Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

thừa phát lại trong thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.5 KB, 42 trang )

Chủ đề: THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
CÁC NỘI DUNG CHÍNH:
* Phần mở đầu:
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Tình hình nghiên cứu
* Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề lý luận về Thừa phát lại
I. Khái quát về Thừa phát lại
1. Khái niệm xã hội hóa thi hành án dân sự và thừa phát lại
2. Đặc điểm
3. Quá trình hình thành và phát triển
II. Quy định về Thừa phát lại
1. Lập vi bằng
2. Tống đạt văn bản
3. Xác minh điều kiện thi hành án
4. Tổ chức thi hành án dân sự
Chương II: Thực trạng Thừa phát lại ở Việt Nam
1. Những tác động tích cực của chế định Thừa phát lại
2. Những hạn chế còn tồn tại
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị
* Kết luận

1


PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói
riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung. Bản án, quyết định của tòa án chỉ là
những phán quyết trên giấy nếu nó không được thực thi trên thực tế. Hoạt động thi
hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng có hiệu quả sẽ góp phần bảo đảm


tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, góp
phần củng cố bộ máy nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong thi
hành án dân sự quan hệ giữa các bên mang đậm tính dân sự, theo đó các bên có quyền
định đoạt, thỏa thuận để thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo phán quyết của tòa án,
nhà nước không cần thiết can thiệp trực tiếp hay thực hiện thay các bên trong quan hệ
đó.
Hiện nay nước ta đang trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế phát triển
mạnh mẽ, kéo theo tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp, làm nảy sinh nhiều
nhu cầu pháp lý. Từ những nhu cầu đó, việc xã hội hóa công tác thi hành án dân sự là
nhu cầu tất yếu trong đó việc thành lập thừa phát lại sẽ gọp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả thi hành án dân sự, giảm tải hoạt động của cơ quan nhà nước, bảo đảm
cho người dân được phục vụ tốt hơn. Nhu cầu này được hiện thực hóa thông qua Nghị
quyết số 48/2005/NQ-TƯ ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về “ Chiến lược xây dựng
2


và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020”, ngày 19/2/2009 Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã kí Quyết định số
224/QĐ-TTg “ Phê duyệt đề án thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại Thành
phố Hồ Chí Minh”, cùng với nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính
Phủ “Về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ
Chí Minh”, Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 “ Sửa đổi, bổ sung tên gọi
và một số điều của nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Chính
Phủ về tổ chức hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện thí điểm
chế định Thừa phát lại. Ngày 26/11/2015 Quốc hội ban hành Nghị quyết số 107/2015
về chế định thừa phát lại, theo Nghị quyết này Quốc hội “Giao Chính phủ căn cứ tình
hình thực tế ở địa phương tổ chức thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi
hành nghề theo quy định hiện hành, có sự sửa đổi, bổ sung cần thiết để khắc phục
những tồn tại, hạn chế trong hoạt động Thừa phát lại và chịu trách nhiệm tổ chức đào

tạo nghề Thừa phát lại.
Các tổ chức Thừa phát lại được thành lập theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị
quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội tiếp tục hoạt động theo quy định của Nghị
quyết này cho đến khi Quốc hội ban hành Luật Thừa phát lại.” Như vậy, sau Nghị
quyết số 107/2015 Thừa phát lại đã chính thức được triển khai.
Hoạt động thừa phát lại là một hoạt động trong THÁDS được thí điểm tại Thành phố
Hồ Chí Minh vào năm 2009 và được nhân rộng ra các tỉnh thành phố trực thuộc
Trung ương từ cuối năm 2013 đến năm 2015 được nhân rộng ra 12 tỉnh thành nhìn
3


chung có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của xã hội và được đánh giá là khá thành
công. Thông qua hoạt động thừa phát lại người dân có thể chủ động hơn trong các
hoạt động dân sự, tố tụng dân sự, hành chính, giúp cho người dân có sự lựa chọn
trong hoạt động THÁDS , hạn chế tiêu cực và tính độc quyền của hoạt động này.
Dưới góc độ xã hội, hoạt động thừa phát lại đã hỗ trợ tích cực hoạt động tư pháp:
giảm bớt áp lực, tình trạng quá tải, tiêu cực, đồng thời làm tăng tính minh bạch, khách
quan. Tuy nhiên, quá trình hoạt động thừa phát lại đã bộc lộ ra nhiều hạn chế. Dù đã
tồn tại nhiều năm ở nước ta và tồn tại ở cả chế độ cũ nhưng phần lớn người dân chưa
biết, chưa rõ về mô hình dịch vụ trong lĩnh vực hành chính tư pháp này, số lượng vụ
việc thi hành án do thừa phát lại thực hiện có hiện quả chưa cao. Ngoài ra, cơ chế hiện
hành nói chung và các quy đinh pháp luật về thừa phát lại còn nhiều bất cập; sự phối
hợp giữa các tổ chức hành nghề thừa phát lại và các cơ quan hữu quan còn thiếu chặt
chẽ. Trên cơ sở thực tiễn đó nhóm đã chọn chủ đề tài “ Thừa phát lại trong thi hành án
dân sự” làm đề tài cho bài thuyết trình.
II. Tình hình nghiên cứu:
Do Thừa phát lại là chế định mới, lần đầu tiên được thực hiện thí điểm nên để
chế định này có thể lan tỏa sâu rộng, được người dân và chính quyền các cấp biết,
hiểu, đồng thuận ủng hộ thì công tác thông tin, tuyên truyền là mấu chốt. Chính vì
vậy, các công trình nghiên cứu về thừa phát lại trong thi hành án dân sự ở nước ta hiện

nay chủ yếu xuất hiện dưới hình thức các đề tài về cải cách tư pháp,đề tài nghiên cứu
khoa học, luận văn và xuất hiện trong tham luận của các phiên họp, các buổi hội
thảo…….
Trong thời gian qua thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, xã hội hóa một số
nội dung cải cách tư pháp trong đó có hoạt động thi hành án, Đảng ta đã ban hành
nhiều văn kiện quan trọng như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
4


Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong giai đoạn tới. Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đặc biệt, thực hiện
nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp Trung ương ban hành Kế hoạch 05 – KH/CCTP ngày 22/2/2006. trong đó nêu
rõ: Nghiên cứu mô hình tổ chức Thừa phát lại, trước mắt thí điểm tại Tp.Hồ Chí
Minh… Ban cán sự Đảng Bộ tư pháp chủ trì phối hợp cùng Ban cán sự Đảng Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thành ủy Tp.Hồ Chí Minh thực hiện.
Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan
đến thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, Quốc hội ban hành Nghị quyết số
24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự trong đó có nội dung giao cho
Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm thừa phát lại tại một số địa phương.
Ngày 19/2/2009 Thủ tướng chính phủ đã kí quyết định số 224/QĐ-TT phê
duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Tp.Hồ Chí Minh”.
Ngày 24/7/2009 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức
và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Tp.Hồ Chí Minh.
Ngày 30/9/2009 Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư 03/2009/TT-BTP về hướng
dẫn thực hiện một số công việc của Thừa phát lại. Đồng thời, Bộ Tư pháp phôi hợp
cùng Bộ Tài Chính và Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số
12/2010/TTLT- BTP- BTC-TANDTC ngày 24/6/2010 về hướng dẫn một số điều của
Nghị định số 61/2009/NĐ-CP liên quan đến chi phí thực hiện công việc của Thừa phát

lại và chế độ tài chính đối với văn phòng thừa phát lại.
Bên cạnh đó, trước và sau khi thực hiện thí điểm đã có một số những công trình
nghiên cứu về thừa phát lại tiêu biểu.
Cụ thể là:
-

Nguyễn Đức Chính (1998), Đề tài nghiên cứu cấp bộ: Cơ sở lý luận và thực
tiễn về chế định thừa phát lại

-

Nguyễn Đức Chính (2006),Tổ chức thừa phát lại- NXB tư pháp

5


-

Nguyễn Văn Nghĩa (2006) Chế định thừa phát: Lịch sử ra đời và đổi mới
theo tinh thần cải cách tư pháp– Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp.

-

Lê Xuân Hồng (2011) Từ nhu cầu xã hội đến chủ trương và kết quả bước
đầu thực hiện thí điểm thừa phát lại – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư
pháp.

-

TS. Nguyễn Công Bình (2012) Xu hướng xã hội hóa thi hành án dân sự từ

việc thí điểm hoạt động thừa phát lại tại Thành Phố Hồ Chí Minh– Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp.

-

ThS. Vũ Hoài Nam (2013) Tổ chức và hoạt động của thừa phát lại ở Việt
Nam hiện nay- NXB Tư Pháp

-

Luận văn Thạc sĩ luật học tác giả Phạm Phúc Thịnh đề tài: Thừa phát lại
trong thi hành án dân sự (2014)

Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những khía cạnh đa dạng từ khái quát
đến cụ thể, những điểm nhìn khác nhau về thừa phát lại.
PHẦN NỘI DUNG:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về Thừa phát lại
I.

Khái quát về Thừa phát lại

1. Khái niệm xã hội hóa thi hành án dân sự và thừa phát lại:
-

Xã hội hóa hoạt động tư pháp, trong đó có thi hành án dân sự là một chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện trong Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020. Vấn đề
xã hội hóa thi hành án được cụ thể hóa bằng việc tiến hành thí điểm mô hình Thừa
phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh.

-


“Thừa phát lại” là công lại làm việc theo triệu dụng của khách hàng khi có yêu
cầu và theo đề nghị của Tòa án trong phạm vi trách nhiệm được pháp luật quy
định. Mục đích của công lại là nhằm phục vụ công lý, phục vụ tư pháp và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xã hội.

-

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia thì: “Thừa phát lại là người được
Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ,
lập vi bằng và một số công việc khác. Đây là một ngành nghề trong xã hội. Thừa
6


phát lại tương tự như chức mõ tòa (Người giữ việc báo tin và thi hành các quyết
định của tòa án trong xã hội cũ, có khi trông nom cả việc bán các động sản của
Nhà nước) và chấp hành viên”.
-

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày
18/10/2013 về Sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số
61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh thì: “Thừa
phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm
các công việc theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”.

-

Tiêu chuẩn bổ nhiệm Thừa phát lại ở Việt Nam theo Điều 10 Nghị định
61/2009/NĐ-CP:

"1. Là công dân Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt;
2. Không có tiền án;
3. Có bằng cử nhân luật;
4. Đã công tác trong ngành pháp luật trên 05 năm hoặc đã từng là Thẩm phấn,
Kiểm sát viên, Luật sư; Chấp hành viên, Công chứng viên, Điều tra viên từ Trung
cấp trở lên;
5. Có chứng chỉ hoàn thành lớp tập huấn về nghề Thừa phát lại do Bộ Tư pháp tổ
chức;
6. Không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sư và những công việc khác
theo

quy

định

của

pháp

luật."

Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Thừa phát lại trên cơ sở đề nghị của Giám đốc
Sở Tư pháp.
-

Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát lại, Tổ chức Văn
phòng Thừa phát lại gồm:
+ Trưởng văn phòng phải là Thừa phát lại, là người đại diện theo pháp luật của
Văn phòng Thừa phát lại.
Văn phòng Thừa phát lại do một Thừa phát lại thành lập được tổ chức và hoạt

động theo loại hình Doanh nghiệp tư nhân, trong trường hợp nhiều Thừa phát lại
cùng tham gia thành lập Văn phòng Thừa phát lại thì Thừa phát lại làm việc theo
loại hình Công ty hợp danh.

