Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của bộ quốc phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.46 KB, 143 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đấu thầu nói chung và đấu thầu mua sắm hàng hóa bằng hình
thức nhập khẩu nói riêng là một cơng cụ quan trọng của nền kinh tế thị
trường giúp người mua và người bán gặp nhau; giúp chính phủ quản
lý chi tiêu, sử dụng các nguồn vốn Nhà nước sao cho hiệu quả và
chống thất thốt lãng phí; chống các hành vi gian lận, tham nhũng và
lãng phí trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà nước; thúc đẩy
chuyển giao công nghệ. Chính vì vậy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật như: Luật Đấu thầu, Luật sửa đổi, Luật Quản lý, sử
dụng tài sản nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
thi hành Luật Đấu thầu...nhằm quản lý hoạt động này.
Trong những năm qua trên cơ sở qui định chung của Nhà nước,
Bộ Quốc phòng đã có nhiều quy định về cơng tác quản lý đấu thầu,
mua sắm hàng hóa cho quốc phòng góp phần thực hiện nhiệm vụ xây
dựng quân đội chính qui, hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện vẫn còn nhiều bất cập, do việc cập nhật các quy định pháp luật về
đấu thầu vẫn chưa được đồng bộ và đầy đủ cả về trình tự, nội dung,
thời gian và thẩm quyền trong quá trình lựa chọn nhà thầu; bị động,
lúng túng trong xử lý tình huống vi phạm các quy định của pháp luật
và hiệu quả đấu thầu chưa cao.
Tình hình chính trị và quan hệ quốc tế có nhiều diễn biến khó
lường, đất nước còn nghèo vẫn dành phần ngân sách nhất định để xây
dựng quân đội. Bởi vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả của công tác quản
lý Nhà nước đối với đấu thầu mua sắm hàng hóa nhập khẩu cho BQP
càng trở nên cấp thiết hơn. Góp phần đáp ứng đòi hỏi đó, đề tài:
“Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của Bợ Quốc phịng”
được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ.


2. Mục đích nghiên cứu của luận văn


2

- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về hiệu quả quản lý nhà nước đối
với công tác đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu
cho quốc phòng,
- Phân tích hiệu quả của hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo hình thức nhập khẩu cho quốc phòng trong thời gian qua, rút ra
kết luận đánh giá
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu cho quốc
phòng trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn hiệu quả quản lý nhà nước về
đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của Bộ Quốc
phòng (ở tầm vĩ mô) .
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thứ nhất, nghiên cứu hiệu quả của quản lý nhà nước về đấu
thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu phục vụ công tác
huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu ở Bộ Quốc phòng. Không đề cập
đến hàng hóa mà các doanh nghiệp Quốc phòng và các đơn vị dùng để
sản xuất hàng hóa tiêu dùng (làm chức năng kinh tế)
Thứ hai, về thời gian nghiên cứu tập trung vào thời kỳ từ năm 2000
đến năm 2011 và đề xuất các giải pháp đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích tối

ưu và phương pháp chuyên gia để làm rõ mục đích nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn.


3

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập
khẩu của Bộ Quốc phòng.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động
đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của Bộ Quốc
phòng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
hình thức nhập khẩu của Bộ Quốc phòng.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HĨA
THEO
HÌNH THỨC NHẬP KHẨU CỦA BỘ QUỐC PHÒNG
1.1. Sự cần thiết và nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt
động đấu thầu mua sắm hàng hố theo hình thức nhập khẩu của Bộ
Quốc phòng.
1.1.1.Sự cần thiết quản lý Nhà nước đối với mua sắm hàng hóa
theo hình thức nhập khẩu của Bợ Quốc phịng
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại hàng hóa nhập khẩu của Bộ Quốc
phịng

a. Khái niệm hàng hóa nhập khẩu quốc phòng
Hàng quốc phòng là hàng đảm bảo cho Quân đội thực hiện các
nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu gồm vũ khí, trang bị kỹ
thuật, các dây chuyền công nghệ, sản phẩm công nghệ, dịch vụ, vật tư
và các loại hàng hóa khác. Hàng hóa dùng cho quốc phòng có thể mua
sắm trong nước hoặc nhập khẩu từ nước ngoài.


4

Hàng quốc phòng nhập khẩu là những hàng hóa được nhập khẩu
trực tiếp từ nước ngoài đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ quân sự của
Quân đội bằng các nguồn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ Quốc phòng
quản lý.
Có nhiều quan niệm về hàng hóa quốc phòng nhập khẩu, nhưng
theo chúng tơi khái niệm hàng hóa quốc phòng nhập khẩu là hàng hóa
được mua sắm từ thị trường nước ngồi thơng qua nhập khẩu để hình
thành nên các loại tài sản đặc biệt, chuyên dùng và phục vụ công tác
quân đội bằng nguồn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ Quốc phòng
quản lý.
b. Phân loại hàng hóa nhập khẩu quốc phịng:
Hàng hóa nhập khẩu cho quốc phòng có thể phân loại theo các quy
định sau:
* Theo tính chất sử dụng của hàng hóa chia thành: hàng chuyên
dùng quân sự và hàng hóa sử dụng cho quốc phịng và mục đích kinh tế
[17;7]
Hàng quốc phòng được chia làm 2 loại: hàng chuyên dùng quân
sự và hàng lưỡng dụng, trong đó:
- Hàng chuyên dùng quân sự là hàng quốc phòng đặc biệt bao gồm
vũ khí, đạn dược, vật liệu nở, trang thiết bị kỹ thuật, dịch vụ, vật tư chuyên

dùng quốc phòng.
- Hàng lưỡng dụng là hàng quốc phòng gồm trang thiết bị kỹ thuật
dịch vụ, vật tư, hàng hóa có thể sử dụng cho quốc phòng và cả trong lĩnh
vực kinh tế xã hội.
* Theo nguồn gốc hàng hóa hình thành tài sản [39;1].
Theo nguồn gốc hàng hóa hình thành tài sản trong lĩnh vực quốc
phòng, gồm 03 loại gồm: tài sản đặc biệt, tài sản chuyên dụng và tài
sản phục vụ cơng tác quản lý, trong đó:
- Tài sản đặc biệt: là tài sản chỉ sử dụng trong chiến đấu, huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu và nghiệp vụ của Bộ Quốc phòng gồm:
+ Vũ khí, khí tài, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đặc biệt; phương
tiện đặc chủng, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ;
+ Cơng trình chiến đấu


