Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đánh giá chất lượng tăng trưởng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.28 KB, 20 trang )

Đánh giá chất lượng tăng trưởng Việt Nam
I. Bền vững tốc độ


Khái niệm

Tăng trưởng kinh tế :Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP
hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng
kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế bền vững là khái niệm hiện đại để xác định mục tiêu và
các nhân tố tốt cho một nền kinh tế nhờ tăng trưởng bền vững. Theo đó, tăng
trưởng không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà phải
gắn với phát triển bền vững, chú trọng tới cả ba nhân tố: kinh tế, xã hội và môi
trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập cần phải
gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng
trưởng không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao mà chỉ cần cao ở mức hợp lý
nhưng bền vững

1.

Đánh giá tăng trưởng ở việt nam về tốc độ và bền vững
Đánh giá tổng quát

Giai đoạn 2001-2006
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1999 ở Đông Á đã ảnh hưởng sâu rộng tới các
nước trong khu vực này không riêng quốc gia nào trong khu vực , Việt Nam
cũng chịu phải ảnh hưởng của đợt khủng hoảng đó, năm 2000-2001 chính phủ
việt nam đã tung ra những gói trợ cứu nhằm ổn định tình hình kinh tế thời bấy
giờ , phần nào đó đã xoa dịu đi những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế , tuy
nhiên những dư âm của nó và những thiếu xót trong chính sách bắt đầu phát huy
tác dụng ngược gây ra nhiều bất lợi cho nền kinh tế sau này .


Năm 2001 đánh dấu thế kỉ mới của nhân loại , thế kỉ 21 . Thời đại mới cho nền
kinh tế việt nam , từ năm 2001 – 2006 vẫn còn dư âm của đợt khủng hoảng nền
kinh tế việt nam vẫn còn trong trạng thái gò bó tốc độ phát triển có tăng lên rõ
nét thống kê số liệu cho thấy tốc độ tăng trưởng việt nam năm 2001 đạt 6.89%
tăng đều nhưng chậm đến năm 2005 cột mốc cho thấy những chuyển biến tích
cực của việc gia nhập WTO năm 2005 tăng trưởng kinh tế đạt 8.4% đây là mức


tăng trưởng cao nhất trong vòng 9 năm qua kể từ năm 1997 , so với Đông Á thì
tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau Trung Quốc , tuy nhiên cái
giá trị của nó lại thấp hơn rất nhiều , điều đó cho thấy có sự tích cực nhưng vẫn
phần nào đó ảm đạm của nền kinh tế .
Nhìn chung trong giai đoạn này khái niệm tăng trưởng bền vững vẫn chưa được
nhìn nhận đầy đủ nên các chính sách phát triển vẫn còn sơ khai . Nhưng nền
kinh tế phát triển đã phần nào đó ổn định bền vững .
Giai đoạn 2007- đến nay
Kể từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO
nền kinh tế việt nam bắt đầu suy giảm do sự mở rộng thị trường , đặt ra vấn đề
cạnh tranh mạnh mẽ của việt nam trên thị trường quốc tế có phần nào đó yếu thế
vì chất lượng sản phẩm của chúng ta không đạt yêu cầu và thiếu sự đa dạng ,
năm 2008 lạm phát kỉ lục 23% cao nhất trong 20 năm đây là một con số báo
động cho sự suy giảm của nền kinh tế , thị trường xuất khẩu dần bị thu hẹp ,
dòng vốn chảy vào việt nam hạn chế do tính chất nghiêm trọng của đợt suy thoái
kinh tế toàn cầu 2008 cộng thêm những chính sách sai lầm của đợt khủng hoảng
năm 1999 bắt đầu lộ ra những điểm yếu sơ hở của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2009 lạm phát bắt đầu bùng nổ trở lại kinh tế suy thoái nhanh chóng , sự
tụt dốc của thị trường xuất khẩu , thị trường chứng khoán ….
Năm 2010 có sự phục hồi trở lại của nền kinh tế bằng những chính sách kích
thích điều tiết kinh tế của chính phủ , năm 2010 đánh dấu bước đầu của sự phát
triển rõ nét nền kinh tế Việt Nam , các dòng vốn đầu vư FDI ODA bắt đầu chảy

vào mạnh mẽ , nền kinh tế bắt đầu nhộn nhịp tăng lên , tốc độ tăng trưởng năm
này đạt 6.5% tuy có thấp hơn so với những năm trước nhưng giá trị chất lượng
của nó đã tăng lên .
Vấn đề đặt ra trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng Việt Nam đi đôi với vấn đề
cạnh tranh thị trường quốc tế .
2.

Sự bền vững của kinh tế việt nam

Sự tăng trưởng bền vững về kinh tế được xây dựng trên cơ sở tạo lập và
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh nghiệm quốc tế do nhiều nghiên cứu thực


hiện đã chỉ ra rằng, nhiều quốc gia cho dù sớm gia nhập danh sách các nước có
thu nhập trung bình,song mắc vào“bẫy thu nhập trung bình” thậm chí ở nấc
thấp do không duy trì được tăng trưởng bền vững bởi những bất ổn vĩ mô. Tăng
trưởng kinh tế kiểu “giật cục” (cónhững năm tăng cao song có những năm lại bị
sụt giảm mạnh về tăng trưởng) do môi trường vĩ mô không ổn định là một
trong những nguyên nhân quan trọng làm cho những nước này bị mắc trong
bẫy thu nhập trung bình ở mức thấp. Đây là vấn đề nổi cộm nhất của Việt Nam.
Về ngân sách nhà nước, trong nhiều năm qua Việt Nam luôn trong tình trạng
thâm hụt do nhu cầu tăng đầu tư phát triển. Mức thâm hụt đã tăng từ 22 nghìn tỉ
đồng năm 2000 lên 40,7 nghìn tỉ đồng vào năm 2005, và 113,1 nghìn tỉ đồng
vào năm 2010. Xét theo tỉ lệ so với GDP, mức thâm hụt ngân sách nhà nước
hầu như đều đáp ứng được quy tắc vàng, tức là không vượt quá 5%. Trong suốt
giai đoạn 2000-2006, mức thâm hụt ngân sách nhà nước đều ở khá sát, song
không vượt mức 5% so với GDP (theo giá hiện hành). Chỉ từ năm 2007 trở đi ,
mức thâm hụt ngân sách biến động nhiều hơn.Thậm chí trong năm 2009 và
2010, mức thâm hụt ngân sách so với GDP lần lượt là 6,9% và 5,6%. Cũng do
tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài, Việt Nam cũng buộc phải vay nợ nhiều

