Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.65 KB, 120 trang )











LUẬN VĂN:
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành
trong thi hành án dân sự tại Việt Nam







MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của
Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội
dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà
nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền
lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu
hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước,
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các


cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm
1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực
lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động
thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh
của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng
đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công
lý được thực hiện trong cuộc sống.
Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh
những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện thi
hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách,
vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật
của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư
luận xã hội… Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho
Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án

và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muốn tổ
chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công
tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an
toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng
chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói
riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp
của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và
một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về pháp
luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những năm
qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội.

Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám
(Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo
hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư
pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong công
cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân
sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâu và
toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự.
Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về địa
vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đặt ra
yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó

đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay.
Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phương và
hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào tạo
nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dân sự
trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để
các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả
nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp

lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những công trình liên quan
đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về đổi
mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa học
và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai
đoạn mới" mã số đề tài: 2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài; Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” của
Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sỹ Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới tổ chức thi hành án
dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sỹ Luật học tại Trường Đại
học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số vấn
đề về tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà
Nội của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân
sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lê Anh Tuấn,
với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý
luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”;

Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Hoàng
Thế Anh, với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiến sỹ
luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”.
Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam”.
Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định.
Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ của

Chấp hành viên, trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong
quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy
định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở
cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
đến năm 2020.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định ở
Việt Nam từ năm 2004 đến nay.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận văn tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về địa vị pháp lý của Chấp hành viên

trong hoạt động thi hành án dân sự; Những quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên và thực trạng thực hiện những quy định đó trong hoạt động thi hành án dân sự tại
Việt Nam từ năm 2004 đến nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung, địa
vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp
hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý
của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư
pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
luật học so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành
án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm
tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra
những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
Chấp hành viên trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2004
đến nay, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ
thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt

Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật cũng
như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của mình trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác do pháp luật quy định.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu
hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự v.v… tại các cơ sở đào
tạo Luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước là một
trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi
tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyền và
theo trình tự tố tụng. Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, họ có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của Tòa
án là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (cá
nhân, tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung vụ việc

và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và nghĩa vụ này
muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Thực chất, việc thi hành án
là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài
phán khác được thực hiện trên thực tế. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được những
người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án và người phải thi hành
án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự nguyện, bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp
luật thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra
thi hành đó là: Bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,

quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án và Quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản
án, quyết định) quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luật thi
hành án dân sự còn quy định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa
ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án,
quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc
kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người
được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc
và Quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là văn
bản pháp lý nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự,
kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản pháp lý do các tổ

chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc dân sự hoặc kinh doanh
thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm hại. Những phán
quyết của Tòa án cũng như những phán quyết của các cơ quan tài phán muốn được thực thi
trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án dân sự.
Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi pháp lý nhằm thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan khác do Nhà nước
quy định.
Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [41, tr.705]. Công tác thi hành án
dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ quan
thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ
việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ yếu là những
quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự; xuất phát từ nguyên tắc tôn
trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự.
Người được thi hành án giữ vai trò chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết định
đưa ra những yêu cầu thi hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi hành án,
quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án
Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và người phải
thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy nhiên việc thỏa thuận này
phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa thuận về các vấn đề như: thời gian, địa điểm,
phương thức thi hành án Cơ quan thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói riêng
có trách nhiệm theo dõi, giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các bên
đương sự. Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án

hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện theo trình tự,
thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao tính linh hoạt. Tùy từng
trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được mục
đích và hiệu quả cao nhất.
Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi hành các bản án, quyết
định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức thi hành các
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan

nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự hiện
nay được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo
một thủ tục, trình tự nhất định được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án,
quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008 về
việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã chủ trương xã hội hoá một số công việc liên
quan đến thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp
nói chung, lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng nhằm từng bước giảm bớt gánh nặng cho
bộ máy, biên chế, ngân sách của Nhà nước phục vụ công tác thi hành án dân sự thì chủ
trương xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự được coi là một trong những
giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Chủ trương này đã được quy định tại Nghị quyết 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị đó là “Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những
hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số
công việc thi hành án…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên), trước mắt
có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ sở tổng kết, đánh giá

thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trong quá trình thảo luận tại các kỳ họp của Quốc hội
cũng có ý kiến đại biểu cho rằng nên đưa quy định xã hội hoá hoạt động thi hành án dân
sự thành một điều trong Luật thi hành án dân sự để có cơ sở pháp lý triển khai thực hiện
trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thì để thực hiện có
hiệu quả chủ trương này cần phải có bước đi thích hợp, trên cơ sở làm thí điểm sau đó
tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá khả năng thực hiện và hiệu quả của việc thực hiện
xã hội hoá hoạt động thi hành án. Hơn nữa, do hiện nay việc thực hiện xã hội hoá hoạt
động thi hành án (cụ thể là việc tổ chức thí điểm chế định Thừa phát lại) chưa được triển
khai nên chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá và áp dụng. Do vậy, nhiều quy định về xã
hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự chưa nên đưa vào trong Luật thi hành án
dân sự mà chỉ nên quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành
án dân sự. Cuối cùng, Quốc hội đã nhất trí quy định trong Nghị quyết về việc thi hành
Luật thi hành án dân sự, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế

định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện
từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2009 đến ngày
01/7/2012). Từ kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Quốc
hội xem xét, quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội, Bộ Tư Pháp đã khẩn
trương xây dựng và trình Chính phủ xem xét phê duyệt Nghị định về “Tổ chức và hoạt
động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”[39]. Và ngày
24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại
thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh
*
, trong đó quy định những công việc của
Thừa phát lại (Điều 3 của Nghị định) gồm:.Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa
án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Như vậy, việc tổ
chức thi hành án dân sự không chỉ giao cho cơ quan Nhà nước mà còn giao cho tổ chức
khác đó là Tổ chức Thừa phát lại, tuy nhiên đây mới chỉ hoạt động thí điểm tại Thành

phố Hồ Chí Minh trong thời gian 03 năm kể từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012.
Như vậy, có thể khái quát về thi hành án dân sự trong điều kiện mới như sau: Thi
hành án dân sự là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các chủ
thể do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện trên thực tế các quyết định dân sự có
hiệu lực thi hành bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp luật và
tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2.1.1.2. Bản chất của thi hành án dân sự
Trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm, bản chất của thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng, thi hành án là một giai đoạn
của quá trình tố tụng, diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử, được pháp luật tố tụng quy định.
Thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố tụng tư
pháp, với hai lý do cơ bản như sau: thứ nhất, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án
dựa trên cơ sở và kết quả của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất
của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự; thi hành án dân sự là nhằm mục đích thực thi

*
Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành ngày
09/9/2009.

các phán quyết của Tòa án, bảo đảm triệt để các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức và Nhà nước. Không có hoạt động thi hành án thì mọi phán quyết của Tòa án cũng
như các các quyết định khác chỉ là trên bản giấy mà thôi. Hoạt động thi hành án gắn liền
với quá trình xét xử và chịu sự chi phối của quá trình xét xử. Cho nên thi hành án không
thể tách ra khỏi quá trình tố tụng mà phải coi nó là giai đoạn tố tụng
*
; Thứ hai, thủ tục tố
tụng do nhiều cơ quan tiến hành, chẳng hạn như hoạt động điều tra vụ án hình sự do cơ
quan Kiểm lâm, Hải quan tiến hành được coi là hoạt động tố tụng hình sự, trong khi các
cơ quan này chỉ là các cơ quan hành chính được giao quyền điều tra cho nên hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần được coi là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động có
tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật quy định
nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
tính chất chấp hành trong thi hành án dân sự có những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất,
nó chủ yếu do cơ quan tư pháp hay đối tượng phải thi hành tiến hành; Thứ hai, cơ sở để
tiến hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định (văn bản áp dụng pháp luật)
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các văn bản áp
dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành
*
.
Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là dân sự một hoạt động hành chính - tư
pháp, thi hành án dân sự không thể là giai đoạn của tố tụng bởi vì thi hành án có mục
đích khác với bản chất và mục đích của tố tụng. Điều này thể hiện ở chỗ, mục đích của tố
tụng là xác định các chứng cứ để xác lập lại trạng thái ban đầu của sự việc. Nói cách khác
tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách
giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố
tụng diễn ra theo một quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình
đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng và khi
đã có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án là

