Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.35 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội là thiết chế có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo thực thi quyền lực Nhân dân. Điều 6,
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam năm 2013
quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp,
bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Điều 69 quy định: “Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ...”.
Sự hiến định này cho thấy ở Việt Nam, thuật ngữ “cơ quan đại biểu
cao nhất” được hiểu đồng nhất với khái niệm cơ quan đại diện cao nhất
trong bộ máy nhà nước. Đại diện trở thành một thuộc tính của Quốc hội
xuyên suốt và chi phối vị trí, vai trò, cơ chế hoạt động, cơ cấu đại biểu và
thể hiện tập trung nhất qua việc thực hiện các chức năng: lập pháp; quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của nhà nước. Nói một cách khác, tính đại diện cao nhất của
Quốc hội Việt Nam bắt nguồn từ bản chất nhà nước dân chủ nhân dân mà
chúng ta đã lựa chọn từ năm 1945.
Tuy nhiên hiện nay, việc nghiên cứu Quốc hội với tư cách là cơ quan đại
diện cao nhất của Nhân dân chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Ở
phương diện lý luận, khái niệm đại diện của Quốc hội chưa được luận giải
thống nhất là tính chất hay là một chức năng của Quốc hội. Nhiều vấn đề
mang tính hệ thống về đại diện của Quốc hội chưa được nghiên cứu như: nội
dung đại diện, hình thức thực thi đại diện, tỷ lệ đại diện …
Ở phương diện thực tiễn, hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với
vị trí và vai trò hiến định, Quốc hội chưa mạnh, chưa thực quyền trong quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, trong giám sát tối cao hoạt động
của nhà nước.


Trong điều kiện đẩy mạnh công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền (NNPQ) XHCN; mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân… thì việc làm sáng tỏ phương diện lý luận lẫn thực tiễn về vai trò đại
diện, các điều kiện đảm bảo để Quốc hội thực thi hoạt động đại diện Nhân
dân cao nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Với nhận thức nói trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân
Việt Nam”.


2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích, đánh giá thực tiễn làm sáng tỏ
các hình thức thể hiện đại diện, các điều kiện đảm bảo Quốc hội là cơ quan
đại diện cao nhất. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp để Quốc hội thực sự là
cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Khảo cứu các công trình khoa học về đại diện của Quốc hội ở trong và
ngoài nước. Từ đó rút ra những giá trị tham khảo và hướng nghiên cứu mới
cho luận án.
- Phân tích và làm sáng tỏ bản chất và vai trò đại diện cao nhất của Quốc
hội; nghiên cứu tính đại diện của một số Quốc hội các nước trên thế giới để
rút ra các giá trị có thể kế thừa và phát triển trong xây dựng cơ quan đại diện
cao nhất ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng các hình thức thể hiện đại diện, các đảm bảo đại
diện của Quốc hội Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp phát huy tính đại diện Nhân dân cao nhất
của Quốc hội Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đại diện của Quốc hội, các yếu tố đảm bảo đại
diện cao nhất của Quốc hội, các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của
Quốc hội Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề đại diện của
Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ Hiến pháp năm 1992
đến nay.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam về bản chất nhà nước, về tổ chức và hoạt
động của BMNN nói chung, của Quốc hội nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ đạo trong nghiên cứu để làm
rõ các vấn đề lý luận đại diện của Quốc hội cũng như xác định các giải pháp
đảm bảo tính đại diện của Quốc hội Việt Nam.
- Phương pháp lịch sử, so sánh: được sử dụng khi nghiên cứu kinh
nghiệm của một số nước, đánh giá thực trạng, các biện pháp đảm bảo tính đại
diện của Quốc hội ở một số nước.


3

- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để khái quát, hệ thống hóa các
vấn đề; tổng kết lý luận, lịch sử, thực tiễn, kinh nghiệm pháp lý của một số
nước trên thế giới; đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của Quốc hội Việt
Nam hiện nay.
- Phương pháp khảo cứu tài liệu. Phương pháp này được sử dụng để phân
tích, đánh giá, tổng kết các công trình đã nghiên cứu, kinh nghiệm nước ngoài.

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Là luận án đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt
Nam nên có một số đóng góp mới sau đây:
- Chỉ rõ Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân là một tính
chất đặc biệt quan trọng thể hiện xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của
Quốc hội. Để giữ vững tính đại diện này, luận án đã chỉ rõ các yếu tố đảm
bảo và các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam.
- Phân tích sâu sắc và toàn diện những kết quả đã đạt được, chỉ ra những
hạn chế trong việc thực thi đại diện, trong đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ quan
đại diện cao nhất ở Việt Nam.
- Xây dựng các quan điểm, đề xuất các giải pháp đảm bảo Quốc hội là cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý
luận về đại diện, đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện Nhân dân cao nhất
của Quốc hội
- Về thực tiễn: Luận án đưa ra những giải pháp, những kiến nghị làm cơ
sở thực tiễn để các nhà lập pháp, các cơ quan hoạch định chính sách cũng
như đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có cách nhìn sâu sắc,
toàn diện hơn về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổ chức bộ máy nhà nước
(BMNN) với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân; trên cơ sở đó
có những đóng góp tích cực trong hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Quốc hội Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể làm tài
liệu tham khảo cho đại biểu Quốc hội (ĐBQH), những người quan tâm nghiên
cứu, làm công tác về ĐBQH.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.



4

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới Quốc hội với tính chất
là cơ quan đại diện của Nhân dân
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Về lý luận đại diện, đại diện của Quốc hội và vai trò của Quốc hội với
tính chất là cơ quan đại diện Nhân dân. Luận án khảo cứu một số công trình
tiêu biểu là: Đề tài cấp nhà nước “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức
hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong NNPQ xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân” của tác giả Trần Ngọc Đường. Đề tài cấp bộ: “Cơ sở lý
luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong
BMNN và hệ thống chính trị Việt Nam (qua bốn bản Hiến pháp)” của tác giả
Ngô Đức Mạnh.
Các cuốn sách: “Mô hình tổ chức và hoạt động của NNPQ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” của tác giả Đào Trí Úc; “Chức năng đại diện của Quốc hội
trong NNPQ” của Văn phòng Quốc hội xuất bản; “Tổ chức và hoạt động của
Nghị viện một số nước trên thế giới” của Nguyễn Sĩ Dũng.
Một số tài liệu như: Luận án phó tiến sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan đại diện ở nước ta hiện nay” của Chu Văn Thành. Nhóm
bài viết về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam đăng trên các tạp chí như: “Quốc
hội Việt Nam - những vấn đề chuyển sang Nghị viện” của Nguyễn Cảnh Hợp
(1989), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6); “Bàn về tính đại diện nhân dân của
Quốc hội” của Nguyễn Quang Minh (2001), Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (03);
“Để mãi mãi xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân” của Nguyễn
Văn An, Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 60 năm Quốc hội Việt Nam, Hà Nội, ngày
05/01/2006; “Các mô hình Quốc hội” của Nguyễn Đăng Dung (2001), Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, (01);“Phát huy vai trò đại diện nhân dân của đại biểu Quốc

hội trong hoạt động lập pháp” của Trần Ngọc Đường (2009), Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp; “Tiêu chí và yếu tố bảo đảm hiệu quả tính đại diện của Quốc hội” của
Vũ Văn Nhiêm (2010), "Tiêu chí và yếu tố bảo đảm hiệu quả tính đại diện của
Quốc hội", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (177); “Dân chủ đại diện và vấn đề
bầu cử” của Trần Nho Thìn (2011), “Dân chủ đại diện và vấn đề bầu cử”, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, (6).
Về các đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội
Bàn về nội dung này có thể kể đến: Luận án tiến sĩ: "Nhà nước xã hội
chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay" của Đỗ
Trung Hiếu; "Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Trương Thị Hồng