7


+ Thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại là nhân viên Văn phòng Thừa phát lại giúp Thừa
phát lại thực hiện các công việc nghiệp vụ pháp lý theo quy định. Thư ký nghiệp
vụ Thừa phát lại phải có các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 6,
Điều 10 của Nghị định 135/2013 và phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên.
+ Nhân viên kế toán;
+ Nhân viên hành chính khác.
Văn phòng Thừa phát lại có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ về tài chính. Con dấu Văn phòng Thừa phát lại không có hình
quốc huy và do Bộ Công an quy định.
-

Do là lĩnh vực hoạt động kinh doanh có điều kiện nên việc thành lập Văn phòng
Thừa phát lại phải tuân theo điều kiện rất chặt chẽ. Cụ thể Điều 18 Nghị định
61/2009 về Đăng ký hoạt động Văn phòng Thừa phát lại nêu rõ:
"1. Điều kiện để đăng ký hoạt động văn phòng Thừa phát lại:
a) Phải mở tài khoản và đăng ký mã số thuế;
b) Phải ký quỹ 100 triệu đồng cho mỗi Thừa phát lại hoặc có bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp. Việc ký quỹ được thực hiện tại tổ chức tín dụng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh;
c) Các tài liệu chứng minh điều kiện thành lập hoạt động của văn phòng Thừa phát
lại.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành lập,
văn phòng Thừa phát lại phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí

Minh.
Khi đăng ký hoạt động phải có đơn đăng ký hoạt động và giấy tờ chứng minh điều
kiện đăng ký hoạt động văn phòng Thừa phát lại quy định tại khoản 1 của Điều
này.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được các giấy tờ đăng ký hoạt
động, Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy đăng ký hoạt động của văn
phòng Thừa phát lại; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý
do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Văn phòng Thừa phát lại được hoạt động kể từ ngày Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí
Minh cấp giấy đăng ký hoạt động.

8


3. Khi thay đổi trụ sở, tên gọi hoặc danh sách Thừa phát lại văn phòng Thừa phát
lại phải có thông báo ngay bằng văn bản cho Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh
nơi đăng ký hoạt động. Trong trường hợp thay đổi trụ sở hoặc tên gọi, văn phòng
Thừa phát lại được cấp lại giấy đăng ký hoạt động.
4. Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày cấp giấy đăng ký hoạt động hoặc
cấp lại giấy đăng ký hoạt động do thay đổi trụ sở, tên gọi của văn phòng Thừa phát
lại, Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh phải thông báo bằng văn bản cho Cục thuế
thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan thống kê, Công an thành phố Hồ Chí Minh, Ủy
ban nhân dân cấp huyện tại thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.
5. Người thành lập văn phòng Thừa phát lại không được chuyển nhượng, cho thuê
lại văn phòng Thừa phát lại."
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định phải đăng báo nội dung đăng ký hoạt động của
văn phòng Thừa phát lại tại Điều 19.
2. Đặc điểm:
Thừa phát lại không phải là công chức tư pháp, không hưởng lương từ ngân sách


-

nhà nước, hoạt động không theo chế độ công vụ (điểm khác biệt so với công chức
tư pháp). Tuy được quy định ở những văn bản khác nhau với những tên gọi khác
nhau nhưng đều thể hiện địa vị của một công lại giống chức danh “Huisseir” (
tiếng Pháp, nghĩa là “người thuộc lại ở Tòa án sơ cấp hay Tòa án địa phương, giữ
việc phát tống các văn thu, chấp hành điều phán quyết của Tòa, hay là thu một vật
sản vv...) trong hệ thống tư pháp của Pháp được quy định trong Bộ Dân luật Pháp
năm 1804 và Bộ Dân sự tố tụng Pháp năm 1807.

3. Quá trình hình thành và phát triển:
-

Với tính chất công việc và nghề nghiệp thì những công lại dạng như chức danh
thừa phát lại đã tồn tại ở nước ta từ thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, chức danh
này thực sự thể hiện đầy đủ các đặc điểm như tên gọi của mình khi Thực dân
Pháp áp dụng nguyên mô hình Thừa phát lại của Cộng hòa Pháp ở nước ta và mô
hình này đã tồn tại suốt thời kỳ Pháp thuộc và dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn
đến ngày niềm Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975.
9


-

Ở Việt Nam trước đây, chế định thừa phát lại được quy định trong các văn bản
pháp luật : Bộ Dân sự tố tụng Việt Nam (1910), Bộ Dân luật Trung (1936-1939),
Bộ Hộ sự, Thương sự tố tung Trung (1942), Bộ Dân luật Bắc (1931), Bộ Dân sự
tố tụng Bắc (1917), Nghị định số 111 ngày 8/3/1949 của Chính quyền Bảo Đại,...


-

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên cơ sở sắc lệnh ngày 10/10/1945 của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc,
Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật chung thống nhất cho toàn
quốc, chế định Thừa phát lại được duy trì.
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm
đầu sau Cách mạng tháng Tám và tồn tại dưới hai hình thức là Thừa phát lại và
Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành nhưng việc thi hành đều thể
hiện quyền lực Nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước.
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 85/SL về “cải cách bộ máy
tư pháp và luật tố tụng”. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa
phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bởi Thẩm phán
huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp từ Chánh án. Tiếp đó, Luật tổ chức Tòa án nhân
dân 1960 đã xác định: “Tại các Tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp
hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản
xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự” (Điều 24),
đồng thời Luật cũng xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Chấp hành viên,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.

-

Ở miền Nam, chế định Thừa phát lại còn tồn tại dưới chế độ ngụy quyền Sài
Gòn cho tới năm 1975. Chế định này cũng được quy định trong Bộ luật Dân sự,
Thương sự tố tụng và Bộ luật Hình sự tố tụng của chính quyền Văn Thiệu năm
1972.

-

Sau năm 1945 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam, vì nhiều lý do khác

nhau mà Nhà nước ta không tiếp tục duy trì chế định Thừa phát lại.
Như vậy, chế định Thừa phát lại đã tồn tại ở Việt Nam thời gian trước đây và về
cơ bản, chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức hoạt động ở Việt Nam thời kỳ
này dập khuôn theo mô hình của Pháp: như một chế định bổ trợ tư pháp, hỗ trợ
công lý.
II.

Quy định về Thừa phát lại
10


Theo Điều 3 Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ thì Thừa
phát lại được quyền thực hiện các công việc sau:
-

Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

-

Tống đạt các văn bản theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự.

-

Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự.

-

Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của
đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án, quyết định thuộc
diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án


Và không được làm các công việc quy định tại Điều 6 Nghị định này:
-

Không được tiết lộ thông tin về việc thực hiện công việc của mình, trừ trường
hợp pháp luật cho phép.

-

Thừa phát lại không được đòi hỏi bất kỳ khoản lợi ích vật chất nào khác ngoài
chi phí đã được ghi nhận trong hợp đồng.

-

Trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, Thừa phát lại không được nhận làm
những việc liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người là người
thân thích của mình, bao gồm: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và
anh, chị, em ruột của Thừa phát lại, của vợ hoặc chồng của Thừa phát lại; cháu
ruột mà Thừa phát lại là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.