*
Tạp chí Luật học số 5/1998 trang 43,44 Bài viết Mấy vấn đề về thi hành án trong việc soạn thảo Bộ luật tố tụng
dân sự của Nguyễn Công Bình.và giao trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật.
*
Chuyên đề một số vấn đề lý luận về thi hành án của PGS.TS. Lê Minh Tâm, Trường Đại học luật Hà Nội.

quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, và
quyết định khác do luật định đã có hiệu lực thi hành. Vì vậy, có thể nói tố tụng là quá
trình đi tìm chân lý để áp dụng công lý (pháp luật); còn thi hành án là quá trình thực thi

chân lý bằng công lý. Ở đây chân lý đã rõ, có tội hay không có tội, đúng hay sai đã được
phân xử rõ ràng, thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án , quyết định của Tòa án và
các quyết định của cơ quan tài phán khác. Quá trình này có thể do chính các chủ thể bị thi
hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi
hành án theo đúng nội dung bản án, quyết định. Do đó, thi hành án là hoạt động hành
chính - tư pháp bởi:, căn cứ để thi hành án chính là các bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Cá nhân tôi cho rằng thi hành án dân sự là một hoạt động hành chính - tư pháp là
quan điểm hợp lý nhất bởi những lý do sau: Thứ nhất, thi hành án dân sự chỉ được tiến
hành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác do pháp luật
quy định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn thể quá trình thi
hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những
nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài phán
khác và tuân theo các quy định cụ thể của pháp luật; Thứ hai, hoạt động thi hành án là
dạng hoạt động quản lý, vì thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành để họ tự
giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác
định trong các bản án, quyết định. Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử
của Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác, các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài
phán khác là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án, như chỉ khi có bản án, quyết
định thì cơ quan thi hành án dân sự mới ra quyết định thi hành án Vì vậy, có thể nói
không có hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên thi
hành án dân sự không phải là hoạt động tố tụng cuối cùng; bản án và quyết định có hiệu
lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án; thi
hành án đòi hỏi những nguyên tắc thủ tục và cách thức hoạt động riêng, chẳng hạn, Tại
Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã quy định căn cứ để đưa ra thi hành án
“Bản án, quyết định được đưa ra thi hành khi có các căn cứ sau đây: Bản án, quyết định

dân sự và Quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự”. Các bản
án, quyết định mới chỉ là “điều kiện cần” để tiến hành các hoạt động thi hành án. Nhưng
để tổ chức thi hành các bản án, quyết định thì phải có các “điều kiện đủ” đó là các

nguyên tắc, thủ tục, trình tự thi hành án dân sự. Vì vậy, thi hành án dân sự không phải là
giai đoạn tố tụng và không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà còn chịu sự
điều chỉnh của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nay là Luật thi hành án dân sự
năm 2008. Bản chất của hoạt động thi hành án được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu
sau:
Thứ nhất, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành
án dân sự;
Thứ hai, tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự;
Thứ ba, đặc thù trong các quan hệ thủ tục về thi hành án dân sự (đây là vấn đề có
thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả
quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp, nhưng cần khẳng định rằng
các quan hệ hành chính chủ yếu hơn.
Việc xác định thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng hay là hoạt động hành
chính - tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm sáng tỏ bản chất thi hành án dân sự
cũng như bản chất về địa vị pháp lý của Chấp hành viên. Nhưng dù là quan hệ tố tụng
hay quan hệ hành chính - Tư pháp, dù là người của cơ quan tiến hành tố tụng hay là
người có chức danh hành chính thì nhiệm vụ của Chấp hành viên được quy định trong
Luật là phải thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp
luật quy định. Vậy, điều quan trọng nhất là để Chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ thi
hành các bản án, quyết định thì pháp luật phải tạo đủ điều kiện cho Chấp hành viên thực
hiện.
1.1.2. Khái niệm Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để thực thi
nhiệm vụ của cơ quan đó. Chẳng hạn, đối với cơ quan Tòa án thì người thực hiện chức
năng xét xử là Thẩm phán, hay đối với cơ quan Viện kiểm sát thì người thực hiện chức
năng công tố là Kiểm sát viên, đối với cơ quan công an, người thực hiện nhiệm vụ điều