hơn. Chỉ riêng nợ nước ngoài đã đạt tới 29 tỉ USD vào năm 2010, tăng đáng kể
so với mức 9,4 tỉ USD vào năm 2002. Tỉ lệ nợ công so với GDP cũng tăng
nhanh, đạt tới 51,6% vào năm2010.
Đối với cán cân vãng lai, nhập siêu hàng hóa của Việt Nam có xu hướng
tăng liên tục cho đến năm 2008. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cán cân
vãng lai liên tục chịu thâm hụt, thậm chí mức thâm hụt tăng nhanh trong một
số năm. Nhập siêu hàng hóa mới chỉ

ở mức 1,2 tỉ USD vào năm 2001, song

đã tăng mạnh và đạt gần 5,1 tỉ USD vào năm 2006. Sau khi Việt Nam gia nhập
WTO, nhập siêu hàng hóa còn tăng nhanh hơn, lần lượt đạt tới 14,2 tỉ USD và
18 tỉ USD trong các năm 2007 và 2008. Trong những năm sau đó, cùng với tác
động của suy thoái kinh tế toàn cầu và các chính sách kiềm chế nhập siêu,
nhập siêu giảm xuống còn 12,9 tỉ USD vào năm 2009 và 12,4 tỉ USD năm
2010. Tốc độ tăng nhập siêu bình quân ở mức gần 30,0%/năm trong giai đoạn


2000-2006, đã tăng tới 88,7%/năm trong các năm 2006-2008, sau đó giảm
khoảng 17,1%/năm trong giai đoạn 2008-2010. Diễn biến tăng nhập siêu - đặc
biệt là trong thời kỳ hậu WTO - chủ yếu là do mất cân đối nghiêm trọng giữa
đầu tư và tiết kiệm trong nước.
Như vậy, cho dù có sự nhìn nhận nghiêm túc hơn đối với ổn định kinh tế
vĩ mô trong những năm gần đây, song mục tiêu này còn chưa được đánh giá
đúng mức. Trong nhiều trường hợp, mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vẫn xếp
sau mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Ngay cả khi xác định
ưu tiên kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, chấp nhận mức tăng
trưởng thấp hơn, thì Chính phủ vẫn chưa xác định được mức giảm tăng trưởng
đến đâu là chấp nhận được, docòn nhiều hệ lụy về việc làm, phá sản doanh
nghiệp, v.v… Trong khi đó, tăng trưởng lại dựa nhiều vào đầu tư, đặc biệt là

đầu tư công, nên tăng trưởng cao sẽ gây sức ép đối với thâm hụt NSNN và qua
đó là ổn định kinh tế vĩ mô. Chính ở đây, môi trường kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn
rủ iro, ảnh hưởng đến tăng trưởng của nền kinh tế trong dài hạn
Yếu tố thứ hai quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế là
khả năng xử lý các rủi ro vĩ mô khi nó xuất hiện. Các nghiên cứu và thảo luận
chính sách chỉ ra rằng năng lực xử lý một khi cú sốc vĩ mô xảy ra ở Việt Nam
còn nhiều yếu kém. Các chính sách ứng phó thường không kịp thời, có tính
giật cục, nhiều khi không nhất quán theo thời gian và phối hợp chính sách còn
khá hạn chế. Một số vấn đề mangtính cơ cấu như sự độc lập của Ngân hàng
Trung ương và chuyên môn hóa quá trình hoạch định chính sách tiền tệ cũng
được nêu trong một số nghiên cứu như là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu
lực của các phản ứng chính sách.
Thực tế trong những năm đầu sau khi mới gia nhập WTO, ViệtNam đã gặp
phải nhiều rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô chưa từng hiện hữu trước đây. Chẳng
hạn, giá hàng hóa thế giới tăng cao trong điều kiện nền kinh tế khá mở đối với
nhập khẩuvà chưa phát triển được các biện pháp hạn chế nhập khẩu phù hợp
với quy định của WTO. Một loại rủi ro khác đi kèm với các dòng vốn nước
ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp) vào ồ ạt, trong khi tỉ giá được neo (thiếu linh


hoạt) và khả năng giám sát tài chính còn bất cập. Bản thân những áp lực lạm
phát dồn tụ từ mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào đầu tư công và tăng trưởng
tín dụng cũng chỉ hiện hữu trong các năm sau 2007. Chính vìvậy ,trong thời
gian đầu, các cơ quan hoạch định chính sách dường như gặp lúng túng khi ứng
phó với các loại rủi ro này. Việc tăng cung ứng tiền đồng để mua lại ngoại tệ
từ các dòng vốn vào trong giai đoạn2007-2008, song không thực hiện hiệu
quả các biện pháp trung hòa hóa khiến cung tiền tăng trưởng mạnh chính là hệ
quả của sự lúng túngấy.
Chính vì sự thiếu thắt chặt nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài , cộng thêm sự thiếu
định hướng trong đầu tư bằng ngân sách khiến cho nền kinh tế trở lên rắc rối , vấn