5

Hà; “Đảm bảo tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Minh Hiếu. Liên quan đến
việc xây dựng chế độ bầu cử, có nhiều đầu sách chuyên khảo như: “Chế độ
bầu cử của một số nước trên thế giới” của Nguyễn Hồng Anh; “Hệ thống bầu
cử ở Anh, Mỹ và Pháp - Lý thuyết và hiện đại” của Lưu Văn Quảng; “Một số
vấn đề về hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở Việt Nam
hiện nay” của Vũ Thị Loan.
Về thực trạng đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của
Quốc hội. Cuốn: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay”
của Lê Minh Thông; Luận án tiến sĩ Luật học: “Chế độ bầu cử ở nước ta:
những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Nhiêm, đây là những công
trình nghiên cứu khá sâu về lý luận, phong phú về thực tiễn của hoạt động
bầu cử tại Việt Nam hiện nay.
Về các giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội với tính chất là cơ

quan đại diện cao nhất của Nhân dân. Ở nội dung này có các tài liệu: “Quốc
hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền” của Nguyễn Đăng Dung; Luận
văn thạc sĩ: “Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu
Quốc hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Quang Hương…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, có không ít công trình nghiên cứu về dân chủ đại diện,
đại diện chính trị hay luận sâu về Chính phủ đại diện. Nhưng ở góc độ trực
tiếp bàn về đại diện Quốc hội có phần hạn chế hơn. Tuy nhiên có một số tác
phẩm tiêu biểu như: “The Concept of Representation" của học giả Hana
Pitkin; “Parliaments and Citizens in Western Europe” của Philip Norton;
“Political Representation” của Ian Shapiro; “Representation And Institutional
Design” của Rebekah L. Herrick.
1.2. Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luân án
1.2.1. Nhận xét về các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
Sau khi nghiên cứu các công trình nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài
nước đã liệt kê ở các mục trên, tác giả có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề lý luận về
nguồn gốc quyền lực, cơ chế đại diện cho quyền lực Nhân dân, từ đó khẳng
định Quốc hội là thiết chế đại diện để thực thi hữu hiệu quyền lực Nhân dân.
Thứ hai, từ việc thống nhất quan niệm Quốc hội là cơ quan đại diện, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhân dân, các công trình nghiên cứu
thực trạng đại diện Quốc hội thông qua các chức năng hoặc qua các hình thức
thực thi đại diện của Quốc hội như tiếp xúc cử tri, chất vấn, giải trình ...


6

Thứ ba, để đảm bảo Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân
dân các tác giả đều có xu hướng đưa ra những giải pháp đảm bảo tính đại

diện, tính thực quyền của Quốc hội trong thực thi quyền lực nhà nước.
Thứ tư, bên cạnh những quan điểm chung đề cập đến đại diện, đại diện
của Quốc hội Việt Nam, còn có sự tranh luận chưa thống nhất khi xem xét đại
diện là chức năng hay là tính chất của Quốc hội. Việc phân tích các điều kiện
đảm bảo tính đại diện của Quốc hội thường có sự liệt kê, trùng lặp hoặc chưa
đầy đủ. Do đó những phân tích đánh giá thực trạng đại diện hiện nay ở Việt
Nam còn tản mạn, chưa hệ thống về từng phương diện hoạt động hay những
hành động cụ thể thực thi nhiệm vụ của Quốc hội, ĐBQH. Đây sẽ là những
hướng đi mới cho tác giả được trình bày trong luận án của mình.
1.2.2. Những nội dung được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Một là, luận án tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận đại diện. Trong
đó, luận án sẽ nghiên cứu để chỉ ra các khái niệm như: đại diện, đại diện của
Quốc hội… Đây là những khái niệm nền tảng, nếu nội hàm chưa được làm rõ
sẽ khó xác định vị trí, vai trò đại diện cao nhất của Quốc hội trong BMNN.
Hai là, luận án chỉ ra các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội.
Ba là, luận án chỉ ra các điều kiện đảm bảo mang tính đồng bộ, tương hỗ lẫn
nhau trong việc đảm bảo tính đại diện Nhân dân cao nhất của Quốc hội được xác
lập trên các phương diện: chính trị, pháp lý, tổ chức, nhân sự.
Bốn là, luận án khảo sát và đánh giá thực trạng thể hiện đại diện, các
đảm bảo đại diện cao nhất đối với Quốc hội Việt Nam dựa trên khung lý
thuyết đã được hệ thống, xây dựng.
Năm là, xây dựng hệ thống quan điểm, đề xuất các giải pháp theo hướng
xây dựng Quốc hội thực quyền, là thiết chế hữu hiệu để hiện thực hóa quyền
lực Nhân dân.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN
CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1. Khái niệm và vai trò của Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam
2.1.1. Khái niệm Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân

Việt Nam
Đại diện hiểu theo nghĩa thông thường là việc người đại diện thông qua
hành vi của mình, nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập,
thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện. Cùng với đại diện dân sự, trong
đời sống xã hội còn ra đời khái niệm “đại diện chính trị”. Thuật ngữ này luôn


7

gắn với phạm trù “Nhân dân”, “quyền lực”, “dân chủ”; gắn với mối quan hệ
lợi ích của các cử tri trong đơn vị bầu cử và cử tri trên toàn quốc gia; nó đan
xen giữa “trách nhiệm” phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của cử tri hay bao gồm
cả những tư duy, lập luận, nhận định riêng của người đại diện khi thực hiện
nhiệm vụ. Do vậy, đại diện chính trị là đại diện cho ý chí và quyền lợi của cử tri
trên cơ sở hoạt động thực tiễn của đại biểu dân cử.
Đại diện của Quốc hội là đại diện chính trị, hay nói cách khác, Quốc
hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam. Tính cao nhất được
quy định bởi chính cách thức hình thành, tổ chức và hoạt động của Quốc hội
khác với các thiết chế khác của BMNN. Một là, Quốc hội là tổ chức duy nhất
do Nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
bỏ phiếu kín. Hai là, thành phần của Quốc hội bao gồm đại biểu ưu tú, đại
diện cho nhiều giai cấp, ngành nghề, vùng miền, dân tộc, tôn giáo. Ba là,
Quốc hội là tổ chức duy nhất được Nhân dân trao quyền lập hiến, lập pháp,
giám sát tối cao và quyết định những vấn đề cơ bản của đất nước. Bốn là,
Quốc hội chịu trách nhiệm trước Nhân dân về hoạt động của mình và có thể
bị bãi nhiệm, miễn nhiệm bởi chủ thể đó.
Do vậy, Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân là cơ quan
duy nhất thay mặt cho cử tri cả nước đã bầu ra mình để thực thi quyền lực
nhà nước của Nhân dân, làm cho tiếng nói, quan điểm, nguyện vọng và lợi
ích của Nhân dân được thể hiện thông qua hoạt động lập pháp, quyết định

những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động
của nhà nước.
Đại diện cao nhất của Quốc hội là một thuộc tính xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của Quốc hội, chi phối cơ cấu tổ chức cũng như các phương thức hoạt
động của Quốc hội. Đại diện cao nhất của Quốc hội có mối quan hệ tương hỗ
với quyền lực cao nhất của Quốc hội. Vì là cơ quan đại diện cao nhất, trực tiếp
tiếp nhận quyền lực từ cử tri cả nước nên tạo ra tính quyền lực nhà nước cao
nhất. Ngược lại, vì hiến định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội
phải thể hiện bản chất là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, hoạt động và
tồn sinh vì mục đích bảo vệ lợi ích của Nhân dân
2.1.2. Vai trò của Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân
Quốc hội là chế định gắn bó chặt chẽ với Nhân dân, do Nhân dân sáng
lập. Với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất trong BMNN, Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong tập
hợp, thống nhất ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; trao đổi, thảo luận và đi đến
thống nhất các vấn đề quan trọng của đất nước; xây dựng hệ thống pháp luật;
thực hiện quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc. Từ lập luận này, luận án chỉ ra
các vai trò của Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân như sau:


8

Thứ nhất, Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân đóng vai
trò cầu nối giữa nhà nước và Nhân dân. Vừa đại diện cho Nhân dân, vừa tổ
chức tập hợp Nhân dân thực hành và rèn luyện năng lực làm chủ đất nước.
Thứ hai, Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân đóng vai
trò là thiết chế kiến tạo nên nhà nước dân chủ và pháp quyền.
Thứ ba, với tư cách cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, Quốc hội
đóng vai trò tạo lập hành lang pháp lý, hoạch định phát triển quốc gia, thiết
kế bộ máy nhà nước, giáo dục và định hướng dân chủ trong xã hội.