5

- Tài sản chuyên dùng: là tài sản sử dụng thường xuyên phục vụ
hoạt động quốc phòng của Bộ Quốc phòng không thuộc loại tài sản
đặc biệt gồm:
+ Nhà và các tài sản khác gắn liền với đất thuộc doanh trại, trụ sở
đóng quân, kho tàng, trường đào tạo nghiệp vụ quốc phòng, an ninh,
trường bắn, thao trường, bãi tập, cơ sở giam giữ của các đơn vị vũ
trang nhân dân;
+ Phương tiện vận tải chuyên dùng quốc phòng, an ninh;
+ Cơng cụ hỗ trợ khác (ngồi cơng cụ hỗ trợ đặc biệt) và các tài
sản khác là loại tài sản có cấu tạo đặc biệt phục vụ cơng tác, chiến đấu
của đơn vị vũ trang nhân dân.
- Tài sản phục vụ công tác quản lý: là tài sản sử dụng trong công
tác, huấn luyện, nghiệp vụ, học tập của đơn vị vũ trang nhân dân,

gồm:
+ Nhà và các tài sản khác gắn liền với đất thuộc nhà trường (trừ
các học viện, trường đào tạo nghiệp vụ quốc phòng, an ninh); cơ sở
khám, chữa bệnh, nhà an dưỡng, nhà điều dưỡng; nhà khách, nhà công
vụ; nhà thi đấu, nhà tập luyện thể dục, thể thao và các cơ sở khác
không thuộc khn viên doanh trại, trụ sở đóng qn của các đơn vị
vũ trang nhân dân;
+ Xe ô tô chỉ huy, xe ô tô phục vụ công tác, các loại phương tiện
giao thơng vận tải khác;
+ Máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc.
* Ngồi ra hàng hóa nhập khẩu quốc phịng cũng có thể được
phân loại theo khâu sử dụng, theo tính chất bảo đảm kỹ thuật (nhóm
1,2).
Trên cơ sở nghiên cứu các cách phân loại đã hình thành từ trước
đến nay để tiện cho việc phân tích, nghiên cứu hoạt động đấu thầu
mua sắm hàng hóa nhập khẩu, luận văn phân loại theo nguồn gốc hình
thành tài sản trong Bộ Quốc phòng. Theo cách này hàng hóa nhập
khẩu của Bộ Quốc phòng gồm 03 nhóm
- Nhóm 1: loại hàng hóa đặc biệt (gọi tắt là nhóm 1) bao gồm:


6

+ Vũ khí, khí tài, vật liệu nở, cơng cụ hỗ trợ đặc biệt; phương
tiện đặc chủng, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ.
+ Trang, thiết bị sử dụng cho công trình chiến đấu.
+ Hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập
khẩu trong trường hợp được Thủ tướng quyết định cho phép nhập
khẩu [41;44].
+ Công nghệ sản xuất các loại vũ khí, khí tài, vật liệu nở quân

sự, trang thiết bị kỹ thuật quân sự, công cụ hỗ trợ, phương tiện vơ hiệu
hóa các thiết bị phát hiện việc truy cập mạng máy tính điện tử phục
vụ nhu cầu quốc phòng; Cơng nghệ vơ hiệu hóa thiết bị kiểm tra, phát
hiện vũ khí, vật liệu nở, ma túy và đồ vật nguy hiểm khác phục vụ nhu
cầu an ninh; Cơng nghệ vơ hiệu hóa các thiết bị ghi âm, ghi hình, đo,
đếm, tính tải trọng, tốc độ phương tiện giao thông phục vụ nhu cầu an
ninh [42;3].
+ Cơng nghệ thuộc Danh mục bí mật nhà nước [71;4]
- Nhóm 2: loại hàng hóa chuyên dùng (gọi tắt là nhóm 2) bao gồm:
+ Hàng hóa là phương tiện vận tải chuyên dùng quốc phòng;
+ Sản phẩm, hàng hóa là cơng cụ hỗ trợ khác (ngồi cơng cụ hỗ
trợ đặc biệt) và các tài sản khác là loại tài sản có cấu tạo đặc biệt phục
vụ cơng tác, chiến đấu của đơn vị vũ trang nhân dân.
+ Công nghệ sản xuất phục vụ quốc phòng khơng thuộc nhóm 1,
vật tư kỹ thuật sử dụng cho quốc phòng.
- Nhóm 3: loại hàng hàng hóa thơng thường (gọi tắt là Nhóm 3)
bao gồm:
+ Xe ô tô chỉ huy, xe ô tô phục vụ công tác, các loại phương tiện
giao thông vận tải khác phục vụ công tác quản lý là tài sản sử dụng
trong công tác, huấn luyện, nghiệp vụ, học tập; máy móc, trang thiết
bị, phương tiện làm việc của các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc
phòng
+ Các loại nguyên, vật liệu, trang thiết bị kỹ thuật thông thường,
dịch vụ sử dụng cho tất cả các ngành kinh tế, kỹ thuật của nền kinh tế
quốc dân mua sắm phục vụ cho hoạt động của Bộ Quốc phòng.


7

Mỗi nhóm hàng hóa quốc phòng trên đều có đặc điểm riêng và có

cơ chế mua sắm, đấu thầu riêng, các thủ tục nhập khẩu riêng.
Phân loại hàng hóa quốc phòng tạo cơ sở quản lý, chỉ đạo, điều
hành, tổ chức thực hiện hoạt động mua sắm, đấu thầu phù hợp theo
yêu cầu mua sắm của từng loại tài sản trong toàn quân.
1.1.1.2. Sự cấp thiết của quản lý nhà nước đối với hoạt động
đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu cho quốc
phịng
Hàng hóa quốc phòng là hàng hóa phục vụ cho nhiệm vụ quốc
phòng, đặc biệt là loại hàng hóa nhóm 1, 2 có vai trò to lớn đối với
hiện đại hóa qn đội, vì vậy nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng là
đối tượng quản lý của Nhà nước. Điều này xuất phát từ chức năng
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhập khẩu hàng hóa quốc
phòng là một lĩnh vực quan trọng cung cấp hàng hóa để đảm bảo an
ninh chính trị và quốc phòng. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ tình
hình mới, nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng có tác động quyết định
đến chất lượng và trình độ tác chiến của Quân đội, vì vậy càng cần
phải quản lý chặt chẽ hơn do các lý do sau:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) có chức năng quản lý kinh
tế
Về bản chất Nhà nước là một thiết chế quyền lực chính trị của
giai cấp này đối với giai cấp khác trong xã hội và là quyền lực công
đại diện cho lợi ích chung của cộng đồng xã hội nhằm duy trì và phát
triển xã hội [89;61].
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực
của Nhà nước, thơng qua pháp luật, chính sách, mơi trường, lực lượng
vật chất và tài chính trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã
hội và các thành phần kinh tế.
Như vậy nhập khẩu hàng hóa nói chung và nhập khẩu VTKTQP
là một hoạt động kinh tế, là đối tượng quản lý của Nhà nước XHCN.
- Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu hàng hóa quốc phịng

nói riêng là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi
Nhà nước phải quản lý chặt chẽ để giảm nhập siêu