đề nợ xấu nợ công vẫn tiếp tục diễn ra cho tới thời điểm này như một vấn đề quen
thuộc của nền kinh tế việt nam , chính vì thế sự bền vững trong tài chính còn là
một dấu hỏi lớn đến bao giờ mới giải quyết dứt điểm những vấn đề đó .
Nông nghiệp là ngành tạo ra giá trị ổn định nhưng lại thiếu sự đầu tư , quá mải
miết vào các ngành công nghiệp dẫn tới sự bão hòa thiếu hiệu quả , năng suất lao
động thấp , chất lượng sản phẩm thiếu cạnh tranh.
NHẬN XÉT : từ những kết quả phân tích trên cho thấy rằng từ năm 2001 đến
nay nền kinh tế việt nam phát triển với tốc độ chậm lại thiếu sự định hướng
đột phá cho tương lai , nền kinh tế chưa thật sự ổn định và phát triển bền
vững .

II. Cấu trúc tăng trưởng đầu vào
Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào sự đóng góp của 3 yếu tố: Sự tăng thêm
của vốn đầu tư phát triển; sự tăng thêm của số lượng lao động đang làm việc
và sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP).
Trong 3 yếu tố trên, TFP có vai trò quan trọng hàng đầu, được nhận diện dưới 4
góc độ:
(1) Nếu tăng vốn, tăng số lượng lao động là có giới hạn, thì tăng TFP là yếu tố
gần như vô hạn, vì nó liên quan đến trí tuệ của con người.


(2) Nếu tăng vốn, tăng số lượng lãi suất thường có hiệu ứng phụ (bất ổn vĩ mô,
lạm phát, công ăn việc làm…), thì tăng TFP gần như không gây hiệu ứng phụ.
(3) Tăng TFP là yếu tố quan trọng nhất để chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ số
lượng sang chất lượng, từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều
sâu, phát triển bền vững.
(4) Tăng tỷ trọng đóng góp của TFP sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh,
không những chống được nguy cơ tụt hậu xa hơn mà còn góp phần chuyển nền
kinh tế lên đẳng cấp mới, vị thế mới trong quan hệ so sánh với quốc tế.
Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ, tuy vậy khoảng cách giữa Việt

Nam với các nước phát triển vẫn còn khá xa, vì vậy cần có nhiều nỗ lực để thu
hẹp khoảng cách này.
Trong ba yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là tốc độ tăng cua vốn, lao
động và TFP, vốn có tốc độ tăng cao nhất với tốc độ bình quân giai đoạn 20062010 là 11,67%; giai đoạn 2011-2014 là 7,52%. Tốc độ tăng của lao động giai
đoạn 2006-2010 là 2,78%; giai đoạn 2010-2014 là 1,97%. TFP có tốc độ tăng
chậm nhất, giai đoạn 2006-2010 là -0,27% và giai đoạn 2011-2014 là 1,44%.
Xét về xu hướng đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng kinh tế, giai đoạn
2006-2010, đóng góp của tăng vốn vào tăng trưởng kinh tế là 80%, tăng lao
động đóng góp 26%, còn tăng TFP đóng góp -5,8%. Tuy nhiên đến giai đoạn
2011-2013 thì đã có sự thay đổi rõ rệt, đóng góp của tăng vốn là 55,6%; đóng
góp của tăng lao động là 22,3% và đóng góp của TFP tăng lên đến 22,1%. Giai
đoạn 2011-2014 đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế là 25,8%.
Nhìn chung đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế cũng như tốc độ tăng
TFP của Việt Nam vẫn còn thấp nhưng Việt Nam là một nước đang phát triển
nên tăng cường vốn vẫn đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên để tăng trưởng kinh tế một cách bền vững và gia tăng khả năng bắt kịp các
nước phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới thì Việt Nam cần tập trung
thúc đẩy năng suất thông qua phát triển khoa học công nghệ, kỹ thuật, chất
lượng lao động…


Nhận thức được vai trò quan trọng của TFP, Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu về
TFP và những chỉ tiêu liên quan.
Một số chỉ tiêu về TFP và các chỉ tiêu liên quan (đơn vị tính: %)
Tên chỉ tiêu
1. Tỷ trọng đóng góp của TFP
2. Tỷ lệ lao động đang làm việc được
đào tạo
3. Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ
cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ

cao trong giá trị sản xuất công nghiệp
4. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị
5. Tốc độ tăng giá trị giao dịch thị
trường KH-CN
6. Cán bộ KH-CN nghiên cứu và phát
triển

Mục tiêu
(1) 30-32 và (2)
35
(1) 50 và (2) 70

Ghi chú
(1) đến 2015,
(2) đến 2020

40
20
15
11

Trước hết là nền kinh tế nước ta phát triển theo chiều rộng, khi tăng trưởng GDP
dựa vào vốn lên tới quá 3/4 còn TFP là chỉ tiêu chất lượng, nhưng chỉ đóng góp
1/4. Dù mục tiêu về đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP của Việt Nam đến
2015 và 2020 không cao (còn thấp xa so với Hàn Quốc), nhưng việc thực hiện
không dễ dàng.
Việt Nam tuy có lượng lượng lao động đông đảo nhưng vẫn đang tăng nhanh,
trong khi đó tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP thấp, chỉ chiếm trên dưới
25%. Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp (năm 2013 tính theo giá thực tế
đạt 68,4 triệu đồng/người, tương đương với 3.277 USD/người, trong đó, nhóm

ngành nông, lâm nghiệp-thủy sản có tỷ trọng lao động đang làm việc lớn nhất
lên đến 46,8%, còn thấp hơn, chỉ đạt 26,8 triệu đồng/người, tương đương 1.284
USD/người). Việt Nam tuy thiếu vốn đầu tư do tích lũy nội bộ còn thấp, nhưng
tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn chiếm quá nửa vào tốc độ tăng GDP. Hiệu quả
đầu tư còn thấp. Mặc dù hệ số ICOR của thời kỳ 2011-2013 thấp hơn của thời
kỳ 2006-2010 (5,4 lần so với 6,2 lần), nhưng vẫn còn rất cao so với mức trung
bình của các nước tới 2-3 lần.