2.2. Các hình thức thể hiện Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân và các đảm bảo để Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân
2.2.1. Các hình thức thể hiện Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân
Các hình thức thể hiện Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân
dân được hiểu là các phương thức tồn tại và phát triển của Quốc hội, đảm bảo
cho Quốc hội giữ vững bản chất là cơ quan đại diện cao nhất trong BMNN.
Hay nói một cách khác, đó là các phương thức hoạt động nhằm phản ánh,
truyền đạt quan điểm, mong muốn của cử tri và thể hiện chúng ở cơ quan lập
pháp qua các hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất
nước và giám sát tối cao.
Là một tổ chức hoạt động theo cơ chế tập thể, kỳ họp, phiên họp là
hình thức hoạt động cơ bản, phản ánh đúng tính chất đại diện của cơ quan
dân cử này. Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội và thể hiện rõ
nét nhất tính đại diện Nhân dân. Chính tại diễn đàn chính trị của cả nước này,
các ĐBQH thực hiện quyền lực mà Nhân dân trao trong việc xem xét, thảo luận
và thông qua các luật, quyết định các vấn đề cơ bản và thực hiện quyền giám
sát. Đối với các phiên họp của ủy ban, có thể coi đây là công xưởng của Quốc
hội, đảm bảo tính chuyên môn hóa của Quốc hội, là nơi chuẩn bị các quyết
nghị, là cầu nối giữa các đại biểu với các chuyên gia và xã hội dân sự.
Vì vậy, tác giả luận án đã nghiên cứu và chỉ ra ba hình thức thể hiện đại
diện cao nhất của Quốc hội sau đây:
Một là, hình thức thể hiện đại diện cao nhất qua phiên họp thảo luận
lập pháp của Quốc hội;
Hai là, hình thức thể hiện đại diện cao nhất trong hoạt động quyết
định, phê chuẩn các vấn đề quan trọng của Quốc hội;
Ba là, hình thức thể hiện đại diện cao nhất trong hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội.
2.2.2. Các đảm bảo để Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của

Nhân dân


9

Các đảm bảo để Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân
được hiểu là môi trường, các điều kiện cần phải có, phải duy trì để Quốc hội
ra đời, tồn tại và hoạt động đúng với tư cách, chức năng của một cơ quan đại
diện cao nhất trong tổ chức BMNN. Đó là sự ổn định chính trị, an ninh quốc
gia thông qua đường lối lãnh đạo tiến bộ của Đảng cầm quyền; là đời sống
dân sinh, dân trí của Nhân dân được nâng cao, các giá trị dân chủ được mở
rộng qua vai trò quản lý của nhà nước; là các thiết chế (bầu cử, tổ chức
BMNN) đảm bảo tính đại diện trong cơ cấu, thành phần của Quốc hội cũng
như trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội; là các điều kiện vật chất, bộ
máy giúp việc giúp cho Quốc hội thực thi tốt nhiệm vụ của mình. Theo đó,
luận án trình bày các đảm bảo sau đây:
Một là, đảng chính trị với đường lối lãnh đạo dân chủ, khoa học, hợp
lòng dân … tạo lập sự ổn định chính trị trong cả nước;
Hai là, NNPQ với phương thức hoạt động, điều hành dân chủ, minh
bạch, đảm bảo bảo quyền công dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội;
Ba là, thể chế bầu cử dân chủ, đảm bảo các ĐBQH được bầu là tự do ý chí
của cử tri, là đại diện hợp pháp cho lợi ích của cử tri bầu ra và cử tri cả nước;
Bốn là, thể chế tổ chức và hoạt động của Quốc hội đảm bảo Quốc hội hoạt
động thực quyền, hiệu quả, phát huy trí tuệ tập thể đồng thời đề cao vai trò sáng
tạo, tính chịu trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, của ĐBQH.
2.3. Quốc hội - cơ quan đại diện của Nhân dân ở các nước và
những bài học kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện cơ quan đại diện
cao nhất của Nhân dân Việt Nam
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt trong tiếp nhận quyền lực từ Nhân

dân và trong tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước của Quốc hội, luận án
khảo sát Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện nhân dân tại hai nhóm
quốc gia: các nước có thiết lập hệ thống cơ quan đại diện vận hành bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc phân quyền (Anh, Pháp, Mỹ…) và các nước theo
mô hình XHCN theo nguyên tắc tập quyền (Liên Xô với mô hình Xô-viết tối
cao, Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba). Từ đó đi đến bài học kinh nghiệm
trong xây dựng và hoàn thiện cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam:
Về lý luận, sự ra đời và tồn tại, phát triển của phương thức trao quyền,
nhận quyền qua thiết chế Quốc hội - cơ quan đại diện của Nhân dân là một
tất yếu của tiến trình lịch sử trong việc hiện thực hóa quyền lực Nhân dân.
Cần có cái nhìn biện chứng về sự đổi mới mô hình, tổ chức Quốc hội cho
phù hợp với xu thế chung của thời đại cũng như đảm bảo sự ổn định chính trị
và hiệu quả kinh tế tại mỗi nước trong đó có Việt Nam.


10

Về thực tiễn, cần tiếp tục nghiên cứu những ưu việt của mô hình lưỡng
viện trong đảm bảo tính đại diện; trong phân công, phối hợp và giới hạn
quyền lập pháp để bảo vệ chủ quyền Nhân dân cũng như xây dựng Chính
phủ năng động; trong xác định các điều kiện đảm bảo để Quốc hội thực sự là
thiết chế thực quyền… từ đó xây dựng mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa
Quốc hội với Nhân nhân để thiết chế ấy thực quyền và bảo vệ tốt nhất quyền
lợi của Nhân dân.
Chương 3
THỰC TRẠNG QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT
CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
3.1. Sự hình thành và phát triển thiết chế Quốc hội - cơ quan đại
diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam qua các bản Hiến pháp
3.1.1. Từ Quốc dân đại hội Tân Trào đến Quốc hội khóa I và Hiến

pháp 1946
Tháng 8 năm 1945, tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang), chủ tịch
Hồ Chí Minh và tổng bộ Việt minh đã khai mạc Đại hội Đại biểu quốc dân
(Quốc dân đại hội Tân trào). Với sự hiện diện của đa dạng thành phần đại
diện vùng miền, đưa ra những quyết sách quan trọng đến vận mệnh toàn dân;
Quốc dân đại hội Tân Trào đã đặt những viên gạch nền móng đầu tiên cho
việc xây dựng thiết chế Quốc hội Việt Nam sau này.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, để đảm bảo và hiện thực hóa quyền làm chủ của Nhân dân, giữ
vững chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã xúc tiến
thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, xây dựng Hiến pháp và tổ chức bộ
máy nhà nước chính thức, hợp hiến. Hiến pháp 1946 là sự kết hợp giữa mô
hình hiến pháp tư sản tự do truyền thống với mô hình hiến pháp XHCN
truyền thống nên thiết chế Nghị viện nhân dân lúc này được thiết kế trên tinh
thần đảm bảo tự do dân chủ, chống quyền lực chuyên chế bằng việc xác lập
những giới hạn pháp lý đối với quyền lực nhà nước. Quyền lực của Nghị viện
có giới hạn và Nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Tuy
nhiên do chiến tranh lan rộng, Quốc hội khóa I đã biểu quyết chưa ban
hành Hiến pháp bằng một sắc lệnh và chưa thi hành Hiến pháp ngay. Việc
tổ chức và hoạt động của BMNN lúc này, trong đó có Quốc hội được vận
hành trên các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp 1946. Chính phủ cũng
được giao nhiệm vụ dựa trên tinh thần này để ban hành các đạo luật đó là:
đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; đảm


11

bảo các quyền lợi dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của Nhân dân.
3.1.2. Quốc hội trong mô hình Hiến pháp xã hội chủ nghĩa (1959-1992)

