Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng về pháp luật đầu tư tại việt nam và giải pháp (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.89 KB, 32 trang )

Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

1. Tình hình đầu tư nước ngồi tại Việt Nam
1.1 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam
Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vào Việt Nam chiếm ¼ đầu tư xã
hội, các doanh nghiệp FDI cũng là động lực chính góp phần gia tăng xuất khẩu,
kiểm soát nhập siêu. Điều này cho thấy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn
là sách lược quan trọng với Việt Nam. Năm 2009 là đỉnh cao của đầu tư tại Việt
Nam. Theo một cơ quan thống kê nổi tiếng thế giới thì thời kì này chỉ số đầu tư
ở Việt Nam cao nhất trên thế giới. Hiện nay Nhật Bản giữ vị trí số 1 về đầu tư
tại Việt Nam.Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư FDI tại Việt Nam đang có xu hướng
suy giảm. Vậy nguyên nhân do đâu dẫn đến tình trạng trên? Cách đây 20 năm,
Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho đầu tư nước ngồi vì lao động rất rẻ, tài
nguyên nhiều và ưu đãi lớn, thậm chí chúng ta bỏ tiền ra để giải phóng mặt bằng
cho họ. Nhưng bây giờ những lợi thế đó dần mất đi và chúng ta phải thắt chặt
lại, chọn những dự án công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, ít ơ nhiễm mơi trường
hơn, khiến thu hút FDI trở nên khó khăn. Trong khi đó, hạ tầng của Việt Nam
khơng tốt, thủ tục hành chính chưa được cải thiện nhiều, dẫn đến môi trường của
chúng ta giảm xuống. Nhân công giá rẻ cũng khơng cịn là lợi thế nữa vì kinh tế
Việt Nam đã có tăng trưởng, thu nhập bình qn đầu người tăng lên nên mức
lương tối thiểu cũng tăng lên. Đây là điểm mà doanh nghiệp nước ngồi rất sợ.
Nhìn lại tình hình đầu tư tại Việt Nam trước và trong giai đoạn hiện nay có
thể thấy đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bên cạnh việc đạt được những thành
tựu nhất định cũng tồn tại nhiều điểm hạn chế.
 Mặt tích cực:
Thứ nhất, đầu tư nước ngồi (ĐTNN) góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước.
Đến hết tháng 12-2012, cả nước có 14.522 dự án ĐTNN cịn có hiệu lực
với tổng số vốn đăng ký 210,5 tỉ đơ la Mỹ, trong đó vốn thực hiện là 100,6 tỉ đô
la, chiếm 47% vốn đăng ký. Khu vực ĐTNN đóng góp 19% GDP cả nước (năm
2011), vốn ĐTNN chiếm 24,3% tổng vốn đầu tư tồn xã hội, doanh nghiệp


Nhóm 4 – K34E Kinh tế

1


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

ĐTNN đóng góp đến 65% giá trị xuất khẩu của cả nền kinh tế, tạo hơn 2 triệu
việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa... FDI đăng ký tăng trở lại trong năm 2012 và 8 tháng năm 2013 tăng
19,5%; FDI thực hiện 8 tháng 2013 tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả
63 tỉnh, thành phố của cả nước đều có vốn FDI, trong đó có 27 tỉnh, thành phố
có số vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD. Tác động của ĐTNN đối với tăng trưởng
kinh tế thể hiện rõ hơn thông qua:
- Bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội.
- Tỷ trọng khu vực ĐTNN trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000 – 2011 tăng
5,4%.
- Góp phần quan trọng vào xuất khẩu: Chủ trương khuyến khích ĐTNN
hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực
xuất khẩu, qua đó giúp chúng ta từng bước tham gia và cải thiện vị trí trong
chuỗi giá trị tồn cầu. Trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực ĐTNN chỉ đạt
45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này
bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở 10 thành nhân tố chính thúc đẩy
xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Bên cạnh
đó, ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm
tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo.
- Đóng góp vào nguồn thu ngân sách: Đóng góp của ĐTNN vào ngân sách
ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên 14,2 tỷ USD (2001 – 2010).
Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực ĐTNN (không kể dầu thô) là 3,7 tỷ USD,
chiếm 11,9% tổng thu ngân sách (18,7% tổng thu nội địa, trừ dầu thô).

Thứ hai, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hóa - điện đại hóa
Hiện nay, 58,4% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực cơng nghiệp – xây
dựng với trình độ cơng nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng công nghiệp - xây dựng của khu vực ĐTNN đạt bình quân gần 18%/năm,
cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực ĐTNN đã tạo ra gần
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

2


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

45% giá trị sản xuất cơng nghiệp, góp phần hình thành một số ngành cơng
nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện
tử, cơng nghệ thơng tin, thép, xi măng...
ĐTNN đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nơng nghiệp, đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nơng sản xuất khẩu và tiếp thu
một số cơng nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao
đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là
các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán
canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực ĐTNN đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng
cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm tốn,
tư vấn luật, vận tải biển, lơ-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo
ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động
thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Thứ ba, ĐTNN tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay
đổi cơ cấu lao động
Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 34 triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ngồi ra, ĐTNN đóng vai trị quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao
động, cập nhật kỹ năng cho bên cung ứng và bên mua hàng.
Thứ tư, ĐTNN là kênh chuyển giao cơng nghệ quan trọng, góp phần nâng
cao trình độ cơng nghệ của nền kinh tế.
Khu vực ĐTNN sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến
đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm 1993 đến nay, cả
nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký, trong
đó có 605 hợp đồng của DN ĐTNN, chiếm 63,6%.
Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp phần
thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực cơng
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

3


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

nghệ trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công nghiệp
chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một
số ngành đã thực hiện tốt chuyển giao cơng nghệ như dầu khí, điện tử, viễn
thơng, tin học, cơ khí chế tạo, ơ tơ, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn
thơng, dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất.
Nhìn chung, khu vực ĐTNN có tác động lan tỏa gián tiếp tới khu vực DN
sản xuất trong nước cùng ngành và DN dịch vụ trong nước khác ngành. Bên
cạnh đó, thơng qua mối quan hệ với DN ĐTNN, DN trong nước ứng dụng công
nghệ sản xuất tương tự để sản xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản phẩm/dịch
vụ khác để tránh cạnh tranh. Đồng thời có tác động tạo ra các ngành sản xuất,
dịch vụ khác trong nước để hỗ trợ cho hoạt động của các DN ĐTNN.
Thứ năm, ĐTNN có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp độ

quốc gia, DN và sản phẩm.
Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng
vững chắc trên các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ
tiêu về vốn, cơng nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào
và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực tham gia mạng sản xuất toàn cầu cho thấy
năng lực cạnh tranh của khu vực ĐTNN cao hơn so với khu vực trong nước.
Đồng thời, khu vực ĐTNN đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của
khu vực trong nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thơng qua thúc đẩy
năng suất, tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh tốn quốc tế, nâng cao
trình độ cơng nghệ, trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị DN,
tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về cơng tác
quản lý kinh tế và DN, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy q trình
hồn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, cơng khai, minh bạch,
phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp với
xu thế hội nhập.
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

4


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

Thứ bảy, ĐTNN đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế.
Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp
định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định đối tác kinh
tế (EPA) với Nhật Bản và nhiều nước.