-

Các công việc bị cấm khác theo quy định của pháp luật.

1. Lập vi bằng:
-

"Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dừng
làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác" (Khoản 3 Điều 2

Nghị định 135/2013)
Vi bằng ghi nhận những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng
kiến; việc ghi nhận phải khách quan, trung thực. Thừa phát lại có quyền lập vi
bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường
hợp quy định tại Điều 6 của Nghị định 61/2009; các trường hợp vi phạm quy
định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại
11


Điều 38 của Bộ luật Dân sự; các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của
tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban
nhân dân các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Thừa
phát lại được lập vi bằng các sự kiện, hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại.
Vi bằng lập thành 03 bản chính: 01 bản giao người yêu cầu; 01 bản đăng ký và
lưu giữ tại Sở Tư pháp tỉnh, 01 bản lưu trữ tại Văn phòng Thừa phát lại theo
quy định của pháp luật về chế độ lưu trữ đối với văn bản công chứng. Vi bằng
được coi là hợp lệ khi được đăng ký tại Sở Tư pháp.
Vi bằng là một tài liệu bằng văn bản (giống như biên bản). Kèm theo vi bằng
có thể có hình ảnh, video, âm thanh. Trong tài liệu đó, Thừa phát lại sẽ mô tả,
ghi nhận lại hành vi, sự kiện lập vi bằng mà đích thân Thừa phát lại chứng kiến
một cách trung thực, khách quan. Vi bằng sẽ là bằng chứng vững chắc bảo vệ
bạn nhằm phòng tránh những rủi ro pháp lý. Nếu các bên có phát sinh tranh
chấp liên quan đến sự kiện, hành vi lập vi bằng thì tài liệu này có giá trị chứng
cứ trước Tòa án.
-

Đây là công việc đặc thù, truyền thống của thừa phát lại. Nhiều người cho rằng
đây là loại việc đơn giản nhất trong số những hoạt động của Thừa phát lại và có
thể nhanh chóng kết thúc, thu các chi phí thực hiện. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận 1

cách nghiêm túc thì việc lập vi bằng đòi hỏi Thừa phát lại phải có kiến thức
pháp luật, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp rất cao. Vì sao lại nói như thế? Bởi
vi bằng sẽ được dùng làm chứng cứ để Tòa án giải quyết tranh chấp, là căn cứ
để các bên thực hiện giao dịch. Tính trung thực, khách quan của vi bằng đòi hỏi
Thừa phát lại ngoài việc rèn luyện phẩm chất đạo đức nghê nghiệp thì còn phải
nắm vững kiến thức pháp luật và kỹ năng kinh nghiệm để thực hiện tốt công
việc của mình.
 Thừa phát lại sẽ giúp khách hàng lập vi bằng trong những trường hợp
sau:

-

Xác nhận hành vi giao nhận tiền, giao nhận tài sản; quá trình và kết quả việc
kiểm kê tài sản; tình trạng tài sản trước khi kết hôn, ly hôn, thừa kế; tình trạng
nhà, đất, tài sản khi mua, bán, cho thuê;
12


- Xác nhận tình trạng nhà liền kề trước khi xây dựng công trình; tình trạng nhà, tài
sản bị hư hỏng do hành vi của cá nhân, tổ chức khác; tình trạng nhà, đất bị lấn
chiếm, sử dụng không đúng mục đích;
- Xác nhận việc chiếm giữ nhà, trụ sở, tài sản khác trái pháp luật; xác nhận hành
vi bày bán hàng giả, hàng nhái tại cơ sở kinh doanh, thương mại; việc giao hàng
kém chất lượng, hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Xác nhận mức độ ô nhiễm; sự chậm trễ trong thi công công trình; tình trạng công
trình khi nghiệm thu;
- Xác nhận các hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực tin học, báo chí, phát thanh,
truyền hình như: đưa các thông tin không đúng sự thực; đưa thông tin khi chưa
được phép người có thẩm quyền; đưa tin vu khống;
- Xác nhận việc tổ chức cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông; cuộc họp của cơ

quan, tổ chức; cuộc họp gia đình;
- Xác nhận việc từ chối thực hiện công việc của cá nhân, tổ chức mà theo quy
định của pháp luật cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện;
- Xác nhận các giao dịch mà theo quy định của pháp luật không thuộc thẩm quyền
công chứng; những việc không thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
các cấp;
- Xác nhận các sự kiện pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
 Một số dạng vi bằng phổ biến được thừa phát lại lập:
-

Vi bằng ghi nhận việc giao nhận tiền, giấy tờ trong các giao dịch dân sự.

-

Vi bằng ghi nhận hiện trạng nhà đang sử dụng, hiện trạng quyền sử dụng đất.

-

Vi bằng ghi nhận các thỏa thuận về phân chia tài sản vợ chồng.

-

Vi bằng ghi nhận sự hiện diện hay vắng mặt của một người tại thời điểm giao
dịch.

-

Vi bằng xác nhận việc tổ chức cuộc họp của Đại hội cổ đông công ty cổ phần.
2. Tống đạt văn bản:


-

Tống đạt là việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa án và cơ quan thi
hành án dân sự do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật.

-

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án, văn phòng
Thừa phát lại có nhiệm vụ tống đạt các văn bản cho đương sự tham gia tố tụng,
13


cho người được thi hành án và người phải thi hành án, các cá nhân, cơ quan, tổ
chức liên quan nhằm đảm bảo cho họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật. Theo Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày
18/10/2013 của Chính phủ, Văn phòng Thừa phát lại được quyền thỏa thuận để
tống đạt văn bản của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự các cấp trên địa bàn
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Ngoài
ra, Thừa phát lại cũng có quyền thực hiện việc tống đạt các văn bản ngoài địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Thừa phát lại đặt Văn phòng .
-

Các văn bản Thừa phát lại tống đạt bao gồm: Giấy báo, giấy triệu tập, giấy
mời, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án, quyết định trong trường hợp xét
xử vắng mặt đương sự của Tòa án; quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy
triệu tập của Cơ quan thi hành án dân sự. Trong trường hợp cần thiết, trên cơ sở
đề nghị của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự, Văn phòng Thừa phát lại có
thể

thỏa


thuận

để

tống

đạt

các

loại

văn

bản,

giấy

tờ

khác.