Về tỷ lệ lao động đang làm việc được đào tạo, theo báo cáo của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo (bao gồm
cả những người trưởng thành từ thực tế hoặc được đào tạo nhưng chưa có bằng
cấp của hệ thống giáo dục-đào tạo theo quy định) rất cao, lên đến 49% năm
2013 và mục tiêu năm 2014 là 52% - gần như chắc chắn sẽ vượt mục tiêu đề ra.
Về tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ
cao trong giá trị sản xuất công nghiệp, đây là chỉ tiêu rất quan trọng, phản ánh
trình độ khoa học-công nghệ của sản xuất công nghiệp, là ngành động lực và
đầu tàu tăng trưởng kinh tế Việt Nam, là tiêu chí thể hiện là nước công nghiệp
hay không. Đây cũng là chỉ tiêu rất khó xác định, chưa được đưa vào Hệ thống
chỉ tiêu thống kê quốc gia và hiện chưa tính được để đánh giá mục tiêu. Tuy
nhiên, với mục tiêu chiếm tới 40% toàn ngành công nghiệp thì không phải là
thấp và không dễ đạt được.
Về tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị với mục tiêu 20%/năm, tức là chưa đến 5
năm đã phải thay đổi toàn bộ thiết bị công nghệ mới, cũng tức là chưa đến 5
năm đã phải khấu hao hết giá trị của số thiết bị công nghệ đã đầu tư trước đây.
Đây là một chỉ tiêu thường áp dụng đối với các công nghệ công nghiệp phát
triển, còn đối với các nước đang phát triển thì đó là chỉ tiêu rất cao.
Đối với Việt Nam, do lo ngại giá thành cao, các doanh nghiệp thường kéo dài
thời gian khấu hao, nên phải giảm tỷ lệ khấu hao, chỉ bằng một nửa con số trên.
Tuy nhiên, nếu không tăng tốc độ đổi mới công nghệ thiết bị như mục tiêu đã đề

ra, thì trình độ công nghệ-thiết bị ngày càng tụt hậu, sẽ tác động tiêu cực đến
khả năng cạnh tranh.
Về tốc độ tăng giá trị giao dịch thị trường khoa học-công nghệ, với mục tiêu
được đề ra là 15%/năm. Đây là chỉ tiêu quan trọng trong điều kiện nền kinh tế
nói chung và khoa học-công nghệ nói riêng đã chuyển sang cơ chế thị trường,
phải được thị trường đánh giá qua tốc độ tăng giá trị giao dịch thị trường khoa
học-công nghệ. Tốc độ tăng của chỉ tiêu này cao hơn tốc độ tăng của GDP là cần
thiết và đúng hướng, bởi khoa học-công nghệ là động lực của tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, đây là chỉ tiêu cần được cụ thể hóa bằng chỉ tiêu kế hoạch để cụ


thể hóa mục tiêu và cũng chưa được đưa vào Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc
gia để đánh giá thực hiện.
Về số cán bộ khoa học-công nghệ nghiên cứu và phát triển tính trên 1 vạn dân
theo mục tiêu là 11 người. Đây là yếu tố quan trọng, bởi cán bộ khoa học công
nghiệp nghiên cứu và phát triển là lực lượng nòng cốt.

III. Cấu trúc theo đầu ra.
1. Tiêu dùng cá nhân:
Tiêu dùng tiếp tục là nhân tố cơ bản duy trì tốc độ tăng trưởng
Mặc dù theo đà công nghiệp hóa, tỷ trọng tích luỹ trong tổng cầu (tổng
cầu gồm tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản và xuất khẩu) có xu hướng tăng lên
nhưng tiêu dùng vẫn luôn luôn là thành phần quan trọng nhất trong tổng cầu vì
nó chiếm tỷ trọng cao nhất; đến nay vẫn hơn 70% GDP trong khi tích lũy chỉ
chiếm khoảng 28%.
Chính sách mở rộng - thắt chặt cầu liên tiếp được áp dụng luân phiên với
quy mô ngày càng lớn từ năm 2006 đến 2012, làm cho tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
và lạm phát đều biến động khá mạnh.Tuy nhiên từ năm 2013, đặc biệt năm
2014, điều hành chính sách của Chính phủ đã có bước thay đổi ngoạn mục và
khá quyết liệt.

Dữ liệu về tiêu dùng chứa các tín hiệu hỗn hợp. Dựa theo thống kê chính
thức, cầu tiêu dùng có dấu hiệu đi lên khỏi trạng thái trì trệ nhất vào năm 2011.
Khối lượng hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng năm 2014 tăng 6,3%, còn chi tiêu
GDP cho tiêu dùng cuối cùng tăng 6,2%.
2. Chi tiêu của chính phủ:
Bảng 2: Thu chi và cân đối ngân sách nhà nước (tỷ đồng)
Năm
2006
2007
2008