8

Hiện nay về nhập khẩu hàng hóa còn nhiều tồn tại. Trước hết là
cơ cấu nhập khẩu giữa máy móc, thiết bị với nguyên nhiên vật liệu và
hàng tiêu dùng chưa phù hợp. Trong số hàng thiết bị máy móc những
mặt hàng có hàm lượng cơng nghệ cao chiếm tỷ lệ còn ít. Hàng tiêu
dùng chiếm tỷ lệ khơng nhỏ kể cả mặt hàng trong nước đã sản xuất
được, hàng xa xỉ phẩm và hàng nhập lậu lên đến mức báo động, gây
tác động lớn về nhiều mặt và trở nên nghiêm trọng.
Ngun nhân của tình trạng trên có nhiều như thiếu chiến lược
nhập khẩu dài hạn, nghiên cứu xúc tiến thị trường nhập khẩu còn yếu
cả tầm vĩ mô và vi mơ, trong đó có cả ngun nhân về phía quản lý
Nhà nước còn yếu kém sai sót. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp
đồng bộ trên tất cả các mặt đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước
đối với nhập khẩu nói chung và nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng
nói riêng.
- Đảm bảo đủ vũ khí trang bị đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa
quân đội để quân đội thực sự trở thành công cụ sắc bén bảo đảm an
ninh chính trị là yêu cầu buộc Nhà nước phải quản lý nhập khẩu hàng
hóa quốc phịng
Hiện nay thế giới vừa có nhân tố ởn định vừa có những nhân tố
mất ởn định, vừa hợp tác, vừa đấu tranh gay gắt để phát triển. Nguy cơ
chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang cục
bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, việc sản xuất và bn bán vũ khí, chạy
đua vũ trang, can thiệp, bạo loạn lật đở vẫn xảy ra. Vì vậy, "Cần tiếp
tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ

quốc, đẩy mạnh Công nghiệp hóa - hiện đại hóa". Kết hợp thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là yêu cầu khách quan, là qui luật
tồn tại và phát triển của xã hội ta.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ đất nước với mọi thành quả,
các cộng đồng dân cư gắn bó với đất nước tạo nên theo chiều sâu và
bề dầy lịch sử cho đến nay. Tầm quan trọng của sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc là sự tồn vong của Tổ quốc, sự sống còn của chế độ.
Để thực
hiện tốt nhiệm vụ trên
phải có trang bị kỹ thuật, vũ khí đạn dược


9

với tính năng tiên tiến hiện đại, đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp
thời đồng bộ cho các lực lượng vũ trang.
Yêu cầu nhiệm vụ hiện đại hóa Quân đội càng trở nên cấp thiết
thì vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng ngày
càng trở nên quan trọng và hoạt động nhập khẩu hàng hóa quốc phòng
trở thành đối tượng quản lý của Nhà nước.
- Nhà nước quản lý nhập khẩu hàng hóa quốc phòng để sử dụng
Ngân sách nhà nước tiết kiệm và hiệu quả
Trong hoàn cảnh đất nước ta còn nghèo nhưng hàng năm Nhà
nước vẫn phải dành một khoản ngân sách nhất định cho quốc phòng
an ninh trong đó có vấn đề nhập khẩu trang thiết bị, phụ tùng kỹ thuật.
Việc chuyển đởi cơ chế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường khiến cho đảm bảo các thiết bị kỹ thuật thay đổi cơ bản. Nếu
như trước kia việc đảm bảo vật tư thiết bị phụ tùng kỹ thuật quốc
phòng chủ yếu từ nguồn viện trợ, đến nay chúng ta phải bỏ tiền ra
mua. Do đó hoạt động nhập khẩu phải có những bước chuyển đởi phù

hợp với cơ chế thị trường nhằm đảm bảo sử dụng Ngân sách nhà nước
tiết kiệm, có hiệu quả đối với việc nhập khẩu để xây dựng quân đội
từng bước chính qui hiện đại là một nhu cầu cần thiết. Từ những điều
trình bày ở trên cho thấy phải có một cơ chế quản lý phù hợp với nhập
khẩu hàng quốc phòng, đảm bảo được các quy định quản lý của Nhà
nước và tính đặc thù của hàng hóa nhập khẩu cho qn đội.
- Mua sắm hàng hóa cho quốc phịng là mua sắm hàng hóa cơng
cộng cần phải quản lý chặt chẽ để giảm đầu tư cơng góp phần kiềm
chế lạm phát
Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc chi
tiêu giành cho khu vực công là rất lớn (chẳng hạn như chi cho xây
dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, quốc phòng, khống chế lũ, lụt…). Để
trang trải cho các khoản chi nói trên, ngồi việc sử dụng nguồn vốn từ
thu ngân sách trong nước, Nhà nước còn phải tận dụng từ các nguồn
vốn khác như trái phiếu chính phủ, ODA (hỗ trợ phát triển chính
thức), FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài)…


10

Do vậy, việc mua sắm cho quốc phòng bản chất là mua sắm
hàng hóa cơng cộng bởi bản chất hàng hóa sử dụng cho quốc phòng là
hàng hóa cơng cộng sử dụng các nguồn lực của Nhà nước cho mua
sắm để giảm đầu tư cơng góp phần kiềm chế lạm phát.
- Đấu thầu là một phương thức quản lý chủ yếu để mua sắm công
hiệu quả
Đấu thầu với tư cách là một công cụ quản lý trong nền kinh tế
thị trường có mục tiêu nhằm đạt hiệu quả kinh tế trong sử dụng
hiệu quả các nguồn lực công, công khai, minh bạch, công bằng, bảo
đảm cạnh tranh đã trở thành một công cụ chủ yếu để thực hiện mua