Từ năm 1960 trở đi, Hiến pháp Việt Nam được xây dựng theo mô hình
Hiến pháp XHCN, được quan niệm là phương thức tổ chức chính quyền của
giai cấp công nhân, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước. Vì vậy,
quyền lực nhà nước là không cần giới hạn mà là một công cụ quản lý xã hội
cần có sức mạnh, cần được tăng cường. Chế định Nghị viện nhân dân được
đổi tên thành Quốc hội, được hiến định là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất nhằm tập trung quyền lực vào Quốc hội.
Xét về vai trò, vị trí của Quốc hội trong BMNN, đây là giai đoạn Quốc
hội có “siêu quyền lực”. Quyền lực Quốc hội dường như cao hơn chủ quyền
Nhân dân khi Hiến pháp không còn phân định quyền lập hiến, quyền phúc
quyết sửa đổi Hiến pháp thuộc về Nhân dân mà giao riêng cho Quốc hội. Quốc
hội trở thành cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, có quyền sửa đổi
Hiến pháp, thậm chí “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền
hạn khác khi xét thấy cần thiết” (Điều 82, 83, Hiến pháp 1980).
3.1.3. Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 - những bước phát triển mới
về nhận thức và hiện thực hóa quyền lực Nhân dân
So với quan niệm của mô hình hiến pháp XHCN truyền thống, Hiến
pháp 1992 có sự thay đổi trong quan niệm về hiến pháp và quyền lực nhà
nước. Sự thừa nhận tại Điều 2 (lần sửa đổi năm 2001) có nghĩa chấp nhận đặt
quyền lực nhà nước dưới trị thống trị của quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất, nhưng có giới hạn và bảo vệ
quyền lực tối cao của Nhân dân. Đến lần sửa đổi năm 2013, Hiến pháp không
quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành Hiến pháp và luật.
Quốc hội chỉ là chủ thể “thực hiện” quyền lập hiến, quyền lập pháp. Hiến pháp
đã trở thành phương tiện để Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho nhà nước.
Điều 69 đã khẳng định địa vị pháp lý của Quốc hội là cơ quan đại diện cao
nhất, song không phải là cơ quan quyền lực duy nhất được tiếp nhận quyền
lực Nhân dân. Các quyền hành pháp, tư pháp cũng là bộ phận của quyền lực
Nhân dân, không phải thứ quyền phái sinh từ quyền lập pháp của Quốc hội.
Kỹ thuật lập pháp tiên tiến đã giúp Hiến pháp khoanh vùng, giới hạn, phân

định nhiệm vụ rõ ràng hơn tại Điều 70. Điều này vừa đảm bảo chủ quyền
Nhân dân, vừa xác lập địa vị của Quốc hội trong tư cách là cơ quan đại diện
cao nhất.


12

3.2. Thực trạng thể hiện Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam
Xuất phát từ bản chất đại diện, ĐBQH phải chịu trách nhiệm trước cử
tri, những người đã ủy quyền cho đại biểu quyết định. Cũng vì trách nhiệm,
bổn phận của đại biểu bắt nguồn từ tính đại diện nói trên, nên tiếp xúc, lắng
nghe, sàng lọc thông tin và hiện thực hóa các nhu cầu, nguyện vọng của
Nhân dân trên tất cả các hoạt động: lập pháp, quyết định vấn đề cơ bản và
giám sát tối cao của Quốc hội đối với BMNN là việc làm tất yếu của Quốc
hội mà cụ thể là của từng đại biểu trong suốt nhiệm kỳ của mình.
3.2.1. Thực trạng thể hiện đại diện thông qua hoạt động lập pháp
của Quốc hội
Trong những nhiệm kỳ gần đây, hoạt động lập pháp của Quốc hội có
nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu của
công cuộc phát triển đất nước, xây dựng NNPQ, hội nhập kinh tế quốc tế. Về
số lượng, các văn bản pháp được ban hành tăng nhanh, từ khóa IX trở lại đây
đạt tỷ lệ xấp xỉ 90 luật, pháp lệnh/nhiệm kỳ.
Về chất lượng các văn bản pháp luật đã có sự cải thiện đáng kể. Nội dung
các vấn đề được quy định trong các luật, bộ luật cơ bản khái quát các lĩnh vực cơ
bản của đời sống xã hội, tất cả tạo ra một thể chế dân chủ, bảo vệ và phát huy
quyền làm chủ, lợi ích của Nhân dân tốt nhất. Chương trình xây dựng, thông qua
luật ngày càng đổi mới theo hướng huy động trí tuệ của nhiều tầng lớp dân cư
trong xã hội, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết dân tộc. Quy trình, thủ tục lập
chương trình xây dựng pháp luật được chú trọng, đổi mới. Các nhóm chủ thể có

quyền gửi đề xuất xây dựng luật được mở rộng; vị trí, vai trò, tiếng nói của đại
biểu được hiến định và coi trọng, khuyến khích. Đối với quy trình thông qua luật,
giảm bớt thảo luận ở tổ và đoàn, tăng thời gian thảo luận tại các ủy ban đảm bảo
tính chuyên sâu, tập trung vào những vấn đề có tính nội dung, có tính quyết sách,
nhờ vậy dự thảo luật bám sát được yêu cầu của cuộc sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nói trên, việc thực thi đại diện trong
hoạt động lập pháp của Quốc hội vẫn còn những hạn chế như: i) còn có sự
thụ động, ỉ lại vào hành pháp trong soạn thảo dự thảo luật, pháp lệnh; ii) số
lượng ĐBQH kiêm nhiệm nhiều, bộ phận giúp việc còn hạn chế, việc thuê
khoán các chuyên gia chưa phổ biến, quan niệm đại biểu là một “nghề” cần
chuyên sâu đang hình thành nên ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi đại diện;
iii) chưa có quy chế gắn trách nhiệm từng đại biểu với hoạt động đại diện
trong suốt nhiệm kỳ của mình… điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả, chất lượng đại diện thông qua hoạt động lập pháp của Quốc hội.


13

3.2.2. Thực trạng thể hiện đại diện thông qua hoạt động quyết định
phê chuẩn những vấn đề quan trọng của Quốc hội
Trong những nhiệm kỳ gần đây, thực hiện quyền hiến định, tại các kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội đã tiến hành bầu nhân sự đứng đầu các cơ quan nhà
nước, phê chuẩn việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ, đảm bảo tính
liên tục và đổi mới trong BMNN; phê chuẩn ngân sách nhà nước một cách
đầy đủ và thực chất hơn so với các giai đoạn trước. Những vấn đề tài chính,
ngân sách được Quốc hội thảo luận công khai, có sự tư vấn, hỗ trợ chuyên
môn của các nhà nghiên cứu, hoạch định đã góp phần nâng cao chất lượng
hiệu quả của các quyết định của Quốc hội. Đối với lĩnh vực văn hóa - xã hội,
hàng loạt các vấn đề như tham nhũng, hối lộ; chất lượng giáo dục, y đức
được chất vấn, trao đổi, chỉ ra nguyên nhân, tìm kiếm phương án tháo gỡ.

Điều này đã đem đến cho cử tri sự tin tưởng vào các nhà đại diện của mình
cũng như yêu cầu các cơ quan quản lý vào cuộc, định hướng công luận trong
đấu tranh bảo vệ cái tốt, cái đẹp, lên án những hành vi đi ngược lại lợi ích
quốc gia dân tộc và chuẩn mực cuộc sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả đã đạt được nói trên, năng lực
quyết định của Quốc hội nói chung, của ĐBQH nói riêng vẫn còn những bất
cập. Đó là: i) một số vấn đề được thảo luận còn mang tính hình thức, Quốc
hội chưa thực hiện đầy đủ quyền quyết định, phân bổ ngân sách như Hiến
pháp quy định; ii) cơ chế phối hợp giữa Quốc hội, Chính phủ còn có những
bất cập giữa chủ thể quyết định và chủ thể thực thi, trong nhiều trường hợp,
vai trò, vị trí của Quốc hội chưa được tôn trọng, đề cao; iii) năng lực đại biểu,
ý thức trách nhiệm của ĐBQH còn có những hạn chế cần có cơ chế tháo gỡ
tránh tâm lý e dè, thụ động hoặc ngại ngần “va chạm”… Những điều này
khiến hoạt động thực thi đại diện trong quyết định các vấn đề quan trọng
của Quốc hội sẽ có những hạn chế, xâm phạm nguyên tắc chủ quyền cao
nhất của Nhân dân thông qua cơ chế đại diện của mình.
3.2.3. Thực trạng thể hiện đại diện thông qua hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội
Trong những nhiệm kỳ gần đây, Quốc hội đã dành nhiều thời gian và
đổi mới nội dung, phương thức giám sát để nâng cao hiệu quả hoạt động. Về
nội dung giám sát: hàng năm Quốc hội thông qua nghị quyết về chương trình
hoạt động giám sát của Quốc hội, tập trung vào các vấn đề bức xúc của thực
tiễn, bao quát các lĩnh vực. Hoạt động giám sát theo chuyên đề với nội dung
giám sát chuyên sâu đã giúp cho việc hoạch định những chính sách tầm vĩ
mô và quyết định những vấn đề quan trọng trong từng lĩnh vực cụ thể sát với
thực tiễn, với yêu cầu của đời sống cử tri. Sau mỗi kỳ họp, trên cơ sở kết quả
giám sát, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về nội dung và kết quả giám sát,