Tổng thu
Tổng thu
279,472
315,915
430,549

Tốc độ tăng
_
13.04%
36.29%

Tổng chi
Tổng chi
308,058
399,402
494,600

Tốc độ tăng
_

29.65%
23.84%


2009
2010
2011
2012
2013
2014

454,786
588,428
721,804
743,190
790,800
814,100

5.63%
29.39%
22.67%
2.96%
6.41%
2.95%

584,695
648,833
706,428
905,790
968,500

986,200

18.22%
10.97%
8.88%
28.22%
8.88%
-1.79%

(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2014 ước
tính đạt 814,1 nghìn tỷ đồng, bằng 104% dự toán năm.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2014 ước
tính đạt 968,5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,2% dự toán năm.
Nhận xét:
3. Chi cho đầu tư:
Đầu tư vừa là nhân tố cung, vừa là nhân tố cầu, và cũng là nhân tố chính
tạo ra tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua
nhờ tỷ lệ đầu tư trên GDP đã tăng lên rất nhanh và liên tục đứng ở mức rất cao.
Việc phát triển kinh tế thị trường và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa đã tạo ra
nhiều cơ hội đầu tư mới, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ
vốn ra làm giàu, đóng góp vào quá trình phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên,
thực tế cũng cho thấy một khi vốn đầu tư đã trở nên quá dồi dào thì hiệu quả sử
dụng vốn sẽ giảm xuống, tất yếu dẫn tới việc phải điều chỉnh lại chiến lược đầu
tư.
Sau một số năm triển khai đầu tư ồ ạt (2006-2010) dẫn tới hai cuộc khủng
hoảng lạm phát lớn 2008 và 2011 (xem đồ thị 6), từ năm 2011, tỷ trọng vốn đầu
tư toàn xã hội trên GDP đã giảm rất nhanh và liên tục; từ mức 42,7% năm 2007
và 38,5% năm 2010 xuống chỉ còn 3406% năm 2011 và ổn định khoảng 30,531% năm 2013-2014, thấp nhất kể từ năm 2000. Nếu giữ ổn định được tỷ lệ đầu
tư này dài hạn đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì chắc chắn tốc độ

tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế sẽ cao hơn đáng kể.

Bảng 3.1:Cơ cấu đầu tư so với GDP giai đoạn 2007-2014 ( %)


Đầu tư/GDP
Tăng
trưởng
GDP

200

200

200

201

7
42.7

8
38.2

9
39.2

0
38.5


8.46

6.31

5.32

6.78

201

201

34.6

2
33.5

3
30.4

5.89

5.25

5.42

2011

2014
31

5.98

(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Điểm sáng chủ yếu về đầu tư năm 2014 là tỷ trọng vốn đầu từ khu vực
kinh tế ngoài nhà nước đã phục hồi trở lại sau hai năm giảm liên tiếp, trong khi
tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực nhà nước sau hai năm tăng liên tiếp đã bắt đầu
giảm xuống. Tình hình này đối ngược với năm 2013. Tỷ trọng vốn đầu tư của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2014 tiếp tục ổn định khoảng 22% trong
tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Riêng trong khu vực kinh tế nhà nước,
chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn đầu tư tiếp tục theo hướng hiệu quả hơn, tức là
giảm tỷ trọng vốn tín dụng ưu đãi nhà nước và vốn của các doanh nghiệp nhà
nước; đồng thời tăng tỷ trọng nguồn vốn ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội và thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo.
Bảng 3.2: Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (%)
Tổng số
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014

100,0
100,0
100,0
100,0

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

Kinh
Nhà nước
47,1
45,7
37,2
33,9
40,5
38,1
37,0
40,3
40,4
39.9

tếKinh

tế

nhà nước
38,0
38,1
38,5
35,2
33,9

36,1
38,5
38,1
37,6
38,4

ngoàiKhu vực có vốn
đầu tư nước ngoài
14,9
16,2
24,3
30,9
25,6
25,8
24,5
21,6
22,0
21,7
(Nguồn : Tổng cục thống kê)

Điểm yếu nổi bật về đầu tư năm 2014 là thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trong năm có 1588 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký
đạt 15,6 tỷ USD, tăng 24,5% về số dự án và tăng 9,6% về vốn so với năm
2013. Đồng thời có 594 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký bổ


sung gần 4,6 tỷ USD vốn đầu tư. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án
cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 20,3 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2013.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2014 ước tính đạt 12,4 tỷ
USD, chỉ tăng 7,4% so với năm 2013. Như vậy so với năm 2013, hiệu quả

công tác thu hút đầu tư nước ngoài đã giảm sút.
4. Hoạt động xuất nhập khẩu
Xuất khẩu vẫn giữ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng trong khi cán
cân thương mại bắt đầu thặng dư đáng kể
Cũng như đầu tư, xuất khẩu đã trở thành một trong những nhân tố quan
trọng nhất tạo ra bước phát triển kinh tế nhanh trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt,
sau khi Việt Nam ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và tiếp đó trở thành thành
viên đầy đủ của WTO, điều kiện trao đổi thương mại, thu hút đầu tư thuận lợi hơn
rất nhiều so với trước; tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu đều tăng lên rất mạnh,
khoảng 25% mỗi năm. Đến nay kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều đã tương
đương với 80%GDP toàn nền kinh tế, phản ảnh vị thế rất quan trọng đối với tăng
trưởng chung.

