tìm hiểu về hoàn cảnh lịch sử dẫn
đến việc Đảng quyết định thực hiện công nghiệp hóa, các quan điểm của Đảng qua từng
thời kì và những sai lầm khuyết điểm đã khiến quá trình công nghiệp hóa thời gian trước
năm 1985 ở nước ta thất bại.
B. NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh lịch sử:
1.1 Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam:
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 và hiệp định Geneve tháng 7
năm 1954 thì Việt Nam bị chia làm hai miền. Miền Nam Việt Nam thành lập chính phủ
riêng với trợ giúp tài chính và quân sự từ Mỹ và quốc tế, tiến hành xây dựng nền kinh tế
theo hướng tư bản. Trong khi đó, Miền Bắc Việt Nam một mặt đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội và mặt khác trợ giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Tuy nhiên việc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gặp rất nhiều
khó khăn và thách thức do sau chiến tranh nền kinh tế ở miền Bắc trở nên cạn kiệt, nghèo
nàn lạc hậu, tài nguyên kiệt quệ, đất đai bị tàn phá nặng nề.
- 1958-1960, nền nông nghiệp miền Bắc nước ta đã đạt được những thành tích to lớn và
có những chuyển biến mới: căn bản hoàn thành cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp,
phong trào hợp tác hoá đã phát triển nhanh và lành mạnh, góp phần cải thiện thêm một bước
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, xây dựng công nghiệp và củng cố quốc phòng…
Chúng ta nhận định rằng: đặc điểm lớn nhất của nền kinh tế miền Bắc là một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, do đó Đảng ta khẳng định rằng: muốn cải biến tình hình kinh tế lạc hâu của


nước ta, không có con đường nào khác ngoài con đường tất yếu là công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa.
- Sau ngày đất nước thống nhất (1975), quá trình tiếp quản miền Nam đã giúp điều chỉnh
phương hướng và phương thức xây dựng nước Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
hóa. Kể từ sau quá trình đổi mới (1985), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chọn con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội kết hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước và đặt mục
tiêu đến năm 2020 sẽ đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
- Nước ta quá độ lên CNXH với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình
độ LLSX ở mức thấp kém, lại trãi qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá, do đó cơ sở vật
chất kỹ thuật hoàn toàn chưa thích ứng với CNXH. Để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
1


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

cho CNXH, củng cố và hoàn thiện QHSX XHCN, đồng thời để củng cố khối liên minh
công- nông- trí cần thiết phải tiến hành CNH, HĐH đất nước.
1.2 Hoàn cảnh lịch sử thế giới:
1.2.1 Lịch sử phát triển công nghiệp hóa trên thế giới:
- Đa phần các xã hội tiền công nghiệp có mức sống không cao hơn mức tự cung tự cấp là
mấy. Có nghĩa là phần đông dân cư tập trung vào sản xuất những vật phẩm cơ bản nhất để
tồn tại. Ví dụ, ở Châu Âu thời Trung Cổ, 80% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp tự cung tự cấp.
- Một số nền kinh tế tiền công nghiệp, như Hy Lạp cổ đại, đã có các hoạt động trao đổi,
thương mại phát triển nhờ đó đạt được sự thịnh vượng vượt trên mức sinh hoạt cơ bản nhất.
Nạn đói xảy ra thường xuyên ở các xã hội tiền công nghiệp. Song các nước như Hà Lan và
Anh ở thế kỷ 17, 18, các thành quốc Italia ở thế kỷ 15 và Hy Lạp, La Mã cổ đại đã thoát
khỏi quy luật trên nhờ trao đổi và buôn bán sản phẩm nông nghiệp. Theo ước tính, trong thế
kỷ 17, nguồn ngũ cốc cùa Hà Lan có tới 70% từ nhập khẩu. Người Hy Lạp cổ đại ở thế kỷ 5
trước Công nguyên nhập khẩu 75% nguồn lương thực.