14


đưa ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể. Đây là cơ sở pháp lý để Quốc hội theo
dõi, kiểm tra và ràng buộc những đối tượng bị giám sát và các cơ quan liên
quan phải thực hiện.
Về các phương thức giám sát: giám sát của Quốc hội chủ yếu diễn ra
tại kỳ họp, phiên họp của các Ủy ban thông qua xem xét báo cáo, chất vấn,
giải trình. Đối với kế hoạch giám sát chuyên đề, tùy đối tượng, nội dung, thời
gian giám sát mà tiến hành tổ chức các đoàn giám sát, tiếp xúc cử tri cho phù
hợp, hiệu quả. Ngoài ra, để thực hiện chức năng giám sát của mình, Quốc hội
còn có thể yêu cầu chủ thể (theo quy định pháp luật) báo cáo, cung cấp tài
liệu, cử thành viên đến xem xét xác minh khi có yêu cầu; tiến hành tiếp xúc
cử tri; tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, yêu cầu các cơ quan hữu quan giải
quyết và giám sát việc giải quyết. Các hoạt động này chính là quá trình
ĐBQH thực thi đại diện Nhân dân trong giám sát hoạt động của BMNN.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Quốc hội
cũng còn một số những vướng mắc từ quy định pháp lý, năng lực giám sát
của đại biểu và việc sử dụng các công cụ để thực hiện quyền giám sát với
một đối tượng luật quy định khá rộng, nhiều khi chồng lấn với đối tượng
giám sát của HĐND, của Thanh tra… Một số quy trình, thủ tục như chất vấn,
giải trình cần tiếp tục hoàn thiện tạo sự thống nhất trong điều hành và thực
thi đại diện cao nhất của Quốc hội. Có như vậy, thực thi đại diện thông qua
hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội mới mang ý nghĩa thiết thực, tránh
hình thức, đảm bảo tính thực quyền.
3.3. Thực trạng các đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam
3.3.1. Thực trạng lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc
đảm bảo tính đại diện của Quốc hội
Ở Việt Nam, ĐCS vừa là Đảng cầm quyền, vừa là Đảng lãnh đạo nhà
nước và toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, đặc biệt là đối
với Quốc hội đóng một vai trò rất quan trọng. Đó là sự lãnh đạo đối với một

thiết chế tạo lập nền tảng chính trị - pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của
nhà nước và xã hội, điều này được thể hiện qua các nội dung:
Một là, Đảng đưa ra chủ trương, đường lối trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là lãnh đạo hoạt động lập pháp thông qua
quy trình làm luật của Quốc hội. Nghị quyết của Đảng trong những nhiệm kỳ
gần đây đều định hướng hoạt động lập pháp phải sát với yêu cầu, đòi hỏi của
thực tiễn, phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp ...
Hai là, bên cạnh các nghị quyết định hướng chung hoạt động lập pháp,
Đảng còn có các nghị quyết chuyên đề về Hiến pháp và các đạo luật cơ bản


15

từ đó quyết định đến chương trình xây dựng pháp luật ngắn hạn, dài hạn, đến
thứ tự ưu tiên trong mỗi chương trình xây dựng mà Đảng đề ra.
Ba là, thông qua kỷ luật Đảng, qua vai trò tiên phong của các đảng
viên, đặc biệt các đảng viên giữ các cương vị chủ chốt trong BMNN, trong
Đảng đoàn Quốc hội, Đảng tạo ra sự thống nhất giữa tư duy và hành động, sự
phối kết hợp, tương hỗ giữa các thành viên trong hệ thống chính trị, đảm bảo
nguyên tắc, Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Tuy nhiên, còn một số tồn tại của thực trạng này đó là: i) Nguyên tắc
và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội hiện nay trong nhiều
trường hợp đã hạn chế vai trò vị thế của cơ quan đại diện cao nhất của Nhân
dân. Không có giới hạn trong luật về tổ chức Đảng, có thể dẫn đến cách hiểu
Bộ Chính trị, Ban Bí thư như là cấp trên của Quốc hội, mọi hoạt động của
Quốc hội cần có sự báo cáo, thẩm duyệt. ii) Thiếu cơ chế thống nhất xử lý
những trường hợp chưa đồng thuận giữa quyết định của Quốc hội và lãnh
đạo của Bộ Chính trị đối với Đảng đoàn Quốc hội.
3.3.2. Thực trạng phát huy dân chủ và tăng cường pháp quyền trong

việc đảm bảo tính đại diện cao nhất của Quốc hội
Trải qua gần 70 năm hình thành và phát triển, BMNN Việt Nam từng
bước được hoàn thiện, đổi mới, thể hiện được quan điểm của Đảng về xây
dựng nhà nước, đồng thời phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân. Dưới góc
độ nghiên cứu là một trong các điều kiện đảm bảo tính đại diện của Quốc
hội, NNPQ đã đem lại một diện mạo mới trong đời sống chính trị, dân chủ
thông qua một số phương diện sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật quốc gia đã được xây dựng đồng bộ, khoa
học, đảm bảo các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội được điều chỉnh bởi
pháp luật. Các luật về tổ chức và hoạt động của BMNN được rà soát, sửa đổi
đảm bảo vị trí, vai trò diện cao nhất của Quốc hội. Có thể nói, NNPQ đã đem
đến một phương thức tổ chức BMNN và quản lý xã hội khoa học, minh bạch
dân chủ, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong xã hội.
Thứ hai, bộ máy NNPQ được tổ chức và vận hành trên cơ sở nguyên
tắc tập trung dân chủ. Người dân được hiện thực hóa quyền lực của mình
thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Vai trò, vị thế của
Quốc hội được nâng cao và đảm bảo thực quyền. Các điều kiện đảm bảo cho
Quốc hội được tăng cường để tổ chức và hoạt động hiệu quả nhất; đại biểu và
cử tri được tạo các điều kiện giữ mối quan hệ thường xuyên. Quốc hội trở
thành diễn đàn chính trị không chỉ phát huy dân chủ mà còn giúp người dân
hiểu được vị trí của mình cũng như các giá trị xã hội mà công dân phải có.
Thứ ba, với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, NNPQ có trách
nhiệm tạo điều kiện để Nhân dân rèn luyện, thực hành quyền làm chủ của


16

mình. Nhờ đó, có ý thức và niềm tin vào thể chế chính trị, người dân chủ
động tích cực tham gia sinh hoạt chính trị như: tham gia lựa chọn và bầu cử
ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp; tham gia giám sát, phản biện xã hội, trưng

cầu dân ý... Một xã hội thực sự dân chủ chỉ có được khi kết hợp giữa thể chế
dân chủ và những con người đủ năng lực thực hành dân chủ.
Thứ tư, xây dựng và vận hành một nền tư pháp dân chủ bao gồm các cơ
quan xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật với chế độ tố tụng minh bạch. Tòa
án nhân dân (TAND) thực hiện theo đúng hai cấp xét xử. VKSND (Viện kiểm
sát nhân dân) được tổ chức và hoạt động theo hướng tập trung làm tốt chức
năng công tố nhà nước, kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc tổ chức thi hành án
được kiện toàn một bước, đảm bảo trình tự tố tụng và quy trình cải tạo, giam
giữ. Hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp được hoàn thiện, thúc đẩy quá trình xã
hội hóa trong nhiều lĩnh vực như thi hành án dân sự, luật sư, công chứng, giám
định tư pháp, … đây thực sự là những điều kiện hỗ trợ bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong nhà nước dân chủ. Trong nhà nước dân chủ và pháp
quyền, các thiết chế và tổ chức tự quản làng xã, dòng tộc, cộng đồng, phường
hội (xã hội công dân) đóng vai trò quan trọng trong quá trình tham gia quản
lý xã hội, bảo vệ lợi ích của các thành viên trong tổ chức mình. Xã hội công
dân (XHCD) ở Việt Nam thể hiện vai trò của mình qua hàng loạt các hoạt
động như tác động đến việc ra các quyết định chính sách, pháp luật của nhà
nước, tham gia tư vấn và giám sát chính sách, tuyên truyền pháp luật cung
cấp các dịch vụ công, tạo sự cạnh tranh với cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp công lập trên cơ sở chuyên môn hóa sâu và sát sao với thực tế đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, thực hiện bảo trợ xã hội cho các hội viên, góp
phần mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu như
bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo, phòng chống bệnh tật, giảm
nhẹ thiên tai.
Như vậy cùng với NNPQ, XHCD là những điều kiện đảm bảo vai trò vị
thế chủ thể Nhân dân trong đời sống chính trị. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đã làm được, hoạt động của NNPQ, các tổ chức XHCD còn có những bất
cập từ cơ chế pháp lý, nhân lực, vật lực. Cụ thể như: Một là, hiện nay nhà
nước chưa có đủ các cơ chế để cá nhân, tổ chức thực hiện các quyền công

dân trên thực tế như quyền bãi nhiệm ĐBQH, quyền biểu quyết khi nhà nước
tổ chức trưng cầu ý dân. Hai là, do chưa xây dựng được cơ chế tự chủ về tài
chính, nhiều tổ chức XHCD phụ thuộc vào khả năng đảm bảo về kinh tế của
nhà nước, dẫn đến hoạt động không độc lập, chất lượng đời sống của các
thành viên chưa cao, không thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội của tổ
chức mình. Ba là, còn một bộ phận không nhỏ dân chúng trong xã hội chưa