 Mặt hạn chế:
Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngồi chưa cao.
Trong cơng nghiệp – xây dựng, các dự án đầu tư nước ngoài (ĐTNN) chủ
yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; có q ít dự án về cơ sở hạ tầng;
tỷ trọng dự án trong nông – lâm – ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần
trong khi đây là những ngành Việt Nam có thế mạnh.
Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mơ lớn cịn cao song nhiều
trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vay vốn trong nước.
ĐTNN vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo dục đào tạo,
y tế, chăm sóc sức khỏe, mơi trường… cịn hạn chế.
ĐTNN hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ
tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng miền,
không đạt được mục tiêu hướng ĐTNN vào địa bàn khó khăn. Các Khu kinh tế,
khu cơng nghiệp... khơng tạo ra lợi thế khác biệt cho từng địa phương và vùng
lãnh thổ.
Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là
doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện mới chỉ thu hút được trên 100
trong tổng số 500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn thực
hiện thấp so với vốn đăng ký, chỉ khoảng 47,2%.
Thứ hai, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn),
chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng.

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

5


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

Trên 80% doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ trung bình của thế giới,

5-6% sử dụng cơng nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp
sử dụng cơng nghệ lạc hậu.
Chuyển giao cơng nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều ngang – giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình độ và năng lực cơng
nghệ.
Khơng ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp,
yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị
lạc hậu gây ơ nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển
giao công nghệ.
Công nghệ thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu thực hiện
việc gia công, một số doanh nghiệp được coi là công nghệ cao nhưng những
khâu sử dụng công nghệ cao lại không thực hiện ở Việt Nam. Hệ quả là doanh
nghiệp Việt Nam tạo ra giá trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản xuất
toàn cầu.
Thứ ba, số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao động
chưa cao, tranh chấp và đình cơng có xu hướng gia tăng.
Từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy là 4.142 cuộc đình cơng, trong đó
75,4% (3.122 cuộc) của doanh nghiệp ĐTNN, chủ yếu xảy ra tại doanh nghiệp
của Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản; tập trung ở ngành gia công, sử
dụng nhiều lao động như dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất phát từ yêu cầu
về lợi ích của người lao động, nhất là vấn đề thỏa thuận mức tiền lương và điều
kiện lao động.
Tính riêng năm 2011, tỷ lệ việc làm mới do khu vực ĐTNN tạo ra chỉ
chiếm 3,4% trong tổng số lao động có việc làm. Thu nhập bình qn theo tháng
của người lao động trong DN FDI chỉ cao hơn khu vực doanh nghiệp tư nhân
trong nước nhưng thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, hiệu ứng lan tỏa của khu vực ĐTNN sang khu vực khác của nền
kinh tế cịn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn.
Nhóm 4 – K34E Kinh tế


6


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

Mặc dù doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ ĐTNN chủ yếu thông
qua tác động mở rộng thị trường, nhưng từ năm 2007 (Việt Nam chính thức
tham gia WTO) đến nay, doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước ở một số
lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, tình hình ĐTNN vào Việt Nam chưa đảm báo tính bền vững.
Tình trạng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN khiến một số dự án được cấp
phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát
triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu
tiền kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định
về môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu
vực.
Khơng ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dịng ĐTNN
tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường,
vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương khơng có cơ chế kiểm sốt về mơi
trường. Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài
nguyên.
Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an
ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khống sản, ni trồng
thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng
nhiều lao động phổ thơng nước ngồi.
Thứ sáu, hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.
Một số doanh nghiệp ĐTNN có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá
tinh vi như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền…),

giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ,
phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng
cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn … tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

7


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh
nghiệp trở thành 100% vốn nước ngồi.
1.2 Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
Đầu tư trực tiếp ra nước ngồi (ĐTTTRNN) là hoạt động phổ biến và có
q trình lịch sử trong quan hệ kinh tế quốc tế nhưng là hoạt động khá mới ở
Việt Nam những năm vừa qua. Đây là hoạt động có tiềm năng to lớn trong việc
giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tránh những hàng rào bảo hộ thương mại
của nước nhận đầu tư, giúp các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với khoa học
công nghệ cao, đồng thời học hỏi những ứng dụng trong cơng nghệ thơng tin, từ
đó nâng cao năng lực của mình. ĐTTTRNN đóng góp tích cực cho sự phát triển
kinh tế của Việt Nam, nâng vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội Đảng IX vào tháng 4 năm
2001 đã chính thức xác định chủ trương khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh
nghiệp và cá nhân Việt Nam ĐTTTRNN, với vai trò của Nhà nước là tạo ra
khn khổ pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động ĐTTTRNN để phát huy lợi
thế so sánh của đất nước. Những năm qua, làn sóng ĐTTTRNN của các doanh
nghiệp Việt Nam gia tăng mạnh mẽ, cả về số dự án và quy mô dự án, đa dạng về
địa bàn và lĩnh vực đầu tư. Tuy nhiên, cần có một cái nhìn tổng thể về hoạt động

đầu tư trực tiếp ra nước ngồi, đánh giá những kết quả tích cực đã đạt được và
những hạn chế cịn tồn đọng, từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề xuất các
giải pháp thúc đẩy hiệu quả hơn nữa loại hình đầu tư này.
Năm 1989, Việt Nam bắt đầu tiến hành hoạt động ĐTTTRNN với duy nhất
một dự án là dự án giữa đối tác Việt Nam và một đối tác của Nhật Bản với số
vốn đăng ký là 563.380 USD. Có thể nói đây là dự án có tính chất mở đường
cho hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam. Ngày 14/4/1999, Chính phủ ban hành
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP quy định về hoạt động ĐTTTRNN. Trong những
năm đầu, ĐTTTRNN chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, số dự án cấp mới cũng như số
vốn đăng ký không nhiều. Số lượng dự án và quy mô vốn ĐTTTRNN bắt đầu
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