tra các vụ án là các Điều tra viên Tại các Cơ quan thi hành án dân sự đều có các cán bộ
làm nhiệm vụ thi hành án và các cán bộ làm các nhiệm vụ khác liên quan đến việc thi
hành án, như thủ quỹ, kế toán, thủ kho Nhưng người có nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp

tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật
quy định được gọi là Chấp hành viên.
Tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quy định: Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự và Điều 18 Luật Thi hành án dân sự, quy định tiêu chuẩn bổ
nhiệm Chấp hành viên như sau:
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao
thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên.
2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện
sau đây thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp:
a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên;
b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự;
c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp;
3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện
sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp;
4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện
sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp;
5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 2 Điều này, là sỹ quan quân đội tại
ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội

Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp
và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy định tại các khoản 2,3
và khoản 4 Điều này.
6. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác đến cơ
quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương

mà không qua thi tuyển
7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn quy định
tại Khoản 1 Điều này, đã có thời gia làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể
được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ
15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp”.
Theo quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì ngạch Chấp hành
viên gồm có Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện và được bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ là 05 năm. Việc quy định ngạch bậc của Chấp hành viên theo hai cấp đã
phát sinh nhiều bất cập trong việc sắp xếp, điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa
các cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc, không thu hút được cán bộ về
công tác ở cơ quan thi hành án dân sự và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư
pháp. Hơn nữa, việc quy định Chấp hành viên theo hai cấp với mức chênh lệch về bậc
lương khởi điểm khá cao (Chấp hành viên cấp huyện có mức lương khởi điểm là 2,16 và
Chấp hành viên cấp tỉnh có mức lương khởi điểm là 3,62, như hiện nay là chưa có cơ sở
khoa học rõ ràng để phân loại năng lực, trình độ của Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp
hành viên cấp huyện nên không động viên, khuyến khích được những người có tài năng
và kinh nghiệm đã dẫn đến nhiều bất cập trong thời gian qua [51].
Thực tế hoạt động thi hành án dân sự cho thấy tính chất, mức độ phức tạp của các vụ
việc thi hành án cũng khác nhau: có những vụ việc đơn giản nhưng cũng có nhiều vụ việc
phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành rất lớn, việc thi hành liên quan đến nhiều địa phương,
nhiều cấp, nhiều ngành, vụ việc có yếu tố nước ngoài.v.v… đòi hỏi phải có những Chấp hành
viên có năng lực chuyên môn, có trình độ ngoại ngữ nhất định và giàu kinh nghiệm thực tiễn
để tổ chức thi hành.

Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự công bằng giữa công sức mà các Chấp
hành viên bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ thì Luật Thi hành án dân sự năm
2008 (Điều 17) đã quy định chấp hành viên có ba ngạch: sơ cấp, trung cấp và cao cấp dựa
trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực, nghiệp vụ, thâm niên, kinh nghiệm
công tác mà không phụ thuộc vào đơn vị công tác (cơ quan thi hành án cấp huyện hay cơ
quan thi hành án cấp tỉnh) là rất hợp lý.

* Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên, pháp luật quy định có 03 ngạch Chấp
hành viên cho nên mỗi ngạch Chấp hành viên có những tiêu chuẩn bổ nhiệm khác nhau.
Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì tiêu chuẩn để được
bổ nhiệm Chấp hành viên bao gồm các yêu cầu chung về đạo đức, có trình độ cử nhân
luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ thi hành án, có đủ sức khoẻ và thời gian làm
công tác pháp luật theo quy định (từ bốn năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp huyện
và đã làm Chấp hành viên cấp huyện từ năm năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp
tỉnh).
Những người đủ tiêu chuẩn nêu trên sẽ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét,
quyết định bổ nhiệm chấp hành viên trên cơ sở Tờ trình đề nghị của Hội đồng tuyển chọn
Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự địa phương (mỗi một tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có một Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên).
Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Cán
bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề
nghiệp tư pháp theo chức danh”. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã giữ nguyên tiêu
chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên là phải có trình độ cử nhân luật. Tuy nhiên, điểm mới
nổi bật trong tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên đó là quy định về thời gian làm công
tác pháp luật và phải trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên. Theo đó, tuỳ vào từng cấp
bậc Chấp hành viên và thời gian công tác pháp luật để được xem xét bổ nhiệm Chấp hành
viên cũng khác nhau, Một trong các tiêu chuẩn bắt buộc để được bổ nhiệm làm Chấp
hành viên đó là phải qua kỳ thi và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên ở các ngạch
tương ứng. Quy định mới về thi tuyển Chấp hành viên này nhằm khắc phục hạn chế trong
quy trình, thủ tục tuyển chọn để bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy định của pháp luật

hiện hành. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn được
người có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm Chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán
bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành
chính. Hơn nữa, việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển cũng là phù hợp với
định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế
thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp”.