- Anh là nước tiến hành công nghiệp hóa đầu tiên. Đây cũng là quê hương của Cách
mạng công nghiệp và thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới là Manchester.
- Nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba bắt đầu các chương trình công nghiệp hóa dưới sự
ảnh hưởng của Hoa Kỳ hoặc Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh nửa cuối thế kỷ 20. Nỗ lực
này ở một số nước Đông Á thành công hơn ở các nơi khác trên thế giới (ngoại trừ các quốc
gia tiến hành công nghiệp hóa muộn mằn Châu Âu, dẫu vậy tiến trình của các nước này đã
bắt đầu từ trước Thế chiến thứ hai).
- Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế, Hoa Kỳ là quốc gia có sản lượng công nghiệp
đứng đầu thế giới năm 2005, tiếp sau nó là Nhật Bản và Trung Quốc.
1.2.2 Ảnh hưởng của các nước khác đến quá trình công nghiệp hóa ở nước ta:
- Trong thời kì những năm 60 của thế kỉ trước, Liên Xô và Trung Quốc đã trở thành
những nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh đặc biệt là Liên Xô- đã trở thành một nước đóng
vai trò đối cực với đế quốc tư bản – Đế quốc Mỹ. Và Liên Xô, họ đã thành công nhờ quá
trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chính điều đó đã một phần tác động đến hoàn cảnh
của đất nước ta lúc này, để chúng ta chọn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
- Ngoài ra trong thực tế quá trình chống Mỹ cứu nước, chúng ta nhận rất nhiều viện trợ
từ Trung Quốc và Liên Xô, để nhận được sự viện trợ mà chúng ta buộc phải theo họ, do đó
mà chính tư tưởng của họ tác động rất nhiều đến chúng ta.
2. Các quan niệm của Đảng ta về công nghiệp hóa:
2.1 Khái niệm công nghiệp hoá:
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành
kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia
tăng, v.v..Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế
với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp.
2


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này

đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim
quy mô lớn.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIPO) đã đưa ra định nghĩa sau :
"Công ngiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc
gia ngày càng lớn được xây dưng để huy động cơ cấu kinh tế nhiều nghành với công nghệ
hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất,hàng tiêu dùng có khả năng bảo đảm nhịp độ
tăng rrưởng cao trong toàn nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế và xã hội".
2.2 Quan niệm của Đảng qua các thời kì thực hiện công nghiệp hóa:
- Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 9-1960)
của Đảng.
- Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và
quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4
năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Đất nước
phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân
tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (1975), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài năm thì
lại xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, rồi kết thúc cuộc chiến này lại kéo theo sự cấm vận
của Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp
hóa theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 – 1985
công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giai đoạn này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt.
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt khác, vừa phải xây dựng
CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm xuất phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện
CNH rất thấp. Trong khi phân công lao động chưa phát triển và LLSX còn ở trình độ thấp
thì QHSX đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu. Trong bối
cảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng
cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực
hiện qua nhiều giai đoạn.
- Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công

nghiệp nặng làm nền tảng.
- Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu phương
hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
+ Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
+ Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 - 1975 tăng 11,2 lần,
cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)

3


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

+ Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng Ninh,
Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)
Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập khẩu mà
nhiều nước, cả nước XHCN và nước TBCN đã và đang thực hiện lúc đó. Chiến lược này
được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960 – 1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi
cả nước ( 1976 – 1986).
- Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập thống nhất
và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” tiếp tục
được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng (1976) nhưng chính sách thì đã có
thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành
một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh
tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế

quốc dân thống nhất”. Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song
cũng đã tạo một sự thay đổi nhất định trong phát triển
- Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai
đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong
chặng đường trước mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với
thời kỳ 5 năm trước đó. Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi
so với trước. Nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác định
“Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng
tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát đó đã khiến cho nền kinh
tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm
mới.
2.3 So sánh các quan niệm của Đảng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá:
Chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước ta từ khi bắt đầu đến ngay cả hiện nay là:
- Đảng ta luôn khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá
độ;
- Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Tuy nhiên vẫn có những quan điểm khác nhau trong quá trình CNH trước và sau thời kỳ
đổi mới thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau:
- Trước đổi mới, chúng ta hiểu CNH một cách chưa đầy đủ, cho rằng CNH đơn giản
là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc; Trong giai đoạn đổi
mới đất nước, vào năm 1994, Đảng ta chính thức xác định CNH, HĐH ở nước ta là: quá
4