8


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

tăng cao từ giai đoạn 2006 - 4/2012, sau khi Chính phủ ban hành các Nghị định
mới như Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 quy định về ĐTTTRNN,
Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 quy định về ĐTTTRNN trong
hoạt động dầu khí và Nghị định số 17/2009/NĐ-CP ngày 16/02/2009 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 121/2007/NĐ-CP. Tính
đến tháng 9/2012, Việt Nam có 720 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư ra 59 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam
đạt trên 14,616 tỷ USD (xem bảng 1).
Bảng 1: Vốn ĐTTTRNN của Việt Nam trong giai đoạn từ 1989 – 9/2012
Dự án (DA)
Giai đoạn

Số


Tỷ trọng

Vốn đăng ký (triệu
USD)
Tỷ trọng

Tổng số
DA
(%)
(%)
1989 – 1998
12
1,67
9,061
0,07
1999 – 2005
128
17,83
601,292
4,61
2006 – 9/2012
578
80,50
12.442
95,32
Tổng
718
100
13.052,36

100
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Quy mô
vốn/DA
(triệu USD)
0,76
4,70
21,53
18,19

Như vậy, có thể thấy, hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam được chia làm ba
giai đoạn sau đây:
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1989 – 1998: trong thời kỳ này hoạt động
ĐTTTRNN mới chỉ trong giai đoạn thăm dò, các nhà đầu tư của Việt Nam bắt
đầu xuất hiện xu hướng tìm kiếm cơ hội ĐTTTRNN. Số dự án cũng như vốn
đăng ký rất thấp, chỉ có 12 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 9,061 triệu USD,
quy mô đầu tư khoảng 0,76 triệu USD/dự án. Mỗi năm chỉ có một hai dự án
được cấp phép, thậm chí khơng có dự án đầu tư ra nước ngoài nào trong các năm
từ 1995– 1997.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1999 – 2005: giai đoạn này được đánh dấu bằng
sự ra đời của Nghị định 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy
định về ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với Nghị định này, một
số Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

9


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp


để thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam. Tổng số dự án
trong giai đoạn này đã lên tới 128 dự án (tại 30 quốc gia và vùng lãnh thổ) với
tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 601,292 triệu USD, gấp 10,67 lần về số dự án và
66,36 lần về tổng số vốn đăng ký so với giai đoạn 1989 – 1998, quy mơ vốn
bình qn là 4,70 triệu USD/dự án.
Giai đoạn thứ ba năm 2006 – 9/2012: trong giai đoạn này, Việt Nam có
578 dự án ĐTTTRNN với tổng số vốn đăng ký đạt 12.442 triệu USD, tăng 4,52
lần về số dự án và gấp 20,69 lần về vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn 1999 –
2005. Quy mơ vốn đầu tư bình quân đạt 21,53 triệu USD/dự án cao hơn rất
nhiều so với các thời kỳ trước. Các dự án ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn này cũng có những thay đổi theo hướng thuận lợi hơn.
Điểm đến cho ĐTTTRNN của Việt Nam không chỉ là các thị trường quen thuộc
như Lào, Campuchia, Nga mà còn mở sang cả những quốc gia vốn là các nhà
đầu tư lớn tại Việt Nam như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Singapore,
Australia, Châu Âu, Châu Mỹ Latinh… Phần lớn các doanh nghiệp, cá nhân sau
khi được cấp Giấy chứng nhận ĐTTTRNN đã triển khai thực hiện dự án, trong
đó nhiều dự án đã đi vào hoạt động và bắt đầu có hiệu quả, đặc biệt là các dự án
trồng cao su.
Qua việc điểm lại kết quả hoạt động ĐTTTRNN, có thể nhận định những
thành công đã đạt được là:
Thứ nhất, hành lang pháp lý quy định về hoạt động ĐTTTRNN ngày càng
được hoàn thiện và đầy đủ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư Việt Nam
tiến hành hoạt động ĐTTTRNN. Kể từ khi có Nghị định Chính phủ về
ĐTTTRNN năm 1999 đến nay, cơ chế đã 2 lần sửa đổi và hiện nay Nghị định
78/2006/NĐ- CP ngày 09/08/2006 của Chính phủ quy định về ĐTTTRNN cũng
đang được Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, tính đa dạng của hoạt động ĐTTTRNN thể hiện khá rõ nét, đa
dạng về thị trường, về ngành đầu tư, về quy mơ, hình thức đầu tư, về các thành
phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp tham gia đầu tư (xem bảng 2 và 3).

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

10


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

Bảng 2: ĐTTTRNN phân theo nước tiếp nhận đầu tư (tính tới 4/2012)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Nước tiếp nhận
Số dự án
TVĐT (triệu USD)
Lào
221
3.799,90
Campuchia
123
2.566,42

Mỹ
92
305,71
Singapore
46
86,863
Hàn Quốc
20
8,49
Liên bang Nga
16
1.709
Nhật Bản
16
3,52
Australia
11
108,18
Malaysia
10
469,28
Hồng Kông
9
12,70
57 nước khác
154
3.982,3
Tổng cộng
718
13.052,36

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư
Bảng 3: ĐTTTRNN phân theo ngành (tính tới tháng 4/2012)

STT

Ngành

Số dự án

1

Khai khống

94

2

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước và điều hịa
khơng khí

8

3

Nơng, lâm nghiệp, thủy sản

85

4


Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

3

5

Thơng tin và truyền thơng

40

6

Cơng nghiệp chế biến, chế tạo

124

7

Hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm

31

8

Hoạt động Kinh doanh bất động sản

29


9

Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa

129

10

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

25

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

Vốn đầu tư của nhà đầu tư
VN (USD)
5.196.971.678
2.076.249.133
1.854.579.075
1.124.500.000
1.037.688.098
517.316.482
467.830.900
191.215.419
196.475.876
112.598.487

11



Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

11

Vận tải kho bãi

14

12

Y tế và trợ giúp xã hội

4

13

Hoạt động chuyên môn, khoa học
và công nghệ

567

14

Xây dựng

25

15
16


Hoạt động Hành chính và dịch vụ
hỗ trợ
Cung cấp nước, hoạt động quản lý
và xử lý rác thải, nước thải

17
3

17

Dịch vụ Xúc tiến thương mại

1

18

Dịch vụ khác

9

19

Giáo dục và đào tạo

5

19.523.720
14.985.188
45.160.551
82.107.862

99.049.470
9.371.204
687.500
3.047.500
3.025.700

Tổng số
718
13.052.360.000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư
Thứ ba, các dự án ĐTTTRNN đã góp phần mang lại doanh thu ngoại tệ cho
đất nước và nâng cao vị thế hình ảnh của VN trên trường quốc tế. Tiêu biểu là
một số dự án đầu tư thành cơng ở nước ngồi trong lĩnh vực dầu khí, bưu chính
viễn thơng…
Thứ tư, hoạt động ĐTTTRNN đã hình thành một đội ngũ doanh nhân Việt
Nam có năng lực đàm phán trong đấu thầu quốc tế (ngành dầu khí, xây dựng),
trong liên doanh với nước ngoài để tổ chức thực hiện các dự án hợp tác đầu tư.
Thứ năm, hoạt động ĐTTTRNN đã đóng góp tích cực cho sự phát triển
kinh tế và an sinh xã hội cho địa bàn nước sở tại, tạo công ăn việc làm cho người
lao động địa phương làm việc cho dự án.
Bên cạnh những thành cơng nêu trên, hoạt động ĐTTTRNN cũng cịn bộc
lộ những hạn chế nhất định từ cả phía quản lý nhà nước cũng như phía các nhà
đầu tư.