17

nỗ lực, chủ động thực hiện quyền làm chủ của mình, thụ động, trông chờ vào
các chính sách của nhà nước trong xóa đói, giảm nghèo, tìm kiếm cơ hội việc
làm, xây dựng đời sống kinh tế mới. Việc thực hiện các quyền chính trị như
bầu cử, giám sát, đóng góp ý kiến vào các quyết sách của nhà nước còn thờ
ơ, chiếu lệ, không gắn kết quyền và nghĩa công dân. Bốn là, thiếu hệ thống
văn bản pháp luật đồng bộ quy định trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước với các tổ chức xã hội của XHCD trong đảm bảo, thực thi quyền lực
Nhân dân thông qua cơ quan đại diện.
3.3.3. Thực trạng bầu cử trong việc đảm bảo tính đại diện cao nhất
của Quốc hội Việt Nam
Đối với thực trạng thực hiện quyền bầu cử và ứng cử: Ở góc độ lý
luận, những nguyên tắc bầu cử dân chủ, khoa học đã đem đến cho cử tri Việt
Nam sự công bằng, minh bạch trong việc thực hiện quyền chính trị thiêng
liêng. Đó cũng là các điều kiện đảm bảo cho Quốc hội Việt Nam được xây
dựng dựa trên tự do ý chí và hành động của mỗi cử tri trong việc ứng cử, đề
cử, lựa chọn ra các đại biểu đại diện cho lợi ích của mình mà không bị phân
biệt hay hạn chế bởi các rào cản như giới tính, ngành nghề, vùng miền, điều
kiện kinh tế. Ở góc độ thực tiễn, còn có những bất cập ảnh hưởng đến việc
đảm bảo tính đại diện của Quốc hội như: việc phân chia đơn vị bầu cử;
không được tự do lựa chọn đơn vị ứng cử; hay cách xác định kết quả trúng

cử trong một số trường hợp chưa đảm bảo tính đại diện cho đa số ý chí cử tri.
Về thực trạng tổ chức bầu cử trong việc đảm bảo tính đại diện cao nhất
của Quốc hội Việt Nam. Việc ứng cử, đề cử trong pháp luật bầu cử Việt Nam
còn thiếu tính tự do, cạnh tranh. Quy định hiệp thương là cần thiết song cách
thực hiện còn nặng tính hình thức. Ứng cử viên là đảng viên ĐCS Việt Nam
bị hạn chế quyền tự do ứng cử… do vậy, có khả dẫn đến áp đặt, thiếu dân
chủ trong bố trí nhân sự tham gia ứng cử. Về phân chia đơn vị bầu cử chưa
bình đẳng trong tỷ lệ đại diện giữa các địa phương, giữa các ứng cử viên
trung ương và địa phương. Tỷ lệ cạnh tranh trong một đơn vị bầu cử thấp,
việc tuyên truyền bầu cửcòn nặng tính hình thức, nội dung đơn điệu không
đủ sức lôi cuốn cử tri vào đợt sinh hoạt chính trị quan trọng của cả nước.
Đối với thực trạng xác định kết quả bầu cử, cách xác định hiện nay dẫn
đến trong nhiều trường hợp không đảm bảo người trúng cử là người thu được
quá bán sự ủng hộ của cử tri tại đơn vị bầu cử. Do đó, có khả năng họ không
phải là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri nơi đây. Bên cạnh
đó, trong trường hợp phải tiến hành bầu cử lại, nếu không đạt theo luật,
không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai (do vậy sẽ không có ĐBQH đại diện cho
đơn vị bầu cử này). Luật chưa đưa ra hướng giải quyết, do đó ảnh hưởng trực


18

tiếp đến tính chất đại diện của một nhóm cử tri của đơn vị bầu cử này tại
Quốc hội.
3.3.4. Thực trạng thể chế tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong
việc đảm bảo tính đại diện Nhân dân cao nhất
Về thực trạng thể chế mô hình tổ chức Quốc hội: xuất phát từ các điều
kiện chính trị, kinh tế - xã hội… Quốc hội Việt Nam được thiết kế theo mô
hình nhất viện. Đây là truyền thống từ lịch sử được duy trì từ khi thành lập
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều này vừa đảm bảo nguyên tắc

thống nhất quyền lực, vừa đảm bảo cho Quốc hội là nơi tập trung thống nhất
ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân và thực quyền; vừa tiết kiệm
chi phí và thời gian.
Về tổ chức của Quốc hội, hiện nay đã có những đổi mới, góp phần
quan trọng đảm bảo tính đại diện cao nhất của Nhân dân. Điều này được thể
hiện qua những nội dung như: i) Vị trí, vai trò của Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất ngày càng được khẳng định rõ; việc tổ chức các cuộc bầu cử
ĐBQH ngày càng phát huy dân chủ; chất lượng ĐBQH được nâng cao; thành
phần ĐBQH được điều chỉnh phù hợp, có sự cân đối giữa yêu cầu về cơ cấu
và chất lượng; nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phương thức
hoạt động của Quốc hội được ban hành hướng đến hiệu quả hoạt động trên
thực tế. Quốc hội đã không ngừng lớn mạnh về tổ chức hoạt động, triển khai
ngày càng đầy đủ và có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
ii) Từ Hiến pháp năm 1992, thẩm quyền của Quốc hội có sự quy định
rõ ràng, cụ thể. Lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001 và Hiến pháp năm
2013 đã xác định rõ hơn thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự
toán ngân sách và phân bổ ngân sách trung ương; quyết định chính sách tôn
giáo của nhà nước; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội
bầu và phê chuẩn; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế do Chủ tịch
nước trực tiếp ký.
iii) Mô hình tổ chức Quốc hội đã có những điều chỉnh quan trọng như
việc tái lập UBTVQH thay thế Hội đồng nhà nước theo Hiến pháp 1980, xác
định cụ thể thẩm quyền của Ủy ban này trong trường hợp Quốc hội không
họp thường xuyên; kiện toàn các Ban của Quốc hội; thành lập các cơ quan
trực thuộc đảm nhận các nhiệm vụ chuyên sâu như: Ban công tác đại biểu,
Ban công tác lập pháp, Ban dân nguyện và Viện nghiên cứu lập pháp.
Về thực trạng thể chế hoạt động của Quốc hội trong việc đảm bảo tính
đại diện Nhân dân cao nhất. Là cơ quan hoạt động tập thể, kỳ họp được xác
định là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội. Tại đây, Quốc hội thảo

luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của


19

pháp luật. Trong mỗi kỳ họp, để đạt sự đồng thuận và phát huy trí tuệ tập thể,
các hoạt động: làm luật, quyết định, giám sát đều được thực hiện thông qua
cơ chế: i) Thảo luận tập thể và quyết định tại hội trường; ii) Trong trường
hợp cần thiết, việc thảo luận lần đầu được tiến hành tại Hội đồng dân tộc, các
ủy ban của Quốc hội, các tổ ĐBQH, các đoàn ĐBQH rồi sau đó thảo luận,
biểu quyết tại phiên họp toàn thể. Nội dung các cuộc thảo luận được ghi âm,
ghi chép đầy đủ và tập hợp thành tư liệu đảm bảo tính chính xác, minh bạch.
Để đảm bảo hiệu lực của Quốc hội, các kết luận sau thảo luận, thống
nhất ý kiến được ban hành dưới hình thức nghị quyết của Quốc hội. Các
phương thức thực hiện quyền năng như: xem xét báo cáo công tác của
UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND tối cao; xem xét chất vấn và trả
lời chất vấn tại kỳ họp, giải trình … đều được luật pháp hóa tạo nên một thể
chế đồng bộ và hiệu quả cho Quốc hội hoạt động. Trong những trường hợp
cần thiết thẩm tra về một vấn đề nhất định, Quốc hội thành lập ủy ban lâm
thời để hoạt động. Đối với UBTVQH, thành lập các đoàn giám sát theo
chuyên đề hoặc bằng việc xem xét khiếu nại, tố cáo của công dân. Đối với
Hội đồng dân tộc và các ủy ban còn có thể thành lập các đoàn nghiên cứu,
khảo sát thực tiễn, thẩm tra các báo cáo công tác của Chính phủ, TAND tối
cao, VKSND tối cao theo sự phân công của UBTVQH.
Về thực trạng nguồn lực đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân. Để đảm bảo cho Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
Nhân dân thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, bộ máy tham mưu giúp việc và phục
vụ hành chính được xây dựng bao gồm: Văn phòng Quốc hội, Viện Nghiên
cứu lập pháp và Văn phòng Đoàn ĐBQH. Đây là tổ chức đóng vai trò quan
trọng trong trợ giúp quy trình, thủ tục và phục vụ hành chính. Đồng thời triển

khai nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của
Quốc hội; tổ chức thông tin khoa học để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH.
Đánh giá chung có thể thấy, trong những năm qua, thể chế tổ chức và
hoạt động của Quốc hội đã có sự bổ sung, hoàn thiện trong việc đảm bảo tính
đại diện Nhân dân cao nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức này.
Tuy nhiên, xét trên ba góc độ: thể chế mô hình tổ chức, thể chế hoạt động,
nguồn lực bảo đảm còn có những hạn chế nhất định trong bảo đảm tính đại
diện cao nhất của Quốc hội như: tổ chức bộ máy chưa đảm bảo tính chuyên
sâu của hoạt động lập pháp, một số hoạt động giám sát cao, quyết định các
vấn đề cơ bản còn mang tính hình thức, hệ thống cơ quan tham mưu, phục vụ
cho Quốc hội thực thi đại diện còn có những bất cập về tổ chức cũng như
chất lượng nhân sự phục vụ… Đây là những vấn đề cần nhìn nhận và giải
quyết đúng hướng nhằm đảm bảo Quốc hội có đủ các điều kiện cơ cấu, tổ
chức, nhân lực, vật lực thực hiện vai trò đại diện cao nhất của mình.


20

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUỐC HỘI - CƠ QUAN
ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
4.1. Quan điểm đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam
Để đảm bảo Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt
Nam, luận án xây dựng các quan điểm chỉ đạo tổ chức và hoàn thiện như sau:
Một là, đổi mới nhận thức về Quốc hội nói chung, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng nói riêng là đảm bảo hàng đầu để Quốc hội thực sự là cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam.
Hai là, hoàn thiện thể chế tổ chức và quy trình, thủ tục làm việc của

Quốc hội là đảm bảo quan trọng để Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam.
Ba là, xây dựng môi trường dân chủ và pháp quyền là đảm bảo không
thể thiếu để Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam.
4.2. Các giải pháp đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân
dân Việt Nam
Về thể chế tổ chức, cần tiếp tục quy định hơn sự phân công quyền hạn,
nhiệm vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, cụ thể: i) Quy định rõ mối quan hệ của các
cơ quan của Quốc hội và ĐBQH với các cơ quan nhà nước khác (Chính phủ,
TAND) trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. ii) Xác định rõ ràng
hơn phạm vi hoạt động, thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH
trong thực thi hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản, giám sát
tối cao. Phân định rõ hoạt động lập pháp (của Quốc hội), lập quy (của Chính
phủ) và những nội dung thuộc thẩm quyền tự quyết của Nhân dân thông qua
trưng cầu dân ý.
Về thể chế hoạt động, hoàn thiện các quy định về hình thức hoạt động
của Quốc hội, ĐBQH theo hướng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể, đề cao
trách nhiệm cá nhân đại biểu. Đại biểu và cử tri giữ mối liên hệ thường
xuyên, chặt chẽ với nhau thông qua kế hoạch công tác từng tháng của đại
biểu; qua đa dạng hóa các hình thức tiếp dân, tiếp xúc cử tri. Xây dựng các
phương thức tập hợp, vận động Nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các
trung tâm nghiên cứu khoa học cùng tham gia phản biện, đóng góp ý kiến để
các chính sách, pháp luật Quốc hội thông qua phản ánh sát ý chí, nguyện vọng


21


Nhân dân. Cần quy định rõ phạm vi đại diện, giới hạn ủy quyền của Nhân
dân với Quốc hội, xây dựng cơ chế kiểm soát bên trong, bên ngoài; cơ chế
bãi miễn từ phía cử tri đối với đại biểu của mình. Có như vậy mới đảm bảo
nguyên tắc quyền lực cao nhất thuộc về Nhân dân trên thực tế.
Về chế độ đãi ngộ, cần học tập kinh nghiệm của một số nước khi phân
loại chế độ đãi ngộ (lợi ích vật chất mà đại biểu thụ hưởng) giữa đại biểu
hoạt động tích cực và chưa tích cực thông qua kiểm tra, giám sát kế hoạch
hoạt động cụ thể cho từng đại biểu, các chiến lược hành động, lời hứa và
kiểm soát thực hiện lời hứa đối với cử tri. Với việc quy định mới trong Hiến
pháp về Hội đồng bầu cử, cần có luật hóa về tổ chức và hoạt động của Hội
đồng này theo hướng độc lập với lập pháp, hành pháp, tư pháp để đảm bảo
tính khách quan, dân chủ, minh bạch trong bầu cử, kiểm soát và tuyên truyền
giáo dục Nhân dân về bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND.
Xây dựng, cập nhật hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về tổ chức và hoạt động
của Quốc hội. Trong khuôn khổ pháp luật, cần có các quy định thông tin cá
nhân của ĐBQH và cập nhật khi có biến động; đặc biệt là vấn đề kê khai tài
sản để Nhân dân giám sát, qua đó củng cố uy tín đối với ĐBQH, tránh bị lợi
dụng, xuyên tạc thông tin làm ảnh hưởng uy tín.
4.2.2. Nhóm giải pháp đổi mới thể chế bầu cử đảm bảo cho cử tri bầu
ra được những đại biểu xứng đáng là người đại diện của Nhân dân
Thể chế bầu cử là một trong các điều kiện quan trọng đảm bảo Quốc
hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, xuất phát từ nhận thức này
luận án xây dựng các giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, phải đổi mới nhận thức về vấn đề bầu cử. Đây là cơ chế trao
quyền - nhận quyền để cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân được thành lập
dân chủ, hợp pháp; là quá trình thực hành và nâng cao trình độ dân chủ, ý thức
chính trị của Nhân dân, đồng thời là quá trình tương tác giữa cử tri và đại biểu
để phối hợp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ và lợi ích của mình.
Thứ hai, cần dân chủ hóa quá trình đề cử ứng cử viên để thu hút được

người tài tham gia vào cơ quan đại diện cao nhất. Luận án cũng kiến nghị
xây dựng quy chế trong tổ chức Đảng để các đảng viên được tham gia ý kiến
vào ngay từ giai đoạn lựa chọn nhân. Các tiêu chuẩn ứng cử phải rõ ràng, cụ
thể; các thông tin về cá nhân, tài sản của ứng cử viên được công khai và kiểm
định. Đối với ứng cử viên ngoài Đảng, cần có quy chế cụ thể bảo đảm quyền
tự ứng cử để lựa chọn và tìm kiếm những nhân tố tích cực nhất.
Thứ ba, xây dựng cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các ứng cử viên là
đảng viên và không phải đảng viên; giữa người tự ứng cử và người được đề
cử; giữa đại biểu trung ương và đại biểu địa phương. Tập trung vào các nội
dung sau: i) Khôi phục quy định ứng cử viên được lựa chọn nơi ứng cử hoặc