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam


trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất
lao động xã hội cao.
- Trước đổi mới, CNH ở nước ta đã đặt vấn đề theo hướng hiện đại hoá; Tuy nhiên,
trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của KHCN và dự kiến trong thời gian tới
sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa do đó yêu cầu phải gắn chặt HĐH với CNH đã được
đặt ra và ngày càng trở nên bức bách hơn.
- CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp;
Hiện nay, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem thị trường là
yếu tố quan trọng góp phần trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, trong việc hình
thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu, bước đi, biện pháp tiến hành CNH, HĐH.
- Do CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp, vì vậy nó được xem là công việc của nhà nước, nhà nước chỉ đạo các DNQD và kinh tế
tập thể thực hiện là chủ yếu; Trong giai đoạn hiện nay, CNH, HĐH được xác định là sự
nghiệp của toàn dân, tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
- CNH, HĐH trong thời kỳ trước đổi mới chưa chú trọng đến hiệu quả kinh tế, nhà
nước giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất cho các đơn vị kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,
đồng thời bao tiêu sản phẩm làm ra, do đó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của
doanh nghiệp, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao; bên cạnh đó, nhà nước chỉ chú trọng đầu
tư xây dựng các xí nghiệp quy mô lớn mà chưa chú ý đến tính hiệu quả trong sản xuất.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện CNH, HĐH phải: “Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm
tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên
quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời
xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”- (Văn kiện ĐH VIII
của Đảng, tr 85).
- CNH, HĐH trước đổi mới thực hiện trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung,

khép kín, hoặc chỉ quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, đây là mô hình phù hợp
trong thời kỳ chống Mỹ-cứu nước; Hiện nay, CNH, HĐH được thực hiện trong mô hình
kinh tế thị trường định hướng XHCN, do đó cần thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác theo xu
thế quốc tế hoá, hội nhập kinh tế thế giới, cụ thể là: “CNH, HĐH phải bảo đảm xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có
tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” – (Văn kiên ĐH IX của Đảng, tr
25).
- Trước đổi mới, khi đất nước còn chiến tranh, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm để
phục vụ cho nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, do đó CNH,
HĐH trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Hiện nay, chúng ta xác định:
kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường nền quốc phòng- an
5


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

ninh của đất nước, vì vậy thực hiện CNH, HĐH phải đảm bảo đi đôi với giữ vững quốc
phòng- an ninh đất nước.
- Trong những năm từ 1960-1981, chúng ta chủ trương CNH phải đi từ công nghiệp
nặng và vấn đề ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được nâng thành bản chất cốt lõi của
CNH, HĐH đất nước do đó đã tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn lúc này là
cơ khí, luyện kim và năng lượng (chủ yếu là thuỷ điện) mà chưa chú ý đến đầu tư cho công
nghiệp nhẹ và đặc biệt là nông nghiệp, trong khi tiền đề vật chất cần thiết chưa được tạo ra,
cũng như hoàn cảnh chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh chưa cho phép. Đến năm
1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng đã xác định coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành
công nghiệp nặng quan trọng; tuy nhiên CNH, HĐH vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công
nghiệp nặng, chưa chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp.

- Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của CNH, HĐH được xác định là: đặc
biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản; phát triển công nghiệp theo hướng
ưu tiên phát triển các ngành chế biến lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở
công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật
liệu xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường,
đồng thời phát huy được hiệu quả; mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ; đẩy mạnh các
hoạt động kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối
ngoại. Từ những nội dung đó, chúng ta dễ dàng thấy được CNH, HĐH trong giai đoạn hiện
nay đã có sự khác biệt nhiều so với trước thời kỳ đổi mới. Từ tập trung ưu tiên cho phát
triển công nghiệp nặng nay đã chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ, xem CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước.
Ngoài những khác biệt trên, trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải
không ngừng xây dựng và phát triển những tiền đề sau:
- Phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước,
trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng.
- Phải tạo được nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong
thời kỳ mới. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải chú trọng đến công tác giáo dục- đào
tạo, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc.
- Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ
CNH, HĐH.
- Có đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn, đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, xây dựng
thành công CNXH, bảo vệ vững chắc TQ.
Thực tế CNH,HĐH nổi lên một số tình hình: Đi tắt đón đầu hay là bãi thải công nghiệp ;
phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội, phát triển văn hóa… song tình trạng vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa (kinh tế, VH-XH). Nguyên nhân do nhận thức; nhiều chủ trương
chưa được thực hiện tốt; ỵéu kém về năng lực trong nhập máy móc thiết bị (cả tiêu cực); cơ
chế chính sách chưa đầy đủ, kịp thời, nhất là đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị

6


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

trường; việc tổng kết thực tiễn chậm; công tác nghiên cứu, ứng dụng, triển khai KHCN chưa
được quan tâm…
Tóm lại, CNH, HĐH đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ. Thời kỳ quá độ là lâu dài, với nhiều chạng đường đầy khó khăn, phức tạp, do đó
trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được chắc chắn
cũng sẽ có lúc gặp trở ngại hoặc sai lầm, dẫn đến hiệu quả không cao; điều quan trọng là
phải biết khắc phục những yếu kém, khuyết điểm đó, tranh thủ tốt thời cơ để vươn lên.
3. Nguyên nhân quá trình công nghiệp hóa thất bại:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển
công nghiệp nặng.
- Đại hội III đã xác định mô hình chiến lược CNH ở nước ta là lấy việc xây dựng công
nghiệp nặng là mục tiêu hàng đầu và trực tiếp, biến nước ta thành một nước XHCN có công
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến”. Tư duy lí luận đó đã đưa đến việc hình
thành mô hình CNH theo kiểu khép kín, hướng nội, tự cấp tự túc, dựa vào những lợi thế về
lao động, tài nguyên thiên nhiên, thực hiện theo phương thức kế hoạch hóa tập trung, hiện
vật; bao cấp cả đầu vào lẫn đầu ra của sản phẩm, với 2 thành phần kinh tế cơ bản thực hiện
CNH là quốc doanh và tập thể. Mô hình này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc
(1960-1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước (1976-1986). Lực chọn mô hình là
sự thể hiện ý muốn xây dựng công nghiệp nặng đóng vai trò chủ đạo, gồm các ngành điện
lực, gang thép, chế tạo cơ khí, năng lượng…, với mong muốn nhanh chóng biến nước ta
thành một nước công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
duy trì một mô hình nhất quán được xác định từ Đại hội lần thứ III (1960), là CNH bắt đầu
từ công nghiệp nặng, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, xem nhẹ vai trò của công nghiệp
và công nghiệp nhẹ; coi trọng nguồn lực trong nước, xem nhẹ nguồn lực từ bên ngoài; dựa
vào cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, coi nhẹ cơ chế thị trường.

- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến
hiệu quả kinh tế xã hội. Trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn viện
trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan liêu, bao cấp,
nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp trung ương giảm,
nhiều mục tiêu không đạt được…), sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và
nông nghiệp, thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên CNXH, bỏ qua TBCN, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá
năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước.
Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu
kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
4. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta:
- Coi trọng công tác qui hoạch và nâng cao chất lượng qui hoạch
Qui hoạch là công cụ quan trọng, nó định hướng dài hạn và đảm bảo sự đồng bộ
trong sự phát triển lâu dài. Tuy nhiên, chất lượng của qui hoạch còn thấp, do đó tính khả thi
và tính pháp lí còn hạn chế. Các cơ quan quản lí nhà nước ở các ngành, các địa phương phải
làm qui hoạch kịp thời, có chất lượng cho phát triển các vùng, nhất là vùng trọng điểm. Phải
7


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

có sự phối hợp và thống nhất chặt chẽ giữa các quan hệ tổng thể cùng với qui hoạch xây
dựng, qui hoạch đô thị cũng như qui hoạch dân cư, qui hoạch mạng lưới giao thông vận tải,
giữa qui hoạch xây dựng nhà máy với qui hoạch vùng nguyên liệu.
Để nâng cao chất lượng cần đổi mới phương pháp làm qui hoạch, phải dựa trên cơ sở
nghiên cứu thị trường và trên cơ sở phát triển các dự báo, thông qua đó đánh giá được tác
động của thị trường, của dân số, đánh giá xu thế tiến bộ của khoa học công nghệ và tác động
của nó đến sự phát triển của kinh tế xã hội, các ngành, vùng và doanh nghiệp.
- Nâng cao sứ cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
Sức cạnh tranh của hàng hóa là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá trình độ phát triển kinh tế