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

12


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp


Về phía quản lý nhà nước: mặc dù có sự hồn thiện dần về hành lang pháp
lý đối với hoạt động ĐTTTRNN, tuy nhiên, thể chế chính sách chưa thực sự
hoàn chỉnh, thường đi chậm so với thực tế, do đó chưa phát huy tác động một
cách mạnh mẽ đến sự phát triển của hoạt động ĐTTTRNN.
Về phía nhà đầu tư: năng lực cạnh tranh của các nhà đầu tư Việt Nam nhìn
chung cịn yếu. Ngoại trừ một số doanh nghiệp thuộc Tập đồn Dầu khí, Tập
đồn Điện lực VN… đa số các doanh nghiệp ĐTTTRNN có tiềm năng khiêm
tốn vì vốn ít, khó tiếp cận nguồn vốn, trình độ quản lý cịn hạn chế, thiếu kinh
nghiệm hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, thương hiệu cơng ty,
thương hiệu sản phẩm, dịch vụ chưa có, do vậy gặp khó khăn trong cạnh tranh
với các nhà đầu tư đến từ các nước khác trong đấu thầu, thực hiện liên doanh,
liên kết với các đối tác ở nước tiếp nhận vốn đầu tư.
2. Thực trạng về pháp luật đầu tư và giải pháp
2.1 Thực trạng về pháp luật đầu tư
2.1.1 Những bất cập trong quy định pháp luật về đầu tư
 Thủ tục đầu tư (đăng ký đầu tư, thẩm tra đầu tư)
Điểm nổi bật của Luật Đầu tư 2005 là các quy định thơng thống về quy
trình, thủ tục thực hiện dự án đầu tư. Theo đó, Luật đã áp dụng phổ biến chế độ
đăng ký đầu tư; bãi bỏ hàng loạt các quy định mang tính chất xin - cho, kiểm
duyệt đối với nhà đầu tư; chuyển thủ tục quản lý hoạt động của dự án đầu tư từ
cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm...
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, một số quy định của Luật như:
Quy định đăng ký dự án đầu tư tại điều 45, 46 Luật đầu tư; các điều 42, 43 và 44
Nghị định 108/2006/NĐ-CP; Quy định về thẩm tra dự án đầu tư tại các điều 47
– 49 Luật đầu tư, các điều 37 đến 40, 45 đến 49 Nghị định 108/2006/NĐ-CP còn
tồn tại một số hạn chế chủ yếu sau:
Có sự trùng lặp giữa thủ tục đầu tư theo luật đầu tư và thủ tục về đất đai,
xây dựng cơng trình và bảo vệ mơi trường. Cụ thể, khi so sánh tiêu chí để giải


Nhóm 4 – K34E Kinh tế

13


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

quyết các thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng và mơi trường thì phát hiện là có
hàng loạt tiêu chí trùng nhau:
Một là, căn cứ cấp Giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) theo trình tự thẩm
tra dự án (Điều 48 Nghị định 108/2006/NĐ-CP) và căn cứ giao đất, cho thuê đất
(Điều 31 Luật Đất đai) đều có tiêu chí là: (i) Phù hợp quy hoạch sử dụng đất; (ii)
Phù hợp quy hoạch xây dựng; và (iii) Nhu cầu sử dụng đất.
Hai là, căn cứ thẩm tra cấp GCNĐT và thiết kế cơ sở của dự án đầu tư xây
dựng cơng trình đều có việc thẩm định sự phù hợp quy hoạch về xây dựng.
Ba là, căn cứ cấp GCNĐT và thiết kế cơ sở dự án đầu tư xây dựng cơng
trình đều quy định phải thẩm tra giải pháp về môi trường. Điều này rõ ràng là
trùng lặp và chồng chéo với thẩm tra Báo cáo Đánh giá tác động môi trường
hoặc Đăng ký cam kết bảo vệ môi trường được thực hiện theo quy định khá cụ
thể, chi tiết tại luật bảo vệ môi trường và quy định hướng dẫn thi hành.
 Hình thức đầu tư và phạm vi điều chỉnh
Hình thức đầu tư được phân thành: đầu tư trực tiếp xác định dưới 7 hình
thức theo (điều 21 Luật Đầu tư) và đầu tư gián tiếp được xác định dưới 3 hình
thức (điều 26 Luật Đầu tư)
Trong nhiều trường hợp không phân biệt được giữa các khái niệm này với
nhau, ví dụ “mua cổ phần, góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư” và
“mua cổ phần, trái phiếu, giấy tờ khác”,… Nhiều hình thức đầu tư ở đây khơng
rõ trình tự, thủ tục thực hiện, đặc biệt là hoạt động mua cổ phần, góp vốn nhưng
được phân vào loại “đầu tư gián tiếp”. Điều này gây rất nhiều rủi ro cho doanh
nghiệp và làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước.

Do phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư rộng, bao quát toàn bộ hoạt động
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đầu tư sử dụng vốn nhà nước và đầu tư
tư nhân, đầu tư ra nước ngoài… nên một số quy định của Luật còn chồng chéo
với quy định của các Luật khác. Ngay sau khi Luật Đầu tư và Nghị định
108/2006/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, một loạt các đạo luật chuyên ngành có
liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được ban hành và/hoặc sửa đổi
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