sắm công trên thế giới và tại hầu hết các quốc gia. Đấu thầu mua
sắm công lành mạnh là một trụ cột chính để quản lý chi tiêu cơng
tốt trong kinh tế thị trường. Một hệ thống đấu thầu mua sắm công
minh bạch, cơng bằng và hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển và mua sắm được
hàng hóa và dịch vụ đúng giá trị đồng tiền bỏ ra và theo dự toán
ngân sách. Một hệ thống đấu thầu mua sắm công yếu kém sẽ gây
chi phí cao cho Chính phủ và cơng chúng, tăng cơ hội cho tham
nhũng, khơng khuyến khích tạo thị trường cạnh tranh, trì hỗn thực
hiện ngân sách, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và mục tiêu
phấn đấu giảm nghèo.
Tóm lại, quản lý nhà nước đối với nhập khẩu hàng hóa cho quốc
phòng khơng chỉ có ý nghĩa về qn sự, chính trị, văn hóa, xã hội mà
còn mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc. Vì vậy cần phải nắm được nội dung,
những yêu cầu nhất định trong tổ chức, quản lý.
1.1.2. Nội dung quản lý Nhà nước về hoạt đợng đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu dùng cho quốc phịng.
Có nhiều quan điểm khác nhau về QLNN là do giác độ nghiên
cứu khác nhau. Luận văn lựa chọn các tiếp cận theo quá trình và theo
chức năng QLNN là các cơng việc phải thực hiện, thẩm quyền và
trách nhiệm của các bên tham gia khi tở chức đấu thầu theo trình tự
trên cơ sở đặc điểm của hoạt động nhập khẩu, hoạt động đấu thầu đã
được Nhà nước, Bộ Quốc phòng qui định.


11

Quản lý nhà nước về đấu thầu mua sắm hàng hóa nhập khẩu
của Bộ Quốc phịng là hệ thống hiện hành những quy định pháp luật
về chế độ, chính sách quản lý, tổ chức bộ máy và phương thức điều

hành hoạt động đấu thầu do Nhà nước định ra trên cơ sở nhận thức
các quy luật kinh tế để quản lý hoạt động đấu thầu nhằm thực hiện
nhiệm vụ hiện đại hóa quân đội đáp ứng yêu cầu hiệu quả, bảo đảm
cạnh tranh, công bằng, minh bạch.
Theo cách tiếp cận này QLNN đối với hoạt động đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu dùng cho quốc phòng bao
gồm các nội dung:
1.1.2.1.Xác định mục tiêu QLNN đối với hoạt động đấu thầu mua
sắm hàng hóa nhập khẩu
Các mục tiêu QLNN đối với hoạt động đấu thầu mua sắm hàng
hóa nhập khẩu cho quốc phòng có thể là:
- Đầy đủ và kịp thời theo kế hoạch: để hoàn thành nhiệm vụ
Đảng và nhà nước giao cho quân đội bắt buộc phải có lượng hàng hóa
tương ứng theo kế hoạch. Nhu cầu hàng hóa quốc phòng là để duy trì
hoạt động của các vũ khí, phương tiện trong huấn luyện và sẵn sàng
chiến đấu vì vậy yêu cầu đầy đủ và đúng thời hạn là quan trọng nhất.
Trong cơ chế thị trường hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa
nhập khẩu cho quốc phòng cần đạt được các mục tiêu kinh tế theo 5
tiêu chí đúng sau: đúng số lượng đối với hàng hóa, đúng con người
đối với tư vấn và xây lắp; đúng chất lượng; đúng giá cả; đúng địa
điểm; đúng thời gian (tiến độ).
- Đảm bảo hàng hóa đồng bộ về cơ cấu và có chất lượng tốt:
Đặc trưng phương tiện thiết bị của Việt Nam là nhiều nước sản xuất,
chủng loại phong phú, vốn đã không đồng bộ do nguồn kinh phí có
hạn nên hàng nhập khẩu là nguồn duy nhất để đảm bảo, bởi vậy cần
cân đối, đồng bộ hơn. Ngồi ra chất lượng hàng hóa cũng quyết định
tới chất lượng các phương tiện cung cấp cho quân đội và ảnh hưởng
tới chất lượng công tác của bộ đội.



12

- Hợp lý và tiết kiệm: Quân đội hàng năm cần lượng hàng hóa
lớn để thực hiện huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, trong điều kiện đất
nước còn nghèo việc nhập khẩu cần hợp lý và tiết kiệm.
1.1.2.2. Quyết định kim ngạch nhập khẩu và xét duyệt kế hoạch
nhập khẩu
Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội là cơng cụ điều tiết của
Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế, nhất là
trong hoạt động đấu thầu mua sắm đặc biệt mua sắm hàng hóa cơng .
Hàng năm Quốc hội giao chỉ tiêu ngân sách và Chính phủ phê
duyệt kế hoạch nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng, bởi vậy QLNN
trước hết là quản lý kế hoạch: kế hoạch nhập khẩu hàng hóa quốc
phòng và kế hoạch đấu thầu của các gói thầu mua sắm.
+ Kế hoạch nhập khẩu hàng hóa quốc phòng
Căn cứ vào chủ trương đường lối phát triển của quân đội, Bộ
Quốc phòng phải xác định: Các mặt hàng nhập khẩu, số lượng và thời
gian cần phải có; kim ngạch nhập khẩu để bố trí, cân đối vốn; xác định
cơ quan tổng hợp và cân đối kế hoạch nhập khẩu giữa nhập khẩu với
mua trong nước, giữa các quân binh chủng; qui định trình tự lập và xét
duyệt kế hoạch nhập khẩu của các đơn vị trong Bộ quốc phòng. Công
tác xây dựng kế hoạch nhập khẩu hàng hóa là khâu đầu tiên quan
trọng phải tiến hành tốt để làm cơ sở cho thực hiện, kiểm tra đánh giá
ở các bước tiếp.
+ Kế hoạch đấu thầu của các gói thầu
Kế hoạch đấu thầu là văn bản phê duyệt của người có thẩm quyền
sau khi phê duyệt quyết định đầu tư hoặc phê duyệt đồng thời với quyết
định đầu tư trong trường hợp đủ điều kiện để làm cơ sở pháp lý cho chủ
đầu tư tổ chức lựa chọn nhà thầu, trừ gói thầu cần thực hiện trước khi
có quyết định đầu tư đối với mua sắm theo dự án và người có thẩm

quyền quyết định trong mua sắm tài sản. Kế hoạch đấu thầu gồm các
nội dung của từng gói thầu bao gồm: Tên gói thầu; Giá gói thầu; Nguồn
vốn; Hình thức lựa chọn nhà thầu; phương thức đấu thầu; Thời gian
lựa chọn nhà thầu; Hình thức hợp đồng; Thời gian thực hiện hợp đồng.