và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một quốc gia, của doanh nghiệp và của các sản phẩm.
Cạnh tranh vừa là sức ép, vừa là động lực thúc đẩy phát triển và đổi mới. Sức cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam còn yếu kém là do trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp. Để
tồn tại và phát triển hội nhập kinh tế quốc tế với thế giới và Việt Nam tham gia vào "sân
chơi lớn" như AFTA, WTO thì đòi hỏi chúng ta phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam trên góc độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm.
Áp dụng biện pháp toàn diện và đồng bộ để nâng cao khả năng cạnh tranh trên cơ sở
có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển chủ yếu dựa trên sự tiến bộ khoa học công
nghệ cũng như tăng cường quản lý. Cần hình thành những ngành chủ lực và những ngành
mũi nhọn xuất khẩu. Nên chú ý phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công
nghiệp và xuất khẩu. Như ngành sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng. Cần có chính
sách bảo hộ có lựa chọn, thực hiện hỗ trợ đầu vào thay cho hỗ trợ đầu ra. Nhà nước cần xây
dựng và thực hiện Luật cạnh tranh và chống độc quyền.
- Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đổi mới cách đào tạo và
sử dụng nguồn nhân lực một cách căn bản, cả về tư duy và tổ chức thực hiện ở giai đoạn
phổ thông: giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học, sau đại học phải đổi mới cơ chế và
chính sách đối với người lao động. Đây là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp trong những năm
trước mắt cần chú ý biện pháp sau:
+ Điều chỉnh cơ cấu lao động theo hướng tiếp tục duy trì quy mô, tốc độ, nâng cao
chất lượng đào tạo đại học và sau đại học hiện nay, cần tăng quy mô tốc độ và nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề nước ta. Cơ cấu ngành nghề đào tạo phải đáp
ứng và phù hợp sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các hệ đào tạo.
+ Tổ chức sắp xếp các trường đại học, cao đẳng theo hướng không tổ chức đơn
ngành phân tán, đổi mới nội dung và gắn liền với đổi mới phương pháp, phương tiện giảng
dạy. Cần phải phát triển và có sự quản lý của Bộ Giáo dục và đào tạo trong quan hệ liên kết
với quốc tế để hỗ trợ và nâng cao chất lượng đào tạo.
+ Đổi mới cơ chế và chính sách đổi mới nguồn nhân lực.
+ Cần có chính sách luân chuyển cán bộ phù hợp, chính sách thu hút nhân tài áp

dụng chính sách nghĩa vụ lao động ở vùng sâu, vùng xa trong một thời gian nhất định với
người lao động nhằm điều chỉnh lại, tạo ra sự phân bố lao động hợp lý hơn.
8


Tiểu luận môn Đường lối lịch sử và cách mạng Việt Nam

+ Cải cách căn bản tiền lương để tiền lương thực sự là giá của hàng hóa sức lao
động, là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Thực hiện bảo hiểm xã hội đối với
người lao động không kể họ làm việc trong khu vực quốc doanh hay ngoài quốc doanh.
+ Giảm việc thực hiện chế độ biên chế suốt đời, thực hiện phổ biến việc kí hợp đồng
lao động đối với các loại lao động.
+ Tăng cường quản lý Nhà nước của Bộ giáo dục và đào tạo đối với công tác đào tạo.
- Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất
+ Thúc đẩy xây dựng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ một mặt phải phát huy vai
trò của Nhà nước, mặt khác cần đặc biệt coi trọng vai trò của doanh nghiệp. Nhà nước đóng
vai trò định hướng tiến bộ khoa học công nghệ cho các ngành, chú trọng một số lượng công
nghệ trọng điểm, mũi nhọn, tăng vốn đầu tư cho khoa học công nghệ và xây dựng hoàn
thiện cơ chế quản lý đối với khoa học công nghệ.
+ Huy động vốn và sử dụng tốt năng lực nguồn lực cán bộ, khoa học công nghệ để
đất nước vào nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là nâng cao vai trò các
trường đại học.
+ Phát triển công nghệ cao: Công nghệ cao là khâu đột phá để đẩy nhanh tiến bộ
khoa học công nghệ và để đẩy nhanh rút ngắn nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Công nghệ cao là công nghệ dựa trên cơ sở khoa học hiện đại. Nhà nước cần ưu tiên là
công nghệ dựa trên cơ sở khoa học hiện đại. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư nhân tài, vật lực
và khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp phát triển ứng dụng công nghệ cao, ví dụ
như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới.
+ Phát triển thị trường khoa học công nghệ. Trong các loại thị trường hiện nay, khoa
học công nghệ là loại thị trường chưa được phát triển nên đã kìm hãm sự phát triển khoa

học công nghệ. Vì vậy để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải
phát triển thị trường khoa học Công nghệ và nội dung.
C. KẾT LUẬN
Công nghiệp hóa ở nước ta đã trải qua những khoảng thời gian thăng trầm, đến nay
chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn để có thể hòa nhập cùng nền công nghiệp thế giới.
Sự phát triển nhảy vọt của KHCN, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học;
bên cạnh đó là xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới đang
diễn ra nhanh chóng đã đặt các nước đang phát triển như nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế, nếu không tận dụng tốt những cơ hội để vươn lên. CNH, HĐH là một nhiệm
vụ chiến lược để đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững về mọi mặt, xây dựng thành
công CNXH.

9



×