14


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

(như Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản,
Luật Chứng khoán...). Các luật này cùng điều chỉnh hoạt động đầu tư, nhưng lại
khơng có sự phân định rõ ràng với Luật Đầu tư về phạm vi, đối tượng áp dụng
nên việc thực thi đã khơng tránh khỏi trùng lặp, thậm chí xung đột với quy định
của Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP, đặc biệt là các vấn đề có liên
quan đến quy trình, thủ tục thực hiện dự án đầu tư.
 Nhà đầu tư nước ngồi
Trong luật đầu tư có sử dụng rất nhiều khái niệm khác nhau có liên quan
đến việc xác định nhà đầu tư, bao gồm: nhà đầu tư, nhà đầu tư nước ngồi,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế 100% vốn trong nước
hoặc nước ngoài, tổ chức kinh tế liên doanh, nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu
tư vào Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, các khái niệm này chưa
được xác định rõ ràng.
Điểm mấu chốt và còn nhiều tranh cãi liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài
là chưa xác định được một cách thống nhất “doanh nghiệp được thành lập ở Việt
Nam có sử hữu của tổ chức, cá nhân nước ngồi” thì có coi là nhà đầu tư nước
ngồi khơng? Nếu có thì với điều kiện gì?Nếu khơng coi doanh nghiệp được

thàn h lập ở Việt nam có sử hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài là nhà đầu tư
nước ngoài như kinh nghiệm một số nước thì có thể có nguy cơ bị “lách luật” để
kinh doanh trong ngành, nghề hạn chế đầu tư nước ngoài. Nếu coi họ là nhà đầu
tư nước ngồi thì sẽ phát sinh rất nhiều khó khăn mà không giải quyết được
Luật đầu tư sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để vấn đề xác định
doanh nghiệp được thành lập ở Việt Nam có sở hữu của tổ chức, cá nhân nước
ngồi có phải là nhà đầu tư nước ngồi khơng. Các quy định về ngành nghề kinh
doanh có điều kiện sẽ phải cụ thể hóa quy định này trong các trường hợp cụ thể.
 Tạm ngừng, dãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư
Điều 64 Luật đầu tư quy định trường hợp tạm ngừng thực hiện dự án.
Điều 67 Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định cả việc tạm ngừng và giãn
tiến độ thực hiện dự án
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

15


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

Những quy định của pháp luật về tạm ngừng, dãn tiến độ thực hiện dự án
đầu tư còn thiếu nhiều nội dung:
- Trình tự, thủ tục khơng rõ ràng; thiếu nhiều “bộ phận” như: hồ sơ, tiêu
chí, trình tự, thủ tục, kết quả của thủ tục.
- Thông báo về việc ngừng, hoặc giãn tiến độ thực hiện dự án khơng có u
cầu về nội dung, hình thức và khơng có mẫu
- Khơng rõ hình thức và hiệu lực của việc “cho phép” tạm ngừng hoặc giãn
tiến độ thực hiện dự án. Chưa phân biệt được việc tạm ngừng hoặc giãn tiến độ
thực hiện dự án do nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan; do đó,
chưa xác định được cách giải quyết tương ứng.
 Chấm dứt dự án đầu tư

Được quy định tại Điều 64 Khoản 2, Điều 65 và Điều 68 Khoản 2 Luật
Đầu tư. Xét về tính đầy đủ của thủ tục, các quy định của luật và nghị định về
chấm dứt dự án đầu tư thiếu các nội dung về:
- Điều kiện chấm dứt dự án đầu tư
- Hồ sơ thực hiện thủ tục
- Trình tự thủ tục chấm dứt dự án đầu tư
- Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt dự án đầu tư
Các quy định về chấm dứt dự án quá sơ sài nên thể hiện sự không rõ ràng,
cụ thể và sẽ khó thực hiện trên thực tế.
 Điều chỉnh, thay đổi dự án đầu tư
Các quy định của pháp luật về việc điều chỉnh, thay đổi dự án đầu tư thể
hiện sự chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng.
- Thiếu quy định về tiêu chí giải quyết sẽ tạo ra một sự tùy tiện rất lớn cho
quan nhà nước và tạo ra rủi ro rất lớn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh, đặc biệt là trong trường hợp phải thay đổi do yếu tố khách quan, bất khả
kháng. Đồng thời, thiếu tiêu chí giải quyết việc thay đổi có thể làm giảm hiệu
lực của luật hoặc làm cho luật khơng đạt được mục tiêu đề ra.

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

16


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

- Phạm vi áp dụng chưa thực sự rõ ràng, cụ thể, và dễ lấn sang phạm vi
điều chỉnh của thủ tục khác, ví dụ như việc giãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
- Luật chưa xác định được thay đổi nào là quan trọng và cần phải được sự
cho phép trước khi thay đổi; và thay đổi nào là công việc của doanh nghiệp hoặc
do thị trường quyết định mà doanh nghiệp chỉ cần thông báo sau khi thay đổi.

 Chuyển nhượng dự án
Các quy định liên quan về chuyển nhượng dự án tại Điều 17 Luật đầu tư &
Điều 66 Nghị định 108/2006/NĐ-CP có một số hạn chế sau:
- Không quy định về tiêu chí giải quyết thủ tục. Mặc dù luật có quy định
tiêu chí chuyển nhượng dự án trong trường hợp khơng gắn với chấm dứt hoạt
động của tổ chức kinh tế, nhưng quy định đó khơng rõ ràng, khơng cụ thể.
- Về hiệu lực của việc chuyển nhượng là không rõ sẽ cấp GCNĐT mới hay
là GCNĐT điều chỉnh.
- Các quy định của Luật đồng nhất thủ tục chuyển nhượng dự án với
chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp là
khơng chính xác. Các quy định của Luật thể hiện sự nhầm lẫn hoặc sự hiểu
không rõ ràng giữa chuyển nhượng dự án và chuyển nhượng vốn trong doanh
nghiệp, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp.
 Các lĩnh vực đầu tư có điều kiện và điều kiện đầu tư
Được quy định tại Điều 29 Khoản 1 Luật Đầu tư và Điều 23 Khoản 2 Nghị
định 108/2006/NĐ-CP
- Lĩnh vực đầu tư được quy định là quá chung chung và khơng rõ ràng.
Ngịai ra, khơng có quy định nào về điều kiện đầu tư tương ứng.
- Không rõ danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng chung cho mọi
nhà đầu tư hay chỉ áp dụng cho doanh nghiệp trong đó nhà đầu tư trong nước
chiếm dưới 51% vốn điều lệ.
- Khó khăn cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào ngành/phân ngành dịch vụ
“chưa cam kết” hoặc không được liệt kê trong biểu cam kết WTO do các quy
định liên quan chưa rõ.
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