Bảng 4: Họat động xuất nhập khẩu hàng hóa (triệu USD)
Cán cân
Xuất khẩu

Nhập khẩu

xuất nhập
khẩu

2006
2007
2008
2009
2010

Kim


Tốc độ

ngạch

(%)

39826,2
48561,4
62685,1
57096,3
72236,7

22,7
21,9
29,1
-8,9
26,5

Tỷ
so
(%)

57,2
65,3

trọng
Kim
GDP
ngạch
44891,1

62764,7
80713,8
69948,8
84838,6

Tốc độTỷ trọng so
(%)
22,1
39,8
28,6
-13,3
21,3

GDP (%)

70,1
76,6

-5064,9
-14203,3
-18028,7
-12852,5
-12601,9


2011
2012
2013
2014


96905,7
114529,2
132032,9
150042,0

34,2
18,2
15,3
13,6

72,7
73,8
77,1
80,4

106749,8
113780,4
132032,6
148058,0

25,8
6,6
16,0
12,1

80,1
73,3
77,1
79,3


-9844,1
748,8
0,3
1984

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Điểm son đáng chú ý nhất trong 5 năm gần đây là kim ngạch xuất khẩu
thường xuyên tăng nhanh hơn kim ngạch nhập khẩu, dẫn tới từ năm 2012 đến
nay nền kinh tế luôn trong tình trạng xuất siêu. Đặc biệt năm 2014 đã xuất siêu
tới xấp xỉ 2 tỷ USD, một hiện tượng chưa từng có từ trước tới nay. Điều này
phản ánh một xu hướng phát triển tích cực, cần tiếp tục phát huy tiến tới liên tục
xuất siêu đảm bảo có đủ nguồn thu ngoại tệ trả các khoản nợ nước ngoài vay từ
nhiều năm trước.
Tính chung cả năm 2014, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 150 tỷ USD,
tăng 13,6% so với năm 2013 nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì chỉ tăng
9,1%.
Về nhập khẩu hàng hóa, tổng kim ngạch năm 2014 đạt 148 tỷ USD, tăng
12,1% so với năm trước.

IV. Co dãn của giảm nghèo theo tăng trưởng.
1.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo
a) Mối

quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo vừa phức tạp vừa đa dạng,
hiểu được mối quan hệ này và những yếu tố xác định mối quan hệ đó sẽ là mấu
chốt trong xây dựng chiến lược giảm nghèo thành công. Nếu có thể chỉ ra được
rằng tăng trưởng kinh tế nhanh hơn bao giờ cũng đi kèm giảm nghèo nhanh, do
hiệu ứng “lan tỏa”, thì chiến lược giảm nghèo cần tập trung vào việc đạt tăng

trưởng nhanh hơn. Nhưng nếu điều đó không nhất thiết là đúng thì việc theo đổi
tăng trưởng phải đi kèm với nỗ lực đạt được tăng trưởng vì người nghèo thông
qua việc tái phân bố thu nhập và tài sản trong nền kinh tế.


Một số những nghiên cứu cố gắng phân tích quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và tỉ lệ nghèo giữa các quốc gia qua các thời kỳ đã chỉ ra rằng: trung bình, cứ
tăng một điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người thì tỉ
lệ nghèo có thể giảm được tới 2%. Tuy nhiên bất bình đẳng lại không diện ra
theo một xu hướng nhất định, một số quốc gia có tốc độ giảm nghèo hạn chế
trong khi có thành tích tăng trưởng kinh tế khả quan, ngược lại một số quốc gia
có tốc độ giảm nghèo cao trong khi tăng trưởng kinh tế là tương đối thấp. Số
liệu thực tế ở châu Á về mối quan hệ này đã cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao đã tác động tích cực đến tỉ lệ nghèo. Trong những năm 1990, Các quốc gia
đông á đạt được tốc độ tăng trưởng cao là 6,4% và tỉ lệ nghèo đối giảm được với
tốc độ là 6,8%; trong khi các tốc độ này ở các quốc gia Nam Á lần lượt là 3,3%
và 2,4%. Nếu tính chung cả khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 1 điểm
phần trăm thì nghèo đối chỉ giảm được 0,9%.
Ngược lại, giảm nghèo cũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế, điều này
được thể hiện thông qua một số những khía cạnh nhu sau:
Giảm nghèo đóng vai trò như một bộ phận của một cán cân điều tiết các hoạt
động đến tăng trưởng, Về phía người nghèo, do thu nhập và mức sống thấp nên
chế độ dinh dưỡng, tình trạng sức khỏe và giáo dục kém. Điều này làm giảm cơ
hội tham gia hoạt động kinh tế và năng suất lao động của họ, và vì thế trực tiếp
hay gián tiếp ảnh hưởng tới quá trình tăng trưởng.
Giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ
động mà phải tạo ra dộng lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên tự thoát
nghèo. Giảm nghèo không đơn thuần chỉ là sự trợ giúp một chiều từ tăng trưởng
kinh tế đối với những đối tượng khó khăn, mà còn là nhân tố quan trọng tạ ra
một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản

xuất dồi dào và đảm bảo sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do đó, giảm
nghèo không những là một mục tiêu của tăng trưởng, cả trên góc độ xã hội và
kinh tế, đồng thời cũng là một điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bề
vững.


Tóm lại, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo là hai phạm trù khác nhau,
nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội của một quốc gia. Do vậy, khi xây dựng dịnh hướng phát triển cho mỗi
thời kì cụ thểcần có sự kết hợp đúng đắn giữa vấn đề tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo, Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cần thực hiện đồng thời hoặc lồng
ghép với công tác giảm nghèo. Sự kết hợp ngay từ đầu giữa tăng trưởng kinh tế
và giải quyết tốt vấn đề giảm nghèo là một trong những nhân tố quan trọng
quyết định sự phát triển bền vững
b) Các trường hợp tăng trưởng không làm cho giảm nghèo nhanh hơn
* Thành quả của tăng trưởng kinh tế không được tái phân phối cho người
nghèo. Thực tế cho thấy, nếu nhà nước tập trung quá lớn các nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế, kết quả của tăng trưởng lại được sử dụng cho tái đầu tư tạo tăng
trưởng nhanh, đặc biệt là tập trung nguồn lực đầuu tư ở những vùng trọng điểm,
những ngành mũi nhọn, nhằm thúc đảy tăng trưởng nhanh mà thiếu quan tâm
đến những vùng khó khăn hơn thì sẽ dẫn đến sự phát triển mất cân đối, người
nghèo không được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng, điều đó còn dẫn đến tình
trạng phân hóa giàu nghèo sẽ diễn ra mạnh hơn.
* Các mô hình tăng trưởng không hướng tới người nghèo. Các mô hình tăng
trưởng kinh tế nhanh nếu không tạo điều kiện để thu hút người nghèo tham gia
thì người nghèo không được hưởng lợi trực tiếp từ kết quả tăng trưởng và tình
trạng nghèo vẫn khồn được cải thiện. Cụ thể: (i) Thực tế ở nhiều nước đã cho
thấy, phần lớn người nghèo đều là những người công nhân là thuê theo giờ,
lương thấp và tham gia vào công đoạn sản xuất ít hiệu quả nhất trong chuỗi giá
trị sản phẩm hàng hóa, lại thường xuyên làm việc trong những môi trường độc