* Về thời hạn bổ nhiệm Chấp hành viên
Quy định về việc bổ nhiệm Chấp hành viên có nhiệm kỳ 05 năm theo Pháp lệnh
thi hành án dân sự 2004 có những ưu điểm như: giúp cho lãnh đạo Bộ Tư pháp rà soát,
đánh giá lại số liệu, chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự trên phạm vi cả
nước, đồng thời đòi hỏi Chấp hành viên phải tự nhìn nhận, đánh giá, kiểm điểm lại chính
mình, cả về phẩm chất, lẫn năng lực chuyên môn; mỗi Chấp hành viên phải tự hoàn thiện
mình, trau dồi đạo đức, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nhằm hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thi hành án.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó thì công tác bổ nhiệm Chấp hành viên theo
nhiệm kỳ đã phát sinh nhiều bất cập như: quy trình, thủ tục xét bổ nhiệm Chấp hành viên
thường phức tạp, kéo dài, đặc biệt khi thay đổi hoặc khuyết thành viên của Hội đồng
tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thì thủ tục bổ nhiệm phải dừng lại
để chờ kiện toàn cho đúng thành phần của Hội đồng tuyển chọn. Mặt khác, việc bổ nhiệm
Chấp hành viên theo nhiệm kỳ cũng tạo cho các Chấp hành viên có tâm lý không thật sự
yên tâm công tác mỗi khi sắp đến kỳ phải xem xét bổ nhiệm lại. Vì mỗi khi xem xét hồ
sơ bổ nhiệm lại có nhiều trường hợp các đương sự đã “trả thù” Chấp hành viên bằng cách
viết đơn thư tố cáo Chấp hành viên, hoặc chính trong nội bộ cơ quan cũng có đơn thư
khiếu nại, tố cáo nặc danh gây hoang mang cho các Chấp hành viên và đôi khi Chấp hành
viên còn có tâm lý “ngại” thi hành, nhất là “ngại” tổ chức cưỡng chế thi hành án vì mỗi
vụ việc tổ chức cưỡng chế thường va chạm, liên quan đến quyền lợi của nhiều người …
Việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ như quy định của pháp luật hiện hành phần
nào đã ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động thi hành án của Chấp hành viên nói

riêng, của cơ quan thi hành dân sự nói chung. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã đưa ra
những quy định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn vừa kế thừa được
những ưu điểm, vừa khắc phục được những hạn chế của việc bổ nhiệm chấp hành viên có
kỳ hạn. Chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn về thi hành án dân sự, nên việc bổ nhiệm Chấp hành viên không theo nhiệm
kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án, điều này cũng

không hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi phạm hoặc miễn nhiệm
nếu Chấp hành viên không đủ năng lực, điều kiện làm Chấp hành viên. Hơn nữa, quy
định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn cũng phù hợp với định hướng
đã được quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, đó là: “Tăng thời hạn bổ
nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”.
* Về vị trí pháp lý của chức danh Chấp hành viên trong tổ chức bộ máy nhà
nước ta, hiện có những quan điểm khác nhau. Quan điểm cho rằng Chấp hành viên là
chức danh hành chính xuất phát từ quan niệm chỉ những người nào trực tiếp thực hiện
hoặc để thực hiện quyền lực tư pháp mới là chức danh tư pháp, do vậy chức danh tư pháp
chỉ bao gồm: Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra
viên … còn các chức danh thực hiện hoạt động thi hành án dân sự là chức danh hành
chính. Quan điểm khác cho rằng đây là chức danh tư pháp vì quan niệm chức danh tư
pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành và hành nghề theo một chuyên
môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [45]. Sở dĩ có
những quan điểm như vậy là do bản chất của hoạt động thi hành án nói chung và thi hành
án dân sự nói riêng chưa được xác định một cách rõ ràng trong lý luận cũng như trên thực
tiễn (như phân tích ở trên). Tuy nhiên, nên xác định chức danh Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự là một chức danh tư pháp vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, về khái niệm hoạt động tư pháp, mặc dù chưa có một quy phạm pháp
luật nào quy định cụ thể thế nào là hoạt động tư pháp, nhưng có thể hiểu được nội hàm
của nó trong Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và