22

quy định bốc thăm đơn vị ứng cử,; ii) Quy định rõ trong pháp luật bầu cử các
tỷ lệ tối thiểu của một số cơ cấu: tỷ lệ đại biểu chuyên trách, đại biểu không
phải là đảng viên, tỷ lệ tự ứng cử; iii) Xây dựng hai mẫu phiếu bầu cử (có thể
quy định hai màu phiếu khác nhau cho cử tri dễ phân biệt, đồng thời tiện
giám sát việc bỏ phiếu của cử tri) cho đại diện của địa phương và đại diện
của ngành, khối các cơ quan trung ương; iv) Tăng tỷ lệ cạnh tranh khi bầu cử
bằng cách quy định các ĐBQH đương nhiệm đồng thời là ứng cử viên của
danh sách bầu cử khóa sau nếu có đủ điều kiện, có nguyện vọng tham gia
khóa mới; v) Áp dụng đơn vị bầu cử một đại diện, theo đa số hai vòng, đảm
bảo tỷ lệ đại diện trên số dân cư trong từng đơn vị bầu cử.
Thứ tư, tạo cơ chế cho người Việt Nam ở nước ngoài tham gia bầu cử
ĐBQH qua hai cách thành lập đơn vị bầu cử là xây dựng đơn vị bầu cử ở
nước ngoài và ghép các công dân ở nước ngoài vào các đơn vị bầu cử trong
nước. Trong điều kiện hiện nay, luận án kiến nghị chọn phương án thứ nhất.
Thứ năm, đổi mới phương thức vận động bầu cử và đa dạng hóa các
hình thức bỏ phiếu.

Thứ sáu, để đảm bảo đại biểu trúng cử là đại diện cho đa số ý chí và
hành vi bầu cử của cử tri, luận án kiến nghị phương pháp xác định kết quả
bầu cử bổ sung là: người phải đạt quá nửa số phiếu bầu cử (bao gồm phiếu
hợp lệ và không hợp lệ) và được nhiều phiếu hơn. Có như vậy đảm bảo
người trúng cử là người đạt sự ủng hộ của quá nửa số cử tri đi bỏ phiếu.
4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực đại diện của ĐBQH
Năng lực đại diện của ĐBQH là khả năng của mỗi đại biểu thực hiện
nhiệm vụ đại biểu của mình trong suốt nhiệm kỳ. Năng lực này phụ thuộc
vào hai yếu tố. Một là, hệ thống pháp lý trao cho người đại diện những quyền
năng, những trách nhiệm và họ được tạo những điều kiện vật chất nào để
thực thi nhiệm vụ. Hai là, khả năng tự họ thực hiện được nhiệm vụ một cách
tốt nhất trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh thực tế so với các chủ thể khác.
Vì vậy, để nâng cao năng lực đại diện của ĐBQH, cần thực hiện tương ứng
các giải pháp.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp luật về hệ thống quyền, nghĩa vụ của
ĐBQH để nâng cao vị thế và trách nhiệm, tập trung vào một số vấn đề: i)
Khôi phục quyền miễn trừ về lời nói và biểu quyết của ĐBQH tại nghị trường
như trong bản Hiến pháp 1946. ii) Xây dựng Bộ quy tắc ứng xử và đạo đức
nghề nghiệp của ĐBQH bao gồm: quy định tiêu chuẩn phẩm chất, trình độ của
ĐBQH; quy tắc ứng xử, giao tiếp, trang phục khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu
và quy tắc minh bạch về thu nhập, tài sản và phòng ngừa xung đột lợi ích.
Thứ hai, rèn luyện, củng cố các các kỹ năng đại biểu trong hoạt động
làm luật, quyết định các vấn đề cơ bản và giám sát tối cao.


23

Thứ ba, tăng cường số ĐBQH chuyên trách, xây dựng mối quan hệ
chặt chẽ với cử tri, theo dõi và cập nhật chương trình hành động của mỗi đại
biểu trong suốt nhiệm kỳ.

4.2.4. Nhóm giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để
đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân
Đối với ĐCS, để thực hiện được vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị nói
chung, đảm bảo tính đại diện Nhân dân của Quốc hội nói riêng cần phải đổi
mới phương thức lãnh đạo, thực hiện đúng vai trò dẫn dắt về mặt tư tưởng
thông qua cương lĩnh, đường lối chiến lược hành động, không lấn sân, làm
thay vai trò của Quốc hội. Vì vậy luận án trình bày các giải pháp cụ thể như:
Một là, phải xây dựng thiết chế về Đảng cầm quyền, tức là quá trình cụ
thể hóa Điều 4, Hiến pháp về vị trí, vai trò, phương thức, nhiệm vụ của tổ
chức Đảng và đảng viên.
Hai là, Đảng phải tự chỉnh đốn mình trong sạch về phẩm chất chính trị,
vững vàng về năng lực lãnh đạo, trình độ nghiệp vụ. Hoàn thiện hệ thống
kiểm tra của Đảng, hệ thống thanh tra của nhà nước, hệ thống giám sát, phản
biện của các tổ chức xã hội và Nhân dân. Có quy chế phối hợp giữa ba hệ
thống này tạo thành cơ chế kiểm soát bên trong và kiểm soát bên ngoài.
Ba là, phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức lãnh đạo của Đảng
trong việc bầu cử các ĐBQH, cần có tranh cử thực chất và mở rộng quyền
ứng cử cho Nhân dân.
Bốn là, trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN, quyền công dân, quyền
con người ngày càng được khẳng định, mở rộng và bảo đảm thực hiện thì vai
trò cầm quyền - lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng chỉ đạt hiệu quả cao
nhất khi Đảng “hóa thân” vào nhà nước, vào Quốc hội thông qua hoạt động
bầu cử và phê chuẩn của Quốc hội.


24

KẾT LUẬN
Nghiên cứu, khảo sát, kiến giải về lý luận và thực tiễn Quốc hội - cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam là nội dung chủ đạo xuyên

suốt luận án nhằm mục đích đưa ra các giải pháp hoàn thiện Quốc hội theo
hướng dân chủ và thực quyền. Quốc hội Việt Nam phải thực sự là cơ quan
đại diện cao nhất cho Nhân dân; là diễn đàn chính trị, nơi luận đàm và đi đến
thống nhất các vấn đề chung của quốc gia với các phương thức hoạt động
công khai, dân chủ, huy động, tập hợp được trí tuệ, tinh hoa trong xã hội.
Ở Việt Nam, tính đại diện cao nhất của Quốc hội không chỉ được xác
lập trong Hiến pháp và hệ thống các văn bản luật, mà gốc rễ được bắt nguồn
từ bản chất nhà nước, chế độ chính trị mà chúng ta đã lựa chọn ngay từ
những ngày đầu giành chính quyền của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nhân dân là chủ thể quyền lực tối cao, quyền lực ấy được trao cho Quốc hội
thông qua cơ chế đại diện để thực hiện các chức năng mà không một cơ
quan, tổ chức nào trong xã hội có được, đó là quyền lập hiến, lập pháp; quyết
định những vấn đề cơ bản và thực hiện quyền giám sát tối cao.
Qua khảo sát, phân tích, luận án bước đầu xác lập, hệ thống những đặc
điểm nhận diện tính đại diện cao nhất của Quốc hội, vai trò đại diện Quốc hội
cũng như các điều kiện đảm bảo đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam.
Từ đó đề xuất các giải pháp cả ở góc độ pháp lý, cả về hoạt động thực tiễn
nhằm đảm bảo Quốc hội trở thành cơ quan thực quyền, chuyển mạnh sang cơ
chế hoạt động thường xuyên, nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại trong
hoạt động của các cơ quan của Quốc hội.
Để phát huy vai trò đại diện của Quốc hội, cần tiến hành đồng bộ nhiều
nhóm giải pháp như hoàn thiện thể chế tổ chức và hoạt động của Quốc hội;
nâng cao năng lực đại diện của ĐBQH, đổi mới sự lãnh đạo của ĐCS để phát
huy tính đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam, nhưng quan trọng nhất là
nhóm giải pháp xây dựng thiết chế bầu cử dân chủ. Điều này sẽ giúp Nhân
dân chủ động tích cực tham gia ứng cử và bầu cử, lựa chọn chính xác những
đại biểu ưu tú nhất đại diện cho ý chí và lợi ích của mình.
Luận án cũng là một công trình nghiên cứu khoa học mở ra nhiều
hướng tư duy cho các nhà nghiên cứu, các học giả quan tâm tới những vấn
đề mới trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đặc biệt trong giai đoạn

chúng ta đẩy mạnh xây dựng NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân.



×