13

Người phê duyệt kế hoạch đấu thầu phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về quyết định của mình.
1.1.2.3. Ban hành luật pháp và chính sách cho hoạt động đấu thầu
mua sắm hàng nhập khẩu dùng cho quốc phịng
Đó là hệ thống những quy định pháp luật về chế độ, chính sách
quản lý đấu thầu nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra, các quy định hiện
nay có:
- Luật Đấu thầu - Quy định chung về hoạt động đấu thầu lựa
chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp
đối với gói thầu thuộc các dự án sử dung vốn nhà nước.
- Quy định về đăng tải thông tin trong đấu thầu.
- Quy định về các mẫu hồ sơ mời thầu.
- Quy định về các mẫu báo cáo đánh giá kết quả lựa chọn nhà
thầu, thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu.
- Quy định về năng lực đối với tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động đấu thầu.
- Quy định về xử lý kiến nghị trong đấu thầu.
- Quy định về đấu thầu qua mạng.
- Quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đấu thầu.
- Quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước.
- Quy định về hàng hóa đã sản xuất được trong nước.
- Quy định về các hình thức hợp đồng trong đấu thầu.

- Quy định thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản nhằm duy trì
hoạt động thường xuyên của cơ quan Nhà nước bằng vốn nhà nước.
- Các Luật Ngân sách, Thương mại, Cạnh tranh, Luật công nghệ.
Chuyển giao cơng nghệ, Sở hữu trí tuệ, Chất lượng hàng hóa, Xây dựng.
- Các Luật thuế liên quan đến đấu thầu mua sắm hàng hóa trong
đấu thầu: thuế doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp, giá trị gia tăng,
Xuất, nhập khẩu, Doanh nghiệp.
- Các cam kết của Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO).
- Các Thông tư liên bộ, của các Bộ, ngành có liên quan như Bộ
Công Thương, Bộ Khoa học Công Nghệ, Bộ Tài chính hướng dẫn thi


14

hành Luật Đấu thầu, Thương mại , Nghị định, Quyết định, Chỉ thị của
Chính phủ liên quan đến đấu thầu.
Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng khác nhau để ban
hành luật pháp, chính sách và qui trình đấu thầu mua sắm hàng hóa nói
chung và hàng hóa cho quc phong núi riờng.
Sơ tuyển

Chuẩn bị đấu thầu

Thông báo mời thầu
Thông báo mời thầu
Lập HSMT
Lập HSMT
Phát hành HSMT
Phát hành HSMT


Tổ chức đấu thầu

Lập Tổ chuyên gia
Lập Tổ chuyên gia

Đánh giá sơ bộ
Đánh giá sơ bộ

Đánh giá HSDT

Đánh giá chi tiết
Đánh giá chi tiết
Báo cáo KQĐG
Báo cáo KQĐG

Thẩm định và phê duyệt KQĐT

Tính pháp lý
Tính pháp lý
Quy trình
Quy trình

KQĐT (mặt đợc và tồn tại)
KQĐT (mặt đợc và tồn tại)
Tên nhà thầu
Tên nhà thầu

Thông báo KQĐT


Giá trúng thầu
Giá trúng thầu
Hình thức hợp đồng
Hình thức hợp đồng

Thng tho, hon thiờn H

Chi tiết hoá
Chi tiết hoá
Các xem xét khác
Các xem xét khác

Ký kết hợp ®ång


15

Hình1.1.Trình tự đấu thầu tổng quát (theo Luật Đấu thầu)
1.1.2.4. Tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ công chức điều
hành hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa dùng cho quốc phịng
a. Tở chức bộ máy quản lý, điều hành hoạt động đấu thầu
Các hoạt động quản lý Nhà nước được chun mơn hóa, tạo
thành những cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện chức
năng điều hành nền kinh tế. Trên cơ sở của sự phân định theo chức
năng bộ máy quản lý Nhà nước ở Trung ương (Chính phủ) chia thành
các Bộ; bộ máy quản lý Nhà nước ở các tỉnh, nhằm thực hiện hiệu quả
hoạt động đấu thầu trong nền kinh tế, hướng dẫn các đối tượng thực
hiện đảm bảo thống nhất trong toàn bộ phạm vi và đối tượng áp dụng.
Dưới đây là sơ đồ mơ hình quản lý Nhà nước về hoạt động đấu
thầu và mua sắm công của Việt Nam.



16

Thủ tướng chính phủ

Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( Cục quản lý đấu
thầu)

Các Bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc
chính phủ (cơ quan
giúp việc đấu thầu)

Các
ban
quản lý
dự án

Các
chủ
đầu tư

DNNN

Nguồn: www.mpi.gov.vn

UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung
ương(cơ quan đấu thầu

thuộc sở kế hoạch và
đầu tư)

UBNN quận,
huyện, thị xã
(bộ phận quản
lý đấu thầu)

Chủ
đầu tư

DNNN

Các
ban
quản
lý dự
án

Sơ đồ 1.1: Quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu và mua
sắm công của Việt Nam.
b. Xây dựng đội ngũ công chức thực hiện công tác quản lý, điều
hành hoạt động đấu thầu
Việc mua sắm công thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tởng chi
tiêu tồn xã hội. Chủ đầu tư (bên mua) thường do Nhà nước bổ nhiệm
hoặc giao trọng trách (được dùng tiền của Nhà nước để chi tiêu cho
các mục tiêu công cộng). Xây dựng đội ngũ công chức được đào tạo
các nghề chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ. Nhận thức của các cán
bộ mua sắm về chính sách đầu tư và đấu thầu cũng rất khác nhau. Nên
việc cần phải đào tạo, hướng dẫn, đồng thời yêu cầu họ thực hiện

đúng các quy định đã ban hành cho các cấp để quản lý, thực hiện hoạt
động đấu thầu thống nhất nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu đã đặt


17

ra của công tác đấu thầu là một đòi hỏi khách quan đối với việc quản lý
hoạt động đấu thầu.
1.1.2.5. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động đấu thầu mua sắm hàng
hóa nhập khẩu cho quốc phịng
Thanh tra, kiểm tra giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo và
xử lý các vi phạm thị trường trong đấu thầu là một chức năng quan
trọng của Nhà nước trong nền kinh tế. Thực hiện chức năng kiểm soát
theo định hướng kế hoạch của hoạt động đấu thầu mua sắm công.
Trong hoạt động đấu thầu việc kịp thời phát hiện và xử lý những sai
sót, ách tắc, đở vỡ và những khó khăn, vướng mắc cũng như cơ hội
phát triển, đảm bảo bình thường theo đúng kế hoạch nói chung và uốn
nắn những sai phạm, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng
trong đấu thầu mua sắm cơng nói riêng. Thơng qua cơ chế thanh tra,
kiểm tra giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi
phạm trong đấu thầu là việc làm không thể thiếu trong quản lý nhà
nước đối với hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa nhập khẩu cho
quốc phòng.
Hàng năm theo định kỳ, trên cơ sở các qui định, các định mức đã
ban hành, cơ quan QLNN giám sát hoạt động của các đơn vị nhằm
bảo đảm tính cơng khai minh bạch trong thực hiện những nhiệm vụ đã
đề ra và có những điều chỉnh cần thiết.
1.2. Hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu mua
sắm hàng hố theo hình thức nhập khẩu của Bộ Quốc phòng.
1.2.1. Hiệu quả của đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức

nhập khẩu
Thực hiện đấu thầu mua sắm hàng hóa nhằm tận dụng lợi thế của
các quy luật kinh tế khách quan trong cơ chế thị trường. Thông qua
đấu thầu, chủ đầu tư sẽ có nhiều cơ hội hơn hết để chọn được hàng
hóa đảm bảo chất lượng mong muốn với giá cả hợp lý nhất có thể.
Như vậy, đấu thầu khơng những đem lại lợi ích cho các bên tham gia,
mà còn thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời ngày càng hồn thiện
pháp lý một sân chơi bình đẳng cho các nhà thầu. Mua sắm hàng hóa


18

quốc phòng là một bộ phận của mua sắm công. Do đó đấu thầu mua
sắm hàng hóa quốc phòng là một phương thức để quản lý chi tiêu
quốc phòng tốt trong kinh tế thị trường.
Như vậy Hiệu quả của đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình
thức nhập khẩu là đem lại lợi ích kinh tế cho bên mời thầu, đồng thời
không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các nhà thầu trong
sự hoàn thiện về pháp lý của các quy định trong đấu thầu.
Hiệu quả đấu thầu phải được xem xét trên cả 2 phương diện
về kinh tế xã hội như sau:
- Hiệu quả về kinh tế:
Hiệu quả của hoạt động mua sắm nói chung được biểu hiện
thơng qua số tiền tiết kiệm được sau khi thực hiện việc lựa chọn nhà
thầu và ký kết hợp đồng. Đó chính là hiệu số giữa giá trị dự tốn ban
đầu và số tiền thực tế ký hợp đồng với nhà thầu.
Trước đây, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung việc mua sắm dựa hồn tồn theo giá trị dự tốn được tính theo
những định mức cứng nhắc, khơng thực tế, nên vơ cùng lãng phí và
khơng có hiệu quả kinh tế. Trong q trình hội nhập, việc mua sắm

buộc phải tuân thủ theo một số Điều ước quốc tế, nhất là sau khi Luật
đấu thầu năm 2005 ra đời và các Nghị định hướng dẫn thực hiện của
chính phủ được ban hành các hoạt động mua sắm sử dụng vốn nhà
nước buộc phải áp dụng các hình thức áp dụng các hình thức chọn nhà
thầu theo quy định của pháp luật. Nhờ có sự cạnh tranh của nhà thầu
mà hầu hết các gói thầu đều có giá ký hợp đồng (giá trúng thầu) thấp
hơn so với dự toán ban đầu, như trong bảng số liệu thống kê về kết
quả đấu thầu mua sắm công sử dụng vốn nhà nước sau đây:


19

Bảng 1.1: Kết quả đấu thầu mua sắm công sử dụng vốn nhà nước
Đơn vị: triệu USD.

Năm

Tổng giá
trị dự toán

2000

3.646,00

Tổng giá
trị trúng
thầu
3.190,00

456,00


Tỷ lệ giảm
sau đấu
thầu (%)
12,50

2001

5.068,00

4.559,00

527,00

10,50

2002

5.819,00

5.320,00

498,00

8,60

2003

2.500,10


2.236,40

263,70

10,50

2004

3.929,90

3.716,90

213,00

5,42

2005

4.438,10

4.285,43

152,67

3,44

2006

6.800,00


6.443,68

356,32

5,24

2007

10.330,20

9.953,31

377,05

3,65

2008

14.855,82

14.042,77

812,60

5,47

20092010

15.200,1


14.789,00

411,10

2,70

Mức độ giảm
sau đấu thầu

Nguồn: Bộ KH&ĐT
- Hiệu quả xã hội:
Công tác đấu thầu tạo ra sự cạnh tranh để làm động lực cho sự
phát triển. Nếu trước đây (khi chưa có quy định pháp luật về đấu thầu
mua sắm cơng) một cơng ty có được hợp đồng nhờ vào những mối
quan hệ. Nhưng kể từ khi có khung khở pháp luật về đấu thầu mua
sắm cơng (đặc biệt là sau khi có Luật Đấu thầu năm 2005), cơng ty
này phải chứng minh là có đủ kinh nghiệp và năng lực; có giải pháp
được đánh giá là khả thi và giá cả phải cạnh tranh với các nhà thầu
khác mới có thể có được hợp đồng. Chính vì thế, nếu như các nhà thầu


20

khơng tự cải thiện mình, tăng cường phát triển để cạnh tranh và tồn tại
thì sẽ tự đào thải mình ra khỏi cuộc chơi.
Nhờ có sự cạnh tranh mà mơi trường kinh doanh ngày càng hồn
thiện về chính sách. Thực tế hoạt động của các doanh nghiệp trên
thương trường tạo nên bức tranh sinh động nhất giúp cho các nhà
hoạch định chính sách, các nhà quản lý đưa ra các giải pháp kịp thời
nhằm tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, cơng bằng và minh

bạch. Như vậy, hoạt động mua sắm cơng chỉ có hiệu quả khi áp dụng
các quy định về đấu thầu.
Hiệu quả mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu phục vụ
cho Quốc phòng còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Về lý luận hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói chung
là sự so sánh giữa kết quả thu được so với chi phí bỏ ra.
Kết quả đầu ra
Hiệu quả nhập khẩu = ------------------------ [53;41]
Chi phí đầu vào
Khi đề cập đến hiệu quả kinh tế của nhập khẩu người ta thường
nói đến hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội. Trong đó
hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động nhập khẩu
của từng doanh nghiệp, từng thương vụ, từng mặt hàng nhập khẩu.
Còn hiệu quả kinh tế xã hội mà nhập khẩu đem lại cho nền KTQD là
sự đóng góp vào việc phát triển sản xuất, đỏi mới cơ chế, tăng năng
suất lao động xã hội, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân. Trong nhập khẩu còn xét đến hiệu quả chi phí bộ
phận và chi phí tởng hợp; hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh. Hiệu
quả tuyệt đối là hiệu quả được tính tốn cho từng phương án cụ thể
bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Hiệu
quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phương án với nhau.
Những lý luận cơ bản trên về hiệu quả kinh tế của hoạt động
nhập khẩu thông thường đề cập ở trên làm cơ sở để đánh giá hiệu quả
của hoạt động nhập khẩu hàng hóa cho Bộ Quốc phòng, một lĩnh vực