Thỏa thuận tống đạt được ký kết giữa Văn phòng Thừa phát lại với Cơ quan thi
hành án dân sự hoặc Tòa án dưới hình thức hợp đồng theo phương thức Tòa án,
Cơ quan thi hành án dân sự chuyển giao tất cả các loại văn bản đã thỏa thuận
cho Văn phòng Thừa phát lại tống đạt và Văn phòng Thừa phát lại không được
từ chối khi được yêu cầu tống đạt. Một Cơ quan thi hành án dân sự hoặc một
Tòa án chỉ được ký hợp đồng tống đạt với một Văn phòng Thừa phát lại. Một
Văn phòng Thừa phát lại có quyền ký hợp đồng tống đạt với nhiều Cơ quan thi

hành án dân sự hoặc nhiều Tòa án trên địa bàn tại tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Hợp đồng dịch vụ tống đạt gồm
các nội dung chính sau:
+ Văn bản cần tống đạt;
+ Thời gian thực hiện hợp đồng;
+ Thủ tục việc tống đạt;
+ Quyền, nghĩa vụ của các bên;
+ Phí thực hiện tống đạt.
-

Việc giao cho Thừa phát lại có chức năng tống đạt là cần thiết, góp phần làm
giảm tình trạng quá tải hiện nay của các Tòa án, văn phòng thừa phát lại dân
sự, đảm bảo cho việc tống đạt đúng quy định.
14


-

Việc tống đạt văn bản của Tòa án cũng như của cơ quan thi hành án dân sự
phải tuân theo trình tự, thủ tục nhất định. Do vậy, để thực hiện đúng , Thừa
phát lại phải nắm được các quy định của pháp luật cũng như phải có kỹ năng,
kinh nghiệm nghề nghiệp.

 Các văn bản liên quan đến việc tống đạt văn bản của Tòa án:
- Bộ luật tố tụng Dân sự, Bộ luật tố tụng Hình sự.
- Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
- Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính
- Luật cư trú 2006
- Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về hoạt động Thừa

phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Thông tư liên tịch 12/2010/TTLT-BTP-TANDTC-BTC ngày 24/6/2010 của Bộ
Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính.
- Thông tư liên tịch số 13/2010/TTLT- BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày
7/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
3. Xác minh điều kiện thi hành án:
- Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là việc thu thập thông tin về tiền, tài sản
của tổ chức, cá nhân phải thi hành án tại cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ
thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án. Đây là một
căn cứ quan trọng để việc thi hành án dân sự được xử lý đúng pháp luật với các
bước tiếp theo. Thông qua việc xác minh sẽ cho thấy người phải thi hành án có
hay chưa có điều kiện thi hành án, làm cơ sở cho việc tổ chức thi hành dứt điểm
việc

thi

hành

án

hoặc

giải

quyết

việc

thi


hành

án

theo

quy định của pháp luật. Vì vậy, trong mọi trường hợp thi hành án dân sự đều
không thể bỏ qua việc xác minh điều kiện thi hành án.
- Thi hành án dân sự gắn với việc xử lý tài sản của đương sự. Vì vậy, việc nắm bắt
được điều kiện tài sản, hoàn cảnh, nhân thân của các bên đương sự có ý nghĩa vô
cùng quan trọng.

15


-

Xác minh trong thi hành án là một quá trình tác nghiệp mà đối với bất kỳ hồ sơ thi
hành án nào cũng phải tiến hành. Trên cơ sở xác minh, Văn phòng thừa phát lại
hay cơ quan thi hành án dân sự mới có thể xử lý các bước tiếp theo như : kê biên
tài sản, xử lý tài sản đảm bảo thi hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án, ngăn
chặn việc tẩu tán tài sản và việc thực hiện các biện pháp đảm bảo thi hành án...

-

Thừa phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành án liên quan đến việc thi hành
án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các Cơ quan thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Khi thực hiện việc
xác minh, Thừa phát lại có quyền xác minh ngoài địa bàn tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại trong trường hợp
đương sự cư trú, có tài sản tại địa phương đó.
Thủ tục xác minh điều kiện thi hành án được quy định như sau tại Khoản 11 Điều
2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP:
"1. Trên cơ sở yêu cầu và thỏa thuận xác minh về điều kiện thi hành án, Trưởng
Văn phòng Thừa phát lại ra quyết định xác minh; quyết định phải ghi rõ căn cứ,
nội dung xác minh và được vào sổ thụ lý.
2. Việc xác minh được tiến hành bằng văn bản yêu cầu hoặc trực tiếp. Khi trực
tiếp xác minh, Thừa phát lại xuất trình Thẻ Thừa phát lại, công bố quyết định và
phải lập biên bản về việc xác minh. Trong trường hợp cần thiết, Thừa phát lại có
quyền mời cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác
minh.
Các quy định khác của pháp luật về thi hành án dân sự cũng được áp dụng trong
việc xác minh điều kiện thi hành án.
3. Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất, cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan đăng ký tài sản khác và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu cầu của Thừa phát lại về xác minh
điều kiện thi hành án và chịu trách nhiệm về nội dung thông tin đã cung cấp.
4. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn
việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng”.
16


4. Tổ chức thi hành án dân sự:
Thủ tục thi hành án được hiểu theo nghĩa rộng là “toàn bộ thủ tục để đưa một bản
án, quyết định từ khi cấp bản án, quyết định, ra quyết định thi hành án đến khi
chấm dứt việc thi hành án.”
Theo quy định hiện hành, Thừa phát lại có chức năng trực tiếp tổ chức thi hành
án, do đó việc nắm vũng thủ tục thi hành án là rất quan trọng.
Về cơ bản, Thừa phát lại thực hiện các thủ tục về thi hành án như đối với chấp