các văn bản pháp quy khác về tư pháp. Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử các hành vi phạm pháp và giải quyết các vụ kiện tụng trong nhân dân. Cụ thể là
điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự; giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; thi
hành bản án, quyết định của Tòa án Nhân dân. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động điều
tra hình sự được giao cho hệ thống cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, hoạt động thi

hành án dân sự được giao cho hệ thống cơ quan thi hành án thuộc Bộ Tư pháp đảm
nhiệm, việc thi hành án hình sự (phạt tù, tử hình…) được giao cho Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng đảm nhiệm. Do đó, ngoài hoạt động xét xử, công tố (truy tố), thì hoạt động điều
tra hình sự và hoạt động thi hành án, cả trong lĩnh vực hình sự và dân sự đều được coi là
hoạt động tư pháp. Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, với chức năng, nhiệm vụ
được giao, đều được xem là cơ quan tư pháp trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta.
Vì vậy, chức danh của những người được Nhà nước bổ nhiệm để thực thi nhiệm vụ trong các
cơ quan tư pháp là chức danh tư pháp.
Thứ hai, hoạt động tổ chức thi hành án của Chấp hành viên thể hiện đầy đủ
những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp, đó là:
+ Được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công vụ;
+ Trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật và trật tự pháp luật;
+ Có ảnh hưởng hoặc quyết định trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân và của tổ chức có liên quan;
+ Thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, không được đảo lộn và không được làm
tắt (trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được quy định chặt chẽ theo Pháp lệnh thi hành án
Dân Sự năm 2004 và đến ngày 01/7/2009 thì được thực hiện theo các quy định của Luật
thi hành án dân sự năm 2008).
+ Mục đích của hoạt động thi hành án là bảo đảm các nội dung của các bản án,
quyết định của Tòa án và các quyết định do pháp luật quy định được thực thi trên thực tế;
+ Thể hiện tính độc lập, tính chuyên môn hóa cao, chế độ chịu trách nhiệm cá nhân và
chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động của các chức danh tư pháp.

Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định Chấp hành viên là một chức danh tư
pháp, thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nghĩa vụ của một người được Nhà nước bổ nhiệm nếu
đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được Nhà nước giao trách nhiệm thi
hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các bản án, quyết định khác do pháp
luật quy định.
1.1.3. Vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
Một là, Chấp hành viên là người duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm thi

hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy
định, nói cách khác Chấp hành viên là người nhân danh Nhà nước tổ chức thi hành án
dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Chấp hành viên là người có vai trò quan trọng
trong quá trình tổ chức thi hành án, là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động thi hành
án. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của Chấp
hành viên là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy nhà nước,
tính nghiêm minh của pháp luật trong lĩnh vực thi hành án. Chấp hành viên khi tiến hành
hoạt động thi hành án chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng
trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về quá trình thi hành. Không ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để buộc
Chấp hành viên làm trái pháp luật. Bên cạnh đó tùy từng tình huống cụ thể, Chấp hành
viên có thể lựa chọn phương án xử lý thích hợp để bảo đảm kết quả tốt nhất cho hoạt
động thi hành án.
Trong hệ thống những chức danh của bộ máy Nhà nước, chức danh Chấp hành
viên là chức danh đặc thù, chỉ do Nhà nước quy định và bổ nhiệm trong lĩnh vực thi hành
án dân sự để làm nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định khác do pháp luật quy định. Tương tự như chức danh Thẩm phán chỉ có trong cơ quan
Tòa án để làm nhiệm vụ xét xử, chức danh Kiểm sát viên chỉ có trong hệ thống Viện Kiểm
sát để thực hiện quyền công tố Vì vậy, khi nói đến Chấp hành viên là nói đến người duy
nhất có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
và các quyết định của Trong tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.

Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định khác do pháp luật quy định, Nhà nước trao cho Chấp hành viên quyền được trực tiếp
sử dụng quyền lực Nhà nước để:
- Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành
án theo thẩm quyền.
- Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp

của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên.
- Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc
thi hành án;
- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản
của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng,
tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án;
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành
án; Lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; Thu giữ tài sản thi hành án.
- Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy
định của pháp luật.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm
hành chính theo thẩm quyền; Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt
vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
- Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả
cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản
phải nộp khác;
- Sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính
phủ (quy định tại Điều 20 Luật thi hành án dân sự) [33].
Những quyền hạn trên chỉ được Nhà nước trao cho Chấp hành viên để tổ chức thi
hành các bản án, quyết định mà không trao cho bất cứ một chức danh nào khác trong bộ máy

Nhà nước và cũng không trao cho Chấp hành viên để làm những việc không phải là việc tổ
chức thi hành án. Vì vậy, người không phải là Chấp hành viên thì không có quyền tổ chức thi
hành án dân sự. Nói một cách khác, không ai được phép sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc
người khác phải thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án ngoài người duy nhất là Chấp
hành viên.
Hai là, Chấp hành viên có vị trí mang tính độc lập cả về nhiệm vụ lẫn quyền hạn
trong khi tổ chức thi hành án. Chấp hành viên cũng như Thẩm phán trong quá trình thực

thi nhiệm vụ không có một sự can thiệp nào từ bên ngoài có thể buộc Chấp hành viên
phải tổ chức thi hành án trái pháp luật, trừ khi Chấp hành viên cố tình vi phạm pháp luật.
Điều đó được thể hiện ở việc Chấp hành viên có nghĩa vụ phải:
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
kịp thời, chủ động, tích cực tổ chức thi hành án đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án
và theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại thì cơ quan thi hành án
dân sự nơi Chấp hành viên công tác phải có trách nhiệm bồi thường. Chấp hành viên
đã gây ra thiệt hại nếu có lỗi thì tùy từng trường hợp cụ thể có trách nhiệm bồi hoàn
cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành viên có nghĩa vụ từ chối thực hiện nhiệm vụ được giao khi có căn cứ
cho rằng việc đó là trái pháp luật. Nếu Thủ trưởng cơ quan thi hành án vẫn quyết định thì
Chấp hành viên phải chấp hành, nhưng Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. Trong trường hợp này, Chấp hành viên có nghĩa vụ báo
cáo lên Trưởng Thi hành án dân sự cấp tỉnh (đối với Thi hành án dân sự cấp huyện), báo
cáo lên Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (đối với Thi hành án dân
sự cấp tỉnh), báo cáo lên Cục trưởng Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng (đối với Thi
hành án cấp quân khu) và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành
quyết định đó [8].
- Ngoài ra, pháp luật còn quy định nghĩa vụ của Chấp hành viên không được làm
một số công việc nhất định, cụ thể:

+ Chấp hành viên không được tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật.
+ Chấp hành viên không được can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc
thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi
hành án.
+ Chấp hành viên không được sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành
án.
+ Chấp hành viên không được thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền,

lợi ích của bản thân và những người thân thích như: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; Cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ngoại, bác, chú, cậu, cô,dì và anh, chị em
ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên; Cháu ruột mà Chấp
hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
+ Chấp hành viên không được sử dụng thẻ chấp hành viên, trang phục, phù hiệu
thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc quyền hạn, nhiệm vụ được
giao.
+ Chấp hành viên không được sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án.
+ Chấp hành viên không được cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định, trì
hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp
luật [33].
Ba là, Chấp hành viên là hạt nhân của hoạt động thi hành án dân sự, tạo dựng lên
uy tín của cơ quan thi hành án dân sự.
Nếu như hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự là trung tâm của việc tổ chức
thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan Tài phán khác,
thì có thể nói hoạt động của Chấp hành viên là hạt nhân của cơ quan thi hành án dân sự.
Hoạt động của Chấp hành viên tạo lên sức mạnh, uy tín của cơ quan thi hành án dân sự.
Hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên cũng chính là hiệu quả hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự. Một cơ quan thi hành án dân sự có thể có rất nhiều cán bộ, công chức
như Chấp hành viên, Thẩm tra viên, chuyên viên, kế toán, thủ quỹ, văn thư, lái xe ,

×