21

khó khăn phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau giữa các nhà

kinh tế và các nhà quân sự, hơn nữa đây còn là lĩnh vực nhạy cảm do
tính đặc thù hàng hóa và cơ chế quản lý nhập khẩu hàng hóa cho quốc
phòng.
Trước hết từ giác độ kinh tế có thể phân loại hoạt động nhập
khẩu cho quốc phòng chia thành hai dạng cơ bản: phục vụ các hoạt
động phi sản xuất và phục vụ hoạt động sản xuất quốc phòng. Các
hoạt động phi sản xuất như huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu. Đây là những hoạt động cơ bản tất yếu của quân đội. Các hoạt
động này chịu sự chi phối của các quy luật quân sự, quy luật chiến
tranh. Còn các hoạt động sản xuất quân sự chủ yếu diễn ra trong các
doanh nghiệp quốc phòng nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ hoạt
động quốc phòng, sản xuất tư liệu sinh hoạt cho quân đội và các dịch
vụ quốc phòng. Các hoạt động sản xuất, dịch vụ quốc phòng chịu sự
chi phối của các quy luật kinh tế quân sự. Chỉ tiêu tổng hợp nhất phản
ánh trình độ vận dụng các quy luật khách quan nói trên là hiệu quả.
Điểm chung nhất giữa hoạt động nhập khẩu cho sản xuất và
nhập khẩu trong lĩnh vực quốc phòng là sự hao phí lao động sống và
lao động vật hố nhưng hình thức thể hiện lại hồn tồn khác nhau:
Nhập khẩu cho sản xuất thì tạo ra sản phẩm xã hội còn nhập khẩu cho
quốc phòng lại thuần tuý tiêu dùng sản phẩm xã hội. Nếu tiêu dùng
quốc phòng tăng lên thì các tiêu dùng khác của xã hội giảm xuống và
ngược lại. Bởi vậy V. I Lênin đã viết "hồng quân công nông cũng cần
được xây dựng với chi phí ít nhất về lực lượng và phương tiện mà đạt
kết quả cao nhất" Tư tưởng của Lênin đưa ra một vấn đề quan trọng
của tư duy kinh tế và đánh giá hoạt động quốc phòng nói chung và
nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng nói riêng là phải thực hành tiết
kiệm ở mức tối đa các loại chi phí [57;45].
Đối với các nước phát triển và các nước trong khu vực thì chỉ
tiêu cho quốc phòng là khoản chi tiêu lớn nhất của Chính phủ, trong
đó chi tiêu cho mua sắm, nhập khẩu vũ khí trang bị đảm bảo hoạt

động của quân đội chiếm tỷ lệ khá lớn. Thực chất sản phẩm dùng cho
quốc phòng là một trong số ít các ví dụ về hàng hóa cơng cộng thuần


22

tuý. Đa số mọi người sẽ không biết chúng ta sẽ bảo vệ tổ quốc được
thêm bao nhiêu khi chi thêm 1 triệu hoặc 1 tỷ đồng cho quân sự. Việc
đánh giá lợi ích hay kết quả thu được của các khoản chi tiêu thêm
thường dựa vào các nhà quân sự. Song các chuyên viên này thường
thiên vị nghiêng về việc tăng chi tiêu cho các công việc mà họ đảm
nhiệm.
Luận văn nhất trí với phương pháp đánh giá hiệu quả của nhập
khẩu, chi tiêu của quốc phòng thông qua phương pháp phân tích hiệu
quả - chi phí do nhà kinh tế học William Kaufman thuộc viện công
nghệ Masschussett và viện Brookings đưa ra đã được Bộ Quốc phòng
Mỹ và các nước Tây Âu sử dụng và đánh giá chỉ tiêu hiệu quả. Đó là
sự so sánh một cách chi tiết các phương thức khác nhau để đạt những
mục tiêu tương tự [49;372].
Phương pháp đánh giá này dựa trên đặc điểm riêng của nhập
khẩu Quốc phòng bởi vì phần lớn những hoạt động nhập khẩu trong
lĩnh vực này không được thực hiện trên thị trường cạnh tranh hồn
hảo. Ở đó có nhiều người mua và người bán. Còn ở đây chỉ có một
người mua tầm cỡ. Đó là chính phủ (Bộ Quốc phòng). Có một số ít
người (và ln chỉ có một số ít) có khả năng cung cấp và họ đang cạnh
tranh với nhau. Để có được kết quả tốt nhất. Bộ Quốc phòng thường
phải nhờ vào việc đấu thầu, những người cung cấp đặt giá bán của
mình và Bộ Quốc phòng sẽ chọn mua của người nào có giá bán thấp
nhất. Trong thực tế thường xảy ra tình trạng giá lên cao hơn mức chi
phí mà người cung cấp dự tính ban đầu, nhất là đối với loại vũ khí mới

hoặc trong q trình đấu thầu các nhà thầu phải có giá thấp nhất để
thắng thầu, trong khi đó Chính phủ khơng thể đưa ra mức phạt với các
nhà cung cấp khi họ không đảm bảo thực hiện cung cấp đúng yêu cầu,
sau khi họ đặt giá thấp để trúng thầu hoặc để chuyển sang nhà cung
cấp khác thì khi họ đặt họ đặt giá thấp để trúng thầu hoặc để chuyển
sang nhà cung cấp khác thì khi đó mọi việc đã rất tốn kém rồi. Ngồi
ra có thể còn có sự "thoả thuận ngầm" giữa người nhập khẩu với
người cung ứng trên nhiều phương diện khác nhau. Mặc dù còn nhiều
điều khơng hồn hảo và khó khăn, nhưng phương pháp phân tích hiệu