hành viên quy định tại Luật thi hành án dân sự và các văn bản liên quan. Có một
số thủ tục thi hành án riêng cho Thừa phát lại được quy định tại Nghị định
61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 và Nghị định 135/2013 ngày 18/10/2013 của
Chính phủ nhưng không nhiều. Đối với các thủ tục mà các Nghị định này không
quy định thì áp dụng quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Theo đó, Thủ
tục chung về thi hành án của Thừa phát lại được quy định như sau:
+ Các Văn phòng Thừa phát lại, Cơ quan thi hành án dân sự phải phối hợp với
nhau trong việc cung cấp thông tin, thông báo, xác minh điều kiện thi hành án, áp
dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án và thanh toán tiền thi hành
án.
Trường hợp người được thi hành án được thi hành nhiều khoản khác nhau trong
cùng một bản án, quyết định do một người có nghĩa vụ thi hành thì cùng một thời
điểm, người được thi hành án chỉ có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự
hoặc một Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành. Nếu các khoản được thi hành
do nhiều người khác nhau có nghĩa vụ thi hành thì người được thi hành án có
quyền đồng thời yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự, Văn phòng Thừa phát lại thi
hành riêng đối với từng khoản.
Nếu trong cùng một bản án, quyết định có nhiều người được thi hành án mà trong
đó có người yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành, có người yêu
cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành thì Cơ quan thi hành án dân sự và
Văn phòng Thừa phát lại phải phối hợp với nhau trong thi hành án.
17


Đối với các vụ việc đã được tổ chức thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự nhưng
sau đó đương sự có văn bản yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục
việc thi hành án và yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành hoặc ngược
lại thì nội dung yêu cầu phải nêu rõ kết quả thi hành trước đó, những nội dung yêu
cầu tổ chức thi hành tiếp và nội dung bảo lưu kết quả thi hành trước đó (nếu có).
Văn phòng Thừa phát lại, cơ quan thi hành án dân sự có thể chấp thuận đề nghị

bảo lưu kết quả thi hành trước đó của đương sự để làm căn cứ tiếp tục tổ chức thi
hành án.
+ Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi
thực hiện thí điểm Thừa phát lại có trách nhiệm hướng dẫn việc phối hợp trong thi
hành án giữa các Cơ quan thi hành án dân sự với Văn phòng Thừa phát lại và giữa
các Văn phòng Thừa phát lại với nhau trên địa bàn.
 Thẩm quyền, phạm vi thi hành án của Thừa phát lại:
Thừa phát lại được quyền trực tiếp tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu của
đương sự đối với các bản án, quyết định:
-

Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực của Tòa án cấp huyện nơi Thừa phát
lại đặt văn phòng.

-

Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định
của Tòa án cấp huyện nơi Thừa phát lại đặt văn phòng.

-

Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện nơi Thừa phát lại đặt văn
phòng.
Thừa phát lại có thể tổ chức thi hành các vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành
của mình ngoài địa bàn quận, huyện nới đặt văn phòng Thừa phát lại nếu
đương sự có tài sản, cư trú hay có các điều kiện khác ngoài địa bàn quận,
huyện nơi Thừa phát lại đặt văn phòng.




Quyền yêu cầu thi hành án:

-

Cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm người yêu cầu chỉ có thể làm
đơn yêu cầu một văn phòng thừa phát lại hay cơ quan thi hành án dân sự tổ
chức thi hành án.
18


-

Trường hợp người được thi hành án được thi hành nhiều điều khoản khác nhau
trong cùng một bản án, quyết định do một người phải thi hành thì cùng một
thời điểm, người được thi hành án chỉ có thể yêu cầu Cơ quan thi hành án dân
sự hoặc một văn phòng thừa phát lại tổ chức thi hành. Nếu các khoản được thi
hành do nhiều người khác nhau có nghĩa vụ thi hành thì người được thi hành có
quyền đồng thời yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại
thi hành riêng đối với từng khoản.

-

Nếu trong cùng một bản án, quyết định có nhiều người được thi hành án mà
những người đó yêu cầu Cơ quan thi hành án và Văn phòng Thừa phát lại tổ
chức thi hành án thì hai bên phải phối hợp với nhau trong tổ chức thi hành án.

-

Đương sự có quyền yêu cầu Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án dân

sự trong trường hợp vụ án đó đang do Cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ
chức thi hành. (Việc xác minh này không giới hạn địa hạt quận, huyện nơi
Thừa phát lại đặt văn phòng)

-

Thời hiệu thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự.



Thỏa thuận về thi hành án:
Người yêu cầu và văn phòng Thừa phát lại thỏa thuận về việc thi hành án. Văn
bản thỏa thuận thể hiện dưới hình thức hợp đồng và có các nội dung chủ yếu
sau:

-

Ngày, tháng, năm yêu cầu thi hành án;

-

Các khoản yêu cầu thi hành án theo bản án, quyết định;

-

Chi phí, phương thức thanh toán;

-

Các thỏa thuận khác, nếu có.




Quyết định thi hành án:
Trưởng văn phòng Thừa phát lại ra quyết định thi hành án trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày ký hơp đồng thỏa thuận thi hành án với người yêu
cầu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Quyết định thi hành án có các nội dung:

-

Tên, địa chỉ văn phòng thừa phát lại;

-

Ngày, tháng, năm ra văn bản;

-

Nội dung yêu cầu người thi hành án phải thi hành;

-

Thời hạn để người phải thi hành án tự nguyện thi hành.
19


Văn phòng thừa phát lại phải vào sổ theo dõi quyết định thi hành án.
Quyết định thi hành án phải được gửi cho cơ quan thi hành án dân sự cấp
huyện tại nơi có văn phòng thừa phát lại để phối hợp thi hành.

 Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháo bảo đảm thi hành án quy định tại
khoản 3, điều 66 của Luật thi hành án dân sự. Khi áp dụng các biện pháp này,
Thừa phát lại có quyền và nghĩa vụ như chấp hành viên, thực hiện các thủ tục
quy định tại Điều 66, 67, 68 và 69 của Luật thi hành án dân sự.
Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại
Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014 như sau:
- Phong toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ.
- Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự.
- Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng
tài sản.
Khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, Thừa phát lại có quyền và
nghĩa vụ như Chấp hành viên, thực hiện các thủ tục quy định tại Luật Thi hành
án dân sự.


Áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án:
Sau khi hết thời hạn tự nguyện đã được ấn định trong quyết định thi hành án,
Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành tại Điều 71
Luật thi hành án dân sự, trừ trường hợp cưỡng chế có huy động lực lượng bảo
vệ.
Thừa phát lại có quyền chủ động ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án như sau (trừ trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế có huy
động lực lượng bảo vệ):
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án;
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án;
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người
thứ ba giữ;
- Khai thác tài sản của người phải thi hành án;

- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ;
20


- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định.
Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, Thừa phát lại có quyền, nghĩa vụ như Chấp
hành viên và thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Trong trường hợp cưỡng chế thi hành án cần huy động lực lượng bảo vệ, Văn
phòng Thừa phát lại phải báo cáo, xin ý kiến của Trưởng Ban Chỉ đạo Thi hành
án dân sự cấp huyện nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại.
Trên cơ sở ý kiến của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự, Văn phòng Thừa phát
lại lập kế hoạch cưỡng chế, báo cáo Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, kèm
theo hồ sơ thi hành án để Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự xem xét, phê
duyệt kế hoạch cưỡng chế và ra quyết định cưỡng chế thi hành án.
Trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của
Văn phòng Thừa phát lại, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự xem xét phê
duyệt kế hoạch và ra quyết định cưỡng chế thi hành án; trường hợp cần phải áp
dụng biện pháp cưỡng chế ngay thì Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự có ý
kiến trong thời hạn 1 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của Văn
phòng Thừa phát lại. Trường hợp không nhất trí thì có văn bản trả lời nêu rõ lý
do.
Sau khi được phê duyệt và ra quyết định cưỡng chế thi hành án, Thừa phát lại
thực hiện việc cưỡng chế theo quy định của pháp luật .
Chương II: Thực trạng vấn đề Thừa phát lại trong THADS
Sau một thời gian thực hiện công tác thi hành án theo các quy định của Luật
Thi hành án dân sự 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án
dân sự 2014, vấn đề thi hành án đã bộc lộ không ít hạn chế càn khắc phục. Trên thực
tế, cơ quan thi hành án nhiều trường hợp không thể hoàn thành nhiệm vụ vì quá tải về
lượng công việc, gây ra sự chậm trễ, kéo dài trong quá trình THADS. Cùng với sự

phát triển của kinh tế - xã hội là việc các tranh chấp pháp lý ngày càng nhiều khiến
cho số lượng vụ việc cần phải thi hành có xu hướng tăng mạnh. Điều này kéo theo
biên chế ngành thi hành án không ngừng tăng (Theo thống kê của Bộ Tư pháp, tính
đến hết ngày 30/9/2015, toàn hệ thống THADS đã thực hiện được 9.681/9.957 biên
chế) và trở thành gánh nặng đối với Ngân sách Nhà nước trong việc chi trả lương và
21


các khoản phí duy trì hoạt động của họ. Tuy nhiên, các nỗ lực này vẫn không theo kịp
lượng án tồn đọng, số lượng công việc THADS hàng năm không giảm bớt.
Do đó, việc thành lập và hoạt động của các tổ chức Thừa phát lại là cần thiết để
hỗ trợ cho công tác THADS đang gặp nhiều khó khăn hiện nay. Thừa phát lại góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác THADS, giảm sự quá tải trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
của các đương sự và cá nhân, tổ chức tham gia THADS được tốt hơn. Các công việc
mà cơ quan nhà nước không nhất thiết phải trực tiếp thực hiện nay được chuyển giao
cho các Văn phòng Thừa phát lại hỗ trợ hoàn thành.
Điều 1 Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2015 nêu rõ:
"Ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo
Nghị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội. Chấm
dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2016". Từ thời điểm chế định này được chính thức triển khai
trên toàn quốc đến nay chỉ mới qua 2 tháng, chưa thể đưa ra các đánh giá khách quan
nhất hiệu quả của mô hình Thừa phát lại về lâu dài đối với công tác thi hành án,
nhưng, thông qua thời gian thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2009 theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc
hội ngày 14/11/2008 về thi hành Luật Thi hành án dân sự và Quyết định 224/QĐ-TTg
ngày 19/2/2009 về Phê duyệt đề án "Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại
thành phố Hồ Chí Minh" cũng như thời gian tiếp tục thí điểm chế định này tại một số
địa phương trên cả nước theo Nghị quyết 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc tiếp

tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, có thể nhìn nhận phần nào các thuận lợi
và khó khăn của mô hình Thừa phát lại tại VIệt Nam hiện nay. Cụ thể:
1.

Những tác động tích cực của chế định Thừa phát lại:
Việc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ với

những kết quả đạt được về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong thời gian qua
đã bước đầu khẳng định việc thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí
Minh và các tỉnh thành khác là thành công, mô hình Thừa phát lại phù hợp, cần thiết
cho xã hội và cho hoạt động tư pháp, được người dân ủng hộ.

22


Thứ nhất, hoạt động tống đạt văn bản theo yêu cầu của Tòa án và cơ quan thi
hành án dân sự
Tống đạt là chức năng quan trọng của Thừa phát lại, hỗ trợ tích cực cho Tòa án
và cơ quan thi hành án dân sự, góp phần giảm tải và tạo điều kiện để các cơ quan này
tập trung thời gian, công sức vào việc thực hiện một cách có hiệu quả chức năng chính
của mình, giảm được công việc mang tính sự vụ, thủ tục.
Tính đến hết ngày 30/9/2015, các Văn phòng Thừa phát lại đã tống đạt được
939.544 văn bản (200.172 văn bản của cơ quan thi hành án dân sự, 739.372 văn bản
của Tòa án), thu được 69 tỷ 390 triệu 413 nghìn đồng. Trong đó, các Văn phòng tại
thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt được 579.642 văn bản, thu 40 tỷ 723 triệu 121
ngàn đồng (chiếm 62 % văn bản tống đạt của cả nước; 59% số tiền thu được); các Văn
phòng tại 12 tỉnh, thành phố mở rộng thí điểm đã tống đạt được 359.902 văn bản, thu
được 28 tỷ 667 triệu 292 ngàn đồng.
Hoạt động tống đạt của Thừa phát lại đã giúp giảm lượng công việc, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và thi hành án, vị thế của Thẩm