hại. Điều này làm cho họ khó có thể vượt ra khỏi tình trạng nghèo khổ trong khi
tăng trưởng vẫn cứ nhanh; (ii) Tăng trưởng nhanh nhưng diễn ra ở những ngành,
lĩnh vực ít tạo ra công ăn việc làm, thì dù có tăng trưởng cũng sẽ không góp
phần, hoặc chỉ góp phần rất nhỏ vào việc giảm tình trạng nghèo khổ; (iii) đẩy
mạnh xuất khẩu, nhìn chung có đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế,
nhưng việc đẩy mạnh xuất khẩu vào một số ngành không kích thích tăng trưởng


việc làm nhanh hơn như xuất khẩu sản phẩm là tài nguyên khoáng sản của đất
nước, sản phẩm công nghiệp chế tạo đòi hỏi công nghệ và vốn cao, thì mặc dù
tăng trưởng thu nhập cao nhưng thu nhập người nghèo cũng không được cải
thiện.
c) Tiêu chí đáng giá tác động của tăng trưởng đến giảm nghèo
(1) Động

thái thay đổi tốc độ của tăng trưởng thu nhập bình quân và tỷ lệ

nghèo
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thay đổi nghèo được thể hiện trước
hết qua mối tương quan giữa tốc đô tăng trưởng thu nhập đầu người và thay đổi
tỷ lệ nghèo. Vi thế, việc so sánh giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người) với tốc độ giảm nghèo (sự thay đổi trong
tỷ lệ hộ nghèo) sẽ cho phép cso nhận xét mang tính chung nhất về tác động của
tăng trưởng đến giảm nghèo như thế nào: (i) Nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập
bình quân đầu người nhỏ hơn tốc độ giảm nghèo thì tăng trưởng là “vì người
nghèo”, tăng trưởng có lợi hơn cho người nghèo, tức là tác động đồng thuận
tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo mạnh; (ii) Nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập
bình quân đầu người lớn hơn tốc độ giảm nghèo thì tăng trưởng kinh tế có làm
cho tỷ lệ nghèo giảm nhưng ít hơn, tăng trưởng có lợi hơn cho người giàu; (iii)
Nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người bằng tốc độ giảm nghèo

thì tăng trưởng kinh tế có tắc động đến giảm nghèo ở mức trung bình, thu nhập
được phân phối đồng đều cho cả người giàu lẫn người nghèo; (iv) Nếu tỷ lê
nghèo tăng, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp thì
tăng trưởng kinh tế đã “bần cùng hóa” thêm người nghèo.
Ưu điểm của tiêu chí này là cho biết được bức tranh tổng quan về tăng
trưởng kinh tế và tỷ lệ nghèo; hơn nữa nó thể hiện được xu hướng tác động của
tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo. Tuy nhiên, tiêu chí này cũng có nững hạn
chế, đó là chưa định lượng được tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm
nghèo. Chính vì thế, những chỉ tiêu sau sẽ khắc phục những hạn chế của chỉ tiêu
này.


(2) Hệ

số co giãn của giảm nghèo với tăng trưởng

Thước đo tốt nhất để thấy được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm
nghèo chặt chẽ thế nào là tính độ co giãn của giảm nghèo với tăng trưởng kinh
tế (Growth Elasticity of Poverty - GEP). Dộ co giản này thể hiện bằng phầm
trăm thay đổi tỷ lệ nghèo khi có 1% tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người.
GEP > 0 cho thấy tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghèo cùng chiều. Điều này thể
hiện tốc độ tăng trưởng tăng làm đói nghèo gia tăng, độ tăng trưởng giảm làm
đói nghèo gia giảm.
GEP < 0 cho thấy tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghèo ngược chiều, trong
trường hợp này tăng trưởng kinh tế quốc gia có lan tỏa tốt cho xóa đói giảm
nghèo.
GEP < -1 cho thấy thấy tốc độ giảm nghèo vượt qua tốc độ tăng trưởng, tăng
trưởng thay đổi ngày càng tích cực tới giảm nghèo
GEP = 0 cho thấy tốc độ tăng trưởng không ảnh hưởng tỷ lệ nghèo
-1 < GEP < 0 cho thấy thấy tốc độ giảm nghèo thấp hơn tốc độ tăng trưởng,

tăng trưởng làm thay đổi phân phối thu nhập theo hướng bất bình đẳng hơn, tỷ lệ
nghèo có giảm nhưng ít hơn
Ưu điểm của chỉ tiêu này là định lượng được tác động và cho biết xu hướng
tác động của tốc độ tăng trưởng đến giảm nghèo là tích cực hay tiêu cực. Hạn
chế là với tỷ lệ nghèo thấp (<3%) thì phản ánh không chính xác.
(3) Tỷ

số thu nhập (IR)

Chỉ số này đo sự tương quan giữa mức thu nhập bình quân chung và mức
thu nhập bình quân của người nghèo
IR = mức thu nhập bình quân của người nghèo/mức thu nhập bình quân
chung × 100%
IR cho biết ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến đời sống của những hộ
nghèo.
IR cao, thu nhập người nghèo gần mức bình quân xã hội, tăng trưởng thay
đổi tích cực tới giảm nghèo.
IR thấp, tăng trưởng tác động yếu tới mức sống của người nghèo.