17


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp


 Chế độ báo cáo của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
Tồn tại đồng thời của nhiều chế độ báo cáo đối với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
- Điều 17 Nghị định 113/2009/NĐ-CP quy định doanh nghiệp phải có
nghĩa vụ Báo cáo giám sát đánh giá dự án đầu tư/báo cáo tình hình thực hiện dự
án đầu tư (đặc biệt là quy định về chế độ báo cáo ở điều 17 nghị định này)
Thông tư 13/2010/TT-BKH & Quyết định số 77/2010/QĐ-TTg quy định
doanh nghiệp phải có nghĩa vụ Báo cáo thống kê doanh nghiệp.
2.1.2 Thực trạng áp dụng pháp luật đầu tư
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
 Thực trạng về thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư
Ngày 13/09/2013 tại TP Đà Nẵng, Bộ Tư pháp cùng Phịng Thương mại và
cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức buổi hội thảo “Giải pháp cải cách thủ
tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư”. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng
Cường cho rằng, bên cạnh những thành tựu cũng cần thẳng thắn nhận định rằng,
công tác cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) nói chung trong lĩnh
vực đầu tư kinh doanh nói riêng thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập;
TTHC cịn rườm rà, phức tạp, chi phí tn thủ còn lớn, gây cản trở cho hoạt
động đầu tư, kinh doanh không chỉ của các nhà đầu tư trong nước mà cịn với
các nhà đầu tư nước ngồi. Đồng quan điểm, Phó Chủ tịch VCCI - ơng Phạm
Gia Túc - cho rằng hiện còn nhiều TTHC rườm rà gây phiền hà và ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của doanh nghiệp. Chính vì thế, cải cách TTHC
trong thực hiện dự án đầu tư là cấp thiết, cần cải cách theo hướng xây dựng một
quy trình thủ tục thống nhất, cơng khai, minh bạch trên tồn quốc và cắt giảm
những thủ tục khơng cần thiết.
Phát biểu tại hội thảo, Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng - Võ Duy Khương
cho rằng, nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên là do nội dung hướng dẫn về
đầu tư quy định còn tản mạn trong nhiều văn bản của bộ ngành, đôi lúc còn chưa
thật sự rõ ràng, đồng bộ. Đặc biệt, hiện văn bản pháp luật về ngành nghề kinh

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

18


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

doanh chưa cập nhật đầy đủ các lĩnh vực doanh nghiệp có nhu cầu hoặc mới
phát sinh, một số ngành nghề chưa rõ ràng hoặc chưa tương thích các cam kết
với WTO, nhất là lĩnh vực dịch vụ cũng làm khó cho doanh nghiệp và địa
phương trong việc đăng ký kinh doanh. Ông Võ Duy Khương dẫn chứng nhiều
khi địa phương lên Bộ làm thủ tục cấp phép thì các bộ lại đùn đẩy nhau; hồ sơ
thủ tục hành chính khi đưa về bộ thì bị “ngâm” rất lâu, khơng hiểu vì lý do gì.
“Hồ sơ ngâm lâu chứng tỏ năng lực của cán bộ còn rất hạn chế”, ơng Khương
phát biểu.
Cịn ơng Đậu Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Phụ trách Ban Pháp chế VCCI
(Phó trưởng Ban Pháp chế - phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam) cho
biết kết quả điều tra khảo sát của VCCI cho thấy: 8.053 doanh nghiệp trong
nước đánh giá thủ tục gây khó khăn và phiền hà nhất là thuế, đất đai - tài nguyên
môi trường, đăng ký kinh doanh - cấp giấy chứng nhận đầu tư và xây dựng; và
1.540 doanh nghiệp FDI đánh giá các thủ tục phiền hà cũng tương tự nhưng có
thay thứ tự chút ít, đó là đăng ký kinh doanh - cấp giấy chứng nhận đầu tư, thuế,
xây dựng, đất đai - tài nguyên môi trường. Theo ơng Tuấn, đang có ít nhất 6
luật, 10 nghị định, 9 thông tư và 20 văn bản hướng dẫn liên quan tới thủ tục thực
hiện dự án đầu tư. Các văn bản này lại không giống nhau, hiểu theo cách nào
cũng được. Các TTHC chồng chéo, phức tạp và khơng thống nhất nên rất khó
thực hiện. Đó là chưa kể đến việc còn nhiều đầu mối, trùng lặp hồ sơ, quy trình
phức tạp… và thời gian giải quyết thì khơng tiên liệu được là phải mất bao nhiêu
ngày.
“Có nhiều thủ tục lớn rồi còn nhiều thủ tục con, cháu nữa... Có doanh

nghiệp từng than phiền với chúng tơi rằng họ phải xin tới 130 con dấu và phải
đút lót cho 8 nơi với số tiền 18 tỉ đồng để có đầy đủ các thủ tục đầu tư xây dựng.
Trên thực tế, để đảm bảo dự án được triển khai suôn sẻ, các nhà đầu tư phải nhờ
đến một “ông to” có chức, có quyền để bảo lãnh” - ơng Tuấn cho hay.
Bên cạnh đó mỗi địa phương đều có những văn bản quy định điều chỉnh
khác nhau, số lượng và trình tự thực hiện TTHC khác nhau cho cùng một vấn
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

19


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

đề. Sự chồng chéo thủ tục giữa các ban ngành gây ức chế đối với nhà đầu tư.
Hầu như khơng có cơ quan quản lý Nhà nước nào nắm toàn bộ hoạt động đầu tư
của dự án. Sự phối hợp, cơ chế chia sẻ thông tin giữa các ban ngành và nội bộ
các cơ quan nhà nước không thống nhất đã làm sức hút đầu tư FDI ở Việt Nam
kém cạnh tranh hơn nhiều quốc gia trong khu vực.
 Thực trạng trong triển khai thực hiện dự án đầu tư
Hiện nay, rất nhiều dự án đang phải đối mặt với một thực trạng buồn.
- Hàng loạt dự án bị “khai tử”
Năm 2008 được coi là thời kì "hồng kim" của FDI vào Việt Nam với 11
siêu dự án "tỉ đơ". Theo đó, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đăng kí tại Việt
Nam năm 2008 đã đạt con số kỉ lục, hơn 64 tỉ USD, gấp gần 3 lần năm 2007.
Thế nhưng nhiều siêu dự án được cấp phép ngày ấy lại có kết thúc "khơng có
hậu". Danh sách các dự án "tỉ đô" của năm 2008 bị rút giấy phép đầu tư liên tục
nối dài.
Tháng 9-2008, dự án Khu liên hiệp thép Cà Ná là liên doanh giữa Tập đồn
cơng nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) cùng Tập đoàn Lion (Malaysia) với
vốn đầu tư 9,8 tỉ USD được UBND tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận đầu

tư.
Dự án được khởi công từ tháng 11-2008 với mục tiêu là xây dựng tổ hợp
nhà máy thép có cơng suất 4,5 triệu tấn thép cuộn cán nóng một năm. Song
tháng 2-2011 UBND tỉnh Ninh Thuận đã phải thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư
dự án do chủ đầu tư khơng có năng lực tài chính, thiếu năng lực và kinh nghiệm
sản xuất trong lĩnh vực thép, thiếu quyết tâm trong triển khai dự án.
Dự án thứ hai bị “phá sản” là dự án Công viên phần mềm Thủ Thiêm, được
UBND TP.Hồ Chí Minh cấp phép ngày 11-6-2008, khởi cơng vào tháng 7-2008
với tổng vốn đầu tư 1,2 tỉ USD.
Đây là dự án liên doanh giữa Công ty cổ phần cơng nghệ viễn thơng Sài
Gịn với Cơng ty TA Assiociates International Pte.Ltd.(Singapore). Dự án từng
được xem là lớn nhất khu vực ASEAN và dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