phán, Thư ký Toà án. Đối với hoạt động Tòa án, Thông báo số 03/TB-TANDTC ngày
14/8/2015 của Tòa án nhân dân tối cao về tổng kết việc tiếp tục thí điểm chế định
Thừa phát lại đã đánh giá: “Hoạt động của Thừa phát lại trong việc tống đạt văn bản
tố tụng của Tòa án đã góp phần làm giảm khối lượng công việc phải tống đạt để
Thẩm phán, Thư ký Tòa án tập trung vào công việc giải quyết, xét xử các loại vụ án,
từ đó góp phần bảo đảm việc xét xử được nhanh chóng, khách quan, đúng pháp luật.
Như vậy, có thể nói, hoạt động của Thừa phát lại đã góp phần nâng cao hiệu quả,
chất lượng công tác xét xử, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia
tố tụng, góp phần làm tăng số lượng vụ việc được Tòa án giải quyết đúng thời hạn
luật định, những hạn chế của việc gửi văn bản tố tụng qua đường bưu chính cơ bản đã
được khắc phục”. Đối với cơ quan thi hành án dân sự, việc tống đạt văn bản của Thừa
phát lại còn giúp bảo đảm quyền lợi của các bên trong quá trình tổ chức thi hành án,
giảm khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự.
Thứ hai, hoạt động lập vi bằng

23


Vi bằng chính là thế mạnh của Thừa phát lại. Thế mạnh này thể hiện ở vai trò,
vị thế của Thừa phát lại trong việc lập vi bằng. Ngoài Thừa phát lại, không có một hệ
thống cơ quan nào giúp người dân xác lập chứng cứ theo yêu cầu, với thủ tục giản đơn
và không hạn chế thời gian. Việc lập vi bằng của Thừa phát lại được nhận xét là đáp
ứng được nhu cầu rất lớn, phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của
người dân, góp phần hỗ trợ tích cực cho cá nhân,tổ chức xác lập chứng cứ, hạn chế
tranh chấp, rủi ro về pháp lý trong các giao dịch dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng cho người dân.Theo đánh giá về kết quả hoạt động của Thừa phát lại trong thời
gian thí điểm, vi bằng là hoạt động được người dân ủng hộ, đón nhận nhanh và tích
cực nhất.
Các Văn phòng Thừa phát lại đã lập và đăng ký được 42.911 vi bằng, thu gần
59 tỷ đồng, trong đó, tại thành phố Hồ Chí Minh đã lập 36.838 vi bằng, thu được 44 tỷ

085 triệu 968 nghìn đồng (chiếm 86% về số lượng vi bằng và 75% về tiền thu được
của tổng số 13 địa phương). Nội dung vi bằng khá phong phú như: Ghi nhận các hành
vi thực hiện giao dịch, thỏa thuận; mô tả hiện trạng tài sản, nhà cửa; ghi nhận lời khai
của người làm chứng; ghi nhận sự kiện diễn ra cuộc họp của công ty; ghi nhận hành vi
xâm phạm sở hữu trí tuệ; hành vi bàn giao tiền, tài sản, giấy tờ... Việc lập vi bằng góp
phần bổ sung nguồn chứng cứ, giúp các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, hạn chế tranh chấp, đồng thời giúp cơ quan tài phán xem xét, giải
quyết vụ việc khách quan, đúng pháp luật. Đây được coi là hoạt động mang lại hiệu
quả tốt nhất trong các hoạt động của Thừa phát lại trong thời gian thí điểm.
Việc lập vi bằng của Thừa phát lại là rất cần thiết và là một nhu cầu chính đáng
phục vụ hiệu quả cho các hoạt động kinh doanh, thương mại, dân sự của tổ chức, cá
nhân trong xã hội. Thời gian qua, các Văn phòng Thừa phát lại đã lập một số vi bằng
có tác dụng thiết thực và góp phần các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
phápnhư: Văn phòng Thừa phát lại Quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh lập vi
bằng trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến khối di sản 1000 tỉ của
bà Thạch Kim Phát; Văn phòng Thừa phát lại Quận 1 lập vi bằng liên quan đến việc
đòi lại thương hiệu cà phê Buôn Mê Thuộc tại Trung Quốc…
Thứ ba, hoạt động xác minh điều kiện thi hành án
24


Xác minh điều kiện thi hành án là vấn đề tiên quyết trong việc tổ chức thi hành
án. Tuy nhiên, người dân không có đủ điều kiện để thực hiện những công việc này. Vì
vậy, với sự ra đời của các Văn phòng Thừa phát lại, người dân có thêm công cụ hỗ trợ
tích cực cho việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình trong quá trình tổ chức thi
hành án dân sự.
Theo quy định hiện hành, Thừa phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành
án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh, thành phố nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Tính đến hết ngày
30/9/2015, các Văn phòng Thừa phát lại đã xác minh điều kiện thi hành án 885 vụ

việc, thu được 3 tỷ 234 triệu 336 nghìn đồng, trong đó các Văn phòng tại thành phố
Hồ Chí Minh đã xác minh được 399 vụ việc, thu được 1 tỷ 883 triệu 147 ngàn đồng
(chiếm 45 % việc, 58,2 % tiền các Văn phòng trong cả nước); các Văn phòng tại 12
tỉnh, thành phố mở rộng thí điểm đã tiến hành xác minh 486 vụ việc, thu được 1 tỷ
351 triệu 189 ngàn đồng. Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án đã góp phần nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, với tỷ lệ xác minh thành công tới 94,23
%.Chức năng xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại được đánh giá như là
trợ thủ pháp lý đắc lực cho người được thi hành án.
Khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự
quy định người được thi hành án có quyền "Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác
xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án".
Không ít người dân đã tìm đến các Văn phòng Thừa phát lại để xác minh điều kiện thi
hành án, điều này không chỉ góp phần hỗ trợ cho các đương sự mà còn tạo điều kiện
cho việc thi hành bản án, quyết định của cơ quan Thi hành án thuận lợi hơn. Nhờ có
chức năng xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại, về lâu dài, bên cạnh lựa
chọn Chấp hành viên, người dân có thể tiếp cận dễ dàng hơn nữa việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình trong THADS, giúp cho công tác thi hành án dân sự được
tích cực diễn ra, bổ trợ cho hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự,
đóng góp không nhỏ cho việc nghiêm chỉnh chấp hành bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân theo quy định tại Điều 106 Hiến pháp 2013.
Thứ tư, hoạt động trực tiếp tổ chức thi hành án
25


×