Tiêu chí thứ ba và thứ nhất có tác dụng hỗ trợ rất quan trọng trong đánh giá tác
động tăng trưởng đến giảm nghèo. Trong khi IR cho biết ảnh hưởng của tăng
trưởng kinh tế đến đời nghèo đói là tích cực hay tiêu cực thì so sánh tốc độ tăng
mức thu nhập bình quân của người nghèo với tốc độ tăng mức thu nhập bình
quân chung của xã hội sẽ cho biết xu hướng tác động là mạnh dần hay yếu dần
đi. Nếu tốc độ tăng mức thu nhập bình quân của người nghèo ngày càng nhanh
hơn tốc độ tăng mức thu nhập bình quân chung của xã hội cho thấy tác động
ngày càng tích cực của tăng trưởng kinh tế đến mục tiêu giẩm nghèo và ngược
lại.
2. Thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2000-2014

Khái quát thực trạng đói nghèo
Sau 10 năm - 2002 đến 2012 - nỗ lực xoá đói, giảm nghèo ở Việt Nam được


Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO) công nhận đạt thành tích nổi bật.
Việt Nam nằm trong nhóm 18 quốc gia được trao bằng khen chứng nhận việc
sớm đạt được Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ 1-Xoá bỏ tình trạng nghèo cùng
cực và thiếu đói- hướng tới mục tiêu giảm một nửa số người đói vào năm 2015.
Mục tiêu của Việt Nam giai đoạn tới là hướng đến xoá đói, giảm nghèo bền
vững, tuy nhiên lộ trình đến đích còn nhiều gian nan.
Nghèo đói tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, đặc biệt là ở các vùng khó
khăn như miền núi, hải đảo. Hơn 95% người nghèo sống ở khu vực nông thôn.
Tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm ở nông thôn cao gấp 10 lần so với ở thành
thị. Mức độ nghèo còn rất cao ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, nhưng ở những
vùng này tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây.
Nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ nghèo rất cao và việc giảm nghèo còn mang tính
chất kinh niên ở một số nhóm dân tộc ít người gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi nhiều
biện pháp lâu dài. Chỉ chiếm 14,5% tổng dân số nhưng đồng bào dân tộc ít
người chiếm đến một nửa dân số nghèo ở Việt Nam.
Bên cạnh những thách thức về giảm nghèo ở nhóm dân tộc thiểu số và những
vùng khó khăn, quá trình đô thị hoá nhanh chóng và sự tăng lên ồ ạt của dòng
người di cư từ nông thôn về các thành phố lớn cũng làm tăng áp lực giảm nghèo
ở khu vực thành thị. Nghèo đói ở khu vực thành thị không chỉ thể hiện ở thu


nhập thấp, mà còn thể hiện trong thiếu hụt về tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục,
nước sạch và vệ sinh, nhà ở, các mạng lưới an sinh xã hội, cơ hội tham gia vào
thị trường lao động và các hoạt động của cộng đồng. Đặc biệt, đặc tính không ổn
định và hay di chuyển của những đối tượng di cư tạm thời hoặc không có đăng
ký hộ khẩu, cũng khiến cho họ khó tiếp cận với các trợ giúp và dịch vụ công.

Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo tại Việt Nam 10
năm qua đã đạt được những kết quả nổi bật. Đã có hơn 500 nghìn lượt hộ nghèo
được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt người được hỗ trợ bảo hiểm xã hội. Điều
kiện sống của người nghèo được cải thiện. Thông qua Chương trình 135 giai
đoạn 2, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% năm
2006 xuống còn 28,8% năm 2010; thu nhập bình quân đầu người là 4,2 triệu
đồng/người/năm;…Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc
hội đề ra từ 14,2% năm 2010 xuống còn 9,6% năm 2012.
1.2.2 Thực trạng nghèo đói
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam,
vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên
177 nước, chỉ số phát triển giới xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng
hợp xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt
Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (%số hộ
nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%. Vào đầu thập niên 1990, chính phủ
Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng với lời kêu
gọi của Ngân hàng thế giới. UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được
tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song
vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng
nghèo cùng cực.
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn Quốc
hội Việt Nam, rất nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản


ánh thực chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng
do tác động của lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến
nay) và do là suy giảm kinh tế . Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam hiện nay

là gồm những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đến 260.000
đồng/người/tháng. Mặc dù vậy, nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo vẫn rất dễ rớt
trở lại vào cảnh nghèo đói.
Ở khu vực nông thôn tỷ lệ đói nghèo giảm chậm hơn thành thị nhưng
tương đối ổn định: từ 35,6% năm 2002 giảm xuống 27,5% năm 2004.
Khu vực đồng bào dân tộc thiểu số giảm nghèo chậm và còn rất cao tù
75,2% xuống 69,3%
Sự phân bố hộ nghèo giữa các vùng, miền là không đều. Năm 2005 mặc
dù tỷ lệ hộ nghèo trên toàn quốc giảm xuống còn 7% nhưng sự chệnh lệch về hộ
nghèo giữa các vùng là rất lớn, cụ thể tỷ lệ hộ nghèo ở Đông Nam Bộ là 1,7%
trong khi vùng Tây Bắc chiếm đến 12% tổng số hộ nghèo trong cả nước.



×