20


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

2012. Nhưng tháng 11/2011, UBND TP Hồ Chí Minh đã quyết định thu hồi
Giấy chứng nhận đầu tư dự án do chủ đầu tư chậm triển khai, không trả tiền thuê
đất và chậm thanh toán các khoản lãi phát sinh.
Cũng được cấp phép năm 2008, dự án Khu cơng viên văn hóa thế giới kì
diệu của Cơng ty TNHH Good Choice USA - Việt Nam cùng chung số phận với
nhiều dự án “tỉ đô” khác. Dự án này do tập đoàn Good Choice (Hoa Kỳ) đầu tư
100% vốn tại Bà Rịa-Vũng Tàu với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 1,3 tỉ USD. Tháng 22012, sau 4 năm cấp phép, chủ đầu tư là Công ty TNHH Good Choice USA Việt Nam không triển khai được dự án, nên tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã thu hồi
Giấy chứng nhận đầu tư.
- Nhiều dự án chậm tiến độ
Chưa phải đối mặt với khả năng rút giấy phép đầu tư, song tiến độ thi công
các siêu dự án khác được cấp phép trong năm 2008 lại khá chậm chạp, có dự án

trong tình trạng “bất động”.
Dự án nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh và cảng nước sâu Sơn Dương,
có vốn đăng ký đầu tư 7,9 tỉ USD, do Tập đồn Formosa (Đài Loan) khởi cơng
từ tháng 7-2008 nhưng đến tháng 12-2012 mới chính thức thi cơng. Hồi cuối
năm 2012, Formosa đã quyết định tăng vốn đầu tư từ 7,9 tỉ USD lên 9,9 tỉ USD
và mới đây đang xin tăng vốn đầu tư lên 28,5 tỉ USD.
Với số vốn 9,9 tỉ USD, đây là dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất
trong số hơn 14.500 dự án đang còn hiệu lực tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo
UBND tỉnh Hà Tĩnh, tiến độ triển khai dự án vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.
Dự án Khu du lịch liên hợp cao cấp New City do Tập đoàn New City
(Brunei) đầu tư 4,3 tỉ USD tại Phú Yên vào năm 2008 cũng đang trong tình
trạng “rùa”. Theo kế hoạch, đến năm 2017 dự án trải rộng trên diện tích 565 ha
này phải cơ bản hoàn thành. Nhưng đến đầu tháng 3-2013 UBND tỉnh Phú Yên
mới phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án khu du lịch
liên hợp cao cấp này.

Nhóm 4 – K34E Kinh tế

21


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

Còn dự án khu du lịch phức hợp Hồ Tràm Strip do Tập đoàn Asian Coast
Development Limited (ACDL) đầu tư 4,23 tỉ USD tại Bà Rịa-Vũng Tàu đang
khá “mịt mờ” ngày ra mắt. Sau khi đối mặt với nguy cơ bị rút giấy phép do
chậm tiến độ vào năm 2010, hiện nay chủ đầu tư lại đang vướng phải “lùm
xùm” khác.
Tổng giám đốc Điều hành của ACDL thậm chí đã kiện chủ đầu tư dự án lên
tận tịa án Mỹ với lí do ơng bị ACDL rút hết quyền điều hành từ hồi tháng 4, chỉ

2 ngày sau khi ACDL chính thức được Chính phủ Việt Nam điều chỉnh Giấy
chứng nhận đầu tư, bao gồm cả việc cho phép Hồ Tràm Strip đưa hạng mục
casino vào hoạt động trước thời hạn so với Giấy chứng nhận đầu tư trước đây.
Cho tới thời điểm này, Hồ Tràm Strip vẫn chưa hoạt động theo như kế hoạch
ban đầu là vào đầu năm 2013.
Điểm lại “số phận” của các dự án “tỉ đô” được ào ạt cấp phép năm 2008 để
thấy rằng, số vốn đăng kí “khủng” của các dự án FDI khơng nói lên được nhiều
điều. Bài học thu hút FDI năm 2008 hy vọng sẽ được các địa phương và cơ quan
quản lí nhìn nhận trước bối cảnh năm 2013, nhiều dự án “tỉ đô” khác đang xếp
hàng vào Việt Nam.
Đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
 Trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN
Quản lý hoạt động ĐTTTRNN còn nhiều bất cập từ khâu quản lý tiền đầu
tư đến khâu hậu kiểm. Trong khâu quản lý việc triển khai thực hiện dự án
ĐTTTRNN cịn chưa có sự phân định rõ vai trò quản lý nhà nước của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ quản lý ngành, địa phương nơi nhà đầu tư đăng ký kinh
doanh hoặc thường trú. Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ báo cáo của các dự
án ĐTTTRNN cịn chưa đầy đủ, trong khi lại chưa có các chế tài xử lý việc nhà
đầu tư không thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo. Do đó, cơng tác quản lý các
dự án ĐTTTRNN cịn gặp nhiều khó khăn. Cơng tác xúc tiến ĐTTTRNN cũng
chưa thực hiện có hiệu quả do thiếu thơng tin về chính sách đầu tư của các thị
trường tiềm năng. Chưa tổ chức thường xuyên việc tổng kết, đánh giá hiệu quả
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