23

quả - chi phí đã tính đến sự so sánh, cạnh tranh trong nhập khẩu hàng
hóa quốc phòng. Cạnh tranh là một thuật ngữ với nghĩa chủ yếu là
phản ánh sự đấu tranh, so sánh giữa các đối tượng cùng loại, đồng giá
trị nhằm đạt được những ưu thế, những lợi ích theo mục tiêu xác định.
Cạnh tranh là sự kiểm tra, là giới hạn đối với tính phí hiệu quả của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực công cộng, là biện pháp khuyến khích các
doanh nghiệp cạnh tranh nhau khi thu hút khách hàng về phía mình,
cố gắng tìm ra sự kết hợp trong dịch vụ của mình để có thể đáp ứng
một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đây chính là cơ sở lý luận
để thực hiện đấu thầu trong nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu hàng hóa cho quốc phòng ở Việt Nam thực
hiện theo nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Bộ Quốc
phòng tổ chức thực hiện" đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh tế trong
điều kiện ngân sách eo hẹp, vẫn phải "đi tắt, đón đầu" tăng cường tiềm
lực cho quốc phòng trong hồn cảnh khu vực hố, tồn cầu hố. Theo
tác giả cần dựa trên phân loại hàng hóa theo tính chất và cơ chế bảo
đảm, nghĩa là đối với hàng hóa nhập khẩu hình thành nên tài sản đặc

biệt là hàng hóa đặc biệt, có độ nhạy cảm cao, hơn nữa lại hạn chế
nguồn cung cấp và do ngân sách thì chỉ cần hạn chế tính phi hiệu quả
của nhập khẩu sau khi được tư vấn hoặc xem xét chào hàng cạnh
tranh. Còn các loại hàng hóa khác như hàng hóa hình thành tài sản
chun dụng, phục vụ cơng tác quản lý, thông dụng, dụng cụ phụ tùng
nguyên vật liệu và các loại vật tư kỹ thuật phục vụ cho các dự án với
nguồn cung cấp nhập khẩu từ nước ngoài do nguồn ngân sách thường
xuyên trang trải cần đặt mục tiêu hiệu quả thông qua tiết kiệm ngân
sách, tiết kiêm các loại chi phí bằng đấu thầu. Hiệu quả nhập khẩu
hàng hóa cho quốc phòng đồng nghĩa với tiết kiệm, cần phải tiết kiệm
tất cả các loại chi phí: chi phí cá biệt, chi phí lao động xã hội, chi phí
trong nước và chi phí quốc tế, chi phí nghiên cứu, triển khai và chi phí
bảo hành. Phải thực hành tiết kiệm trong tất cả các khâu, từ khâu phân
công, phân cấp, lập kế hoạch nhập khẩu; giao dịch đàm phán ký kết
hợp đồng; Tổ chức thực hiện và theo dõi quản lý sử dụng các loại
hàng hóa nhập khẩu ở các quân binh chủng. Những cán bộ hoạt động


24

nhập khẩu đòi hỏi phải tinh thông các loại vũ khí trang bị, xác định
đúng mục tiêu của từng hợp đồng, xây dựng các phương án nhập khẩu
để lựa chọn so sánh, thẩm định chất lượng và đặc biệt rất cần "Cái
tâm" của cán bộ chiến sĩ trong thực hành tiết kiệm.
1.2.2. Hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt đợng đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của Bợ Quốc phịng.
Như đã đề cập ở trên quản lý Nhà nước về đấu thầu mua sắm
nhập khẩu hàng hàng hóa cho quốc phòng thực chất là quản lý nhà
nước đối với hoạt động đấu thầu mua sắm cơng, trong đó nhà nước
thơng qua Bộ Quốc phòng dùng quyền lực của mình để quản lý hoạt

động mua sắm dùng vốn nhà nước trong Bộ để hoạt động mua sắm
này đạt được hiệu quả cao, chúng ta phải làm rõ hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hoạt động đấu thầu mua sắm công.
- Hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu mua
sắm công
Hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu mua sắm
công là hiệu quả của sự tác động của nhà nước vào hoạt đấu thầu
thông qua việc xây dựng, ban hành, thực hiện các quy định pháp luật
làm cho hệ thống được vận hành đúng cách, giảm thiểu thủ tục hành
chính nhưng vẫn đạt được các mục tiêu cơ bản của đấu thầu là công
bằng, công khai minh bạch hiệu quả kinh tế và bảo đảm cạnh tranh
trong mua sắm các hàng hóa, dịch vụ và xây dựng các cơng trình.
Việc tác động đúng cách được xác định là xây dựng một khung
pháp lý chung, thống nhất và rõ ràng trong hoạt động đấu thầu mua
sắm cơng, trong đó việc tổ chức soạn thảo, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về chính sách chế độ về đấu thầu mua sắm
công thống nhất, ổn định phù hợp với các văn bản pháp luật khác có
liên quan và thông lệ quốc tế tạo hành lang pháp lý minh bạch, cụ thể
cho việc lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng trong quá trình mua
sắm nhằm đạt được các chỉ tiêu là mua sắm được hàng hóa và dịch vụ
đáp ứng được yêu cầu của mình về số lượng, chất lượng, tiến độ với
chi phí thấp nhất; đảm bảo được tính thống nhất trong tồn bộ q
trình thực hiện trên cơ sở hướng dẫn và tổ chức thực hiện các chính


25

sách về đấu thầu mua sắm công cho những tổ chức, cá nhân liên quan
đến hoạt động đấu thầu mua sắm công và kịp thời uốn nắn những sai
phạm, những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong quá trình đấu thầu

mua sắm công thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết các
khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong đấu thầu mua sắm công.
- Hiệu quả của quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của Bộ Quốc phịng
Như trên đã phân tích hiệu quả của quản lý nhà nước đối với
hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa nhập khẩu của Bộ Quốc phòng
thực chất là hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu
mua sắm công. Tuy vậy, do đặc điểm, tính chất của hoạt động nhập
khẩu cho quốc phòng Hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
đấu thầu mua sắm hàng hóa nhập khẩu của Bộ Quốc phòng còn phải
được xem xét chung với hiệu quả của hoạt động nhập khẩu và hoạt
động đấu thầu mua sắm hàng hóa của Bộ Quốc phòng, các nội dung
này đan xen, hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, và là tổng hợp của các loại
hiệu quả trên.
Tóm lại, hiệu quả QLNN đối với hoạt động đấu thầu mua sắm
hàng hóa theo hình thức nhập khẩu của Bộ Quốc phịng là thực hiện
nhiệm vụ đề ra với chi phí thấp nhất hoặc tiết kiệm nhất.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về
hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hố theo hình thức nhập khẩu
của Bộ Quốc phịng.
Nhân tố ảnh hưởng hiệu quả QLNN đối với hoạt động đấu thầu
mua sắm nhập khẩu hàng hóa quốc phòng bao gồm các nhân tố chủ
quan và khách quan sau:
1.3.1. Sự hoàn thiện mục tiêu và hệ thống văn bản QLNN về
hoạt đợng đấu thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức nhập khẩu
của BQP.
Xuất phát từ hai nhiệm vụ chiến lược của Quân đội cần phải
được trang bị vũ khí, các phương tiện kỹ thuật hiện đại để nâng cao
sức chiến đấu, sẵn sàng đập tan ý đồ tiến công từ bên ngoài, tạo thế



×