22


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

hoạt động ĐTTTRNN để rút bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý và đề

xuất những biện pháp thúc đẩy hơn nữa hoạt động ĐTTTRNN.
Đại diện của Chính phủ Việt Nam ở nước ngồi như Đại sứ quán, Lãnh sự
quán, tham tán thương mại và đầu tư chưa thực sự tham gia có hiệu quả trong
việc hỗ trợ xúc tiến các dự án ĐTTTRNN. Một số cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nhiều nước không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn thuận
lợi của nhà đầu tư, trong khi đó các nhà đầu tư cũng khơng chủ động gặp gỡ,
báo cáo tình hình hoạt động của dự án. Có thể nói, đây là nguyên nhân căn bản
làm cho các nhà đầu tư lâm vào tình cảnh lạc lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với
nhau khi giải quyết những khó khăn trong việc triển khai dự án tại nước sở tại.
Chiến lược tổng thể về ĐTTTRNN của Việt Nam vẫn chưa được xây dựng,
trừ ngành dầu khí đã có những kế hoạch dài hạn về ĐTTTRNN. Do vậy, Chính
phủ chưa có những biện pháp hỗ trợ cụ thể, thiết thực cho sự phát triển của hoạt
động ĐTTTRNN, hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu
mang tính tự phát của các nhà đầu tư.
Việc thu thập các thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài chưa được
coi trọng, đặc biệt cơng tác xúc tiến đầu tư ra nước ngồi chưa được quan tâm
đúng mức. Hiện nay, chưa cơ quan nào của Chính phủ Việt Nam được giao
nhiệm vụ thơng tin về môi trường đầu tư, cơ chế pháp lý, đặc điểm môi trường
đầu tư, và cơ hội đầu tư ở các nước. Kinh nghiệm một số nước như Nhật Bản,
chính phủ thành lập cơ quan chuyên trách về xúc tiến ĐTTTRNN (Jetro), hoặc
Hàn Quốc với cơ quan đại diện là Kotra để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước
tìm kiếm các cơ hội đầu tư ra nước ngoài. Sau khi cơ quan phi chính phủ, hiệp
hội các doanh nghiệp nhận được danh mục các cơ hội đầu tư ở nước ngồi, họ tổ
chức cho các doanh nghiệp đi tìm hiểu mơi trường đầu tư ở nước ngồi, cịn ở
Việt Nam mới chỉ tập trung thực hiện xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam, việc xúc tiến ĐTTTRNN còn chưa được chú trọng. Đây là một trong
những nguyên nhân căn bản khiến hoạt động ĐTTTRNN còn thiếu bài bản,

Nhóm 4 – K34E Kinh tế


23


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

thiếu nhạc trưởng, doanh nghiệp tự khai thác thông tin tốn kém và không đầy
đủ.
 Trong triển khai thực hiện dự án
Việc triển khai thực hiện dự án cịn chậm. Bên cạnh ngun nhân khó khăn
về thủ tục hành chính tại nước sở tại thì việc triển khai dự án đầu tư chậm cịn vì
ngun nhân là do chủ đầu tư thiếu vốn, tìm hiểu mơi trường đầu tư chưa kỹ
lưỡng, nên gặp nhiều khó khăn và chậm tiến độ trong triển khai thực hiện dự án
sau cấp phép.
Số lượng các ngân hàng trong nước vươn ra nước ngồi để lập doanh
nghiệp hoặc lập chi nhánh cịn q ít, hiện tại mới có Ngân hàng Đầu tư Phát
triển Việt Nam (BIDV), ngân hàng Sacombank… thực hiện hoạt động
ĐTTTRNN. Điều này cũng làm cho các nhà đầu tư của Việt Nam gặp khó khăn
trong tiếp cận nguồn vốn để triển khai dự án. Hơn nữa, việc ngân hàng Việt
Nam ĐTTTRNN ít cũng ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thanh tốn thương
mại quốc tế của Việt Nam.
Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam ĐTTTRNN cịn
lỏng lẻo. Các doanh nghiệp nước ngồi khi đầu tư vào Việt Nam thường liên
kết, hỗ trợ, chia sẻ thông tin với nhau qua việc thành lập các hiệp hội doanh
nhân, như Hiệp hội doanh nhân Ấn Độ, Nhật Bản, Đài Loan… Trong khi đó các
nhà đầu tư của VN hoạt động mang tính riêng lẻ, manh mún, khơng những
khơng liên kết, hỗ trợ nhau mà cịn cạnh tranh khơng lành mạnh, chụp giựt, gây
khó khăn cho nước sở tại. Chính bởi vậy, đã có giai đoạn chính phủ Lào đưa ra
điều kiện đầu tư áp dụng riêng đối với nhà đầu tư Việt Nam là, muốn đầu tư vào
nước họ, nhà đầu tư phải có Cơng thư giới thiệu của các cơ quan quản lý nhà
nước Việt Nam, nhằm mục đích tránh việc chồng chéo dự án.

Nhiều nhà đầu tư Việt Nam chưa nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo tình
hình thực hiện dự án, chưa thực hiện báo cáo định kỳ cho cơ quan Nhà nước
Việt Nam có thẩm quyền về quản lý hoạt động ĐTTTRNN, thậm chí có nhiều
trường hợp nhà đầu tư sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngồi
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

24


Thực trạng về pháp luật đầu tư tại Việt Nam và giải pháp

đã không triển khai thực hiện dự án, thay đổi chức năng kinh doanh hoặc địa chỉ
trụ sở, giải thể doanh nghiệp cũng khơng có báo cáo cho cơ quan cấp phép. Đây
cũng là căn nguyên khiến cơ quan quản lý nhà nước khơng nắm chắc được tình
hình hoạt động ĐTTTRNN để thường xuyên tổng kết đánh giá tình hình và đề
xuất với Chính phủ các giải pháp tháo gỡ khó khăn để phát triển hình thức đầu
tư này.
2.2 Giải pháp
2.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật
 Thủ tục đầu tư (đăng ký đầu tư, thẩm tra đầu tư)
Kiến nghị xem xét sửa đổi theo hướng:
- Thứ nhất, bãi bỏ các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký đầu tư, thẩm
tra đầu tư trong Luật đầu tư.
- Thứ hai, sửa đổi các quy định về giao đất, cho thuê đất các dự án đầu tư.
Theo đó, các quy định mới phải được xây dựng nhằm mục tiêu:
- Lựa chọn dự án đầu tư tốt nhất cho một diện tích đất được sử dụng. Nói
cách khác, đất đai phải được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, có lợi nhất cho
phát triển kinh tế, xã hội và dành cho dự án đầu tư tốt nhất.
- Đảm bảo sự theo dõi, giám sát có hiệu quả của cơ quan nhà nước đối với
việc triển khai dự án đầu tư đúng theo cam kết của nhà đầu tư, tránh tình trạng

“đầu cơ, chiếm dụng đất”.
- Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan đất đai, xây dựng và đầu tư trong
quá trình quyết định giao đất, cho thuê đất.
 Hình thức đầu tư và phạm vi điều chỉnh Luật Đầu tư
Kiến nghị nên xem xét:
- Bỏ các sự phân biệt giữa hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp như quy
định tại Luật đầu tư hiện nay. Hoạt động đầu tư cần xác định là hoạt động góp
vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp, cụ thể bao gồm các trường hợp sau:
+ Mua cổ phần/phần vốn góp thơng qua việc chuyển nhượng của cổ
đông/thành viên công ty đã được thành lập
Nhóm 4 – K34E Kinh tế

25


×