Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật đông lạnh tinh dịch ngựa và ứng dụng trong thụ tinh nhân tạo tại trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.45 KB, 90 trang )

Đại học thái nguyên
Trờng Đại học nông lâm

Vũ Đình Ngoan

Bớc đầu nghiên cứu kỹ thuật đông lạnh tinh dịch ngựa
và ứng dụng trong thụ tinh nhân tạo tại Trung tâm
nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi

Chuyên ngành : Chăn nuôi
M số

:

60.62.40

Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp

Ngời hớng dẫn:
1. TS Đào Đức Thà
2. PGS.TS Trần Văn Tờng

Thái Nguyên 2007


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho
việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong
luận văn này được ghi rừ nguồn gốc trong phần phụ lục.
Tác giả



Vũ Đình Ngoan


Lời cảm ơn
Sau quá trình học tập, nghiên cứu chúng tôi đã hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện và giúp đỡ của
Ban giám hiệu nhà trường, Khoa sau đại học, Phòng đào tạo khoa học và hợp
tác quốc tế, các thầy giáo cô giáo Khoa chăn nuôi thú y - Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc TS Đào Đức Thà, PGS TS Trần Văn
Tường đã đầu tư công sức và thời gian hướng dẫn, giúp đỡ tận tình trong suốt
quá trình triển khai nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc, các phòng ban trạm trại, tập thể
cán bộ công nhân viên thuộc Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi
miền núi, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn Ban giám đốc, Phòng đào tạo thông tin, Phòng
khoa học kế hoạch và hợp tác quốc tế, Bộ môn sinh sản và thụ tinh nhân tạo Viện chăn nuôi quốc gia.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới bạn bè đồng nghiệp và người thân
trong gia đình với sự quan tâm động viên và tạo điều kiện về vật chất, tinh thần
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trước những sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin trân trọng gửi tới các thày giáo, cô giáo và các vị trong hội đồng
chấm luận văn lời cảm ơn và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 10 năm 2007
Tác giả

Vũ Đình Ngoan



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1. Đặt vấn đề

1

2. Mục đích của đề tài

2
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

3

1.1.1. Nguồn gốc ngựa

3

1.1.2. Một số phương thức chăn nuôi ngựa hiện nay

3

1.1.3. Sinh lý sinh sản ngựa đực


5

1.1.3.1. Thành thục về tính dục

5

1.1.3.2. Cấu tạo bộ máy sinh dục ngựa đực

5

1.1.3.3. Tinh dịch, sự hình thành tinh dịch ở ngựa đực

9

1.1.4. Cấu tạo và kích thước âm đạo giả của ngựa

16

1.1.5. Các chỉ tiêu đánh giá số lượng, chất lượng tinh dịch ngựa

15

1.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng tới số lượng, chất lượng tinh dịch ngựa

20

1.1.7. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức sống tinh trùng ngựa ở ngoài cơ thể

21


1.1.8. Giao phối và thụ thai ở ngựa

23

1.2. Cơ sở khoa học kỹ thuật đông lạnh tinh dịch ngựa
1.2.1. Một số nguyên lý cơ bản về đông lạnh tinh dịch ngựa

24
26

1.2.1.1. Hiện tượng đông băng chất lỏng

26

1.2.1.2. Ảnh hưởng của đông băng lên tế bào tinh trùng

27

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức sống tinh trùng trong đông lạnh

29

1.2.3. Môi trường pha loãng, bảo tồn tinh dịch ngựa

31

1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.3.1. Tình hình nghiên cứu về thụ tinh nhân tạo và đông lạnh tinh


36
36

dịch ngựa trên thế giới
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về thụ tinh nhân tạo và đông lạnh tinh

39

dịch ngựa tại Việt Nam
CHƯƠNG 2

42

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

42
42


43

2.1.2. Vật liệu nghiên cứu
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

45

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu


45

2.2.2. Thời gian nghiên cứu

45

2.3. Nội dung nghiên cứu

45

2.4. Phương pháp nghiên cứu

45

2.4.1. Khai thác tinh dịch ngựa

45

2.4.2. Đánh giá tinh dịch ngựa

45

2.4.2.1. Đánh giá tinh dịch ngựa bằng phương pháp thường quy

45

2.4.2.2. Đánh giá tinh dịch bằng phần mềm Sperm Vision 3.0

49


2.4.3. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu

50

2.4.4. Các bước tiến hành trong nghiên cứu đông lạnh tinh dịch ngựa

51

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Chuẩn bị âm đạo giả và khai thác tinh dịch ngựa

52

3.2. Chuẩn bị dung dịch ly tâm và môi trường đông lạnh

54

3.2.1. Ly tâm tinh dịch ngựa

54

3.2.2. Đông lạnh tinh dịch ngựa

56

3.2.3. Nhỏ viên


57

3.3. Một số đặc điểm sinh học tinh dịch ngựa

58

3.3.1. Hình thái tinh trùng ngựa

58

3.3.2. Các chỉ tiêu sinh học tinh dịch ngựa

58

3.4. Kết quả đông lạnh tinh dịch ngựa

63

3.4.1. Chất lượng tinh trùng trước và sau ly tâm

63

3.4.2. Chất lượng tinh trùng trước và sau đông lạnh

66

3.5. Kết quả theo dõi vận tốc và chiều dài chuyển động tinh trùng ngựa

71


3.6. Kết quả phối giống bằng tinh đông viên

74

CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

4.1. Kết luận

77

4.2. Đề nghị

77
TÀI LIỆU THAM KHẢO

78


Danh mỤC c¸c b¶ng trong luËn v¨n

Bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1 Thành phần hóa học của tinh dịch ngựa

9


Bảng 1.2 Thành phần các chất có trong tinh thanh ngựa

14

Bảng 1.3 Độ tuổi ngựa ảnh hưởng đến thể tích tinh dịch và nồng độ tinh trùng

20

Bảng 1.4 Một số môi trường rửa tinh dịch ngựa đã được các tác giả sử dụng 37
Bảng 1.5 Một số môi trường đông lạnh tinh dịch ngựa đã được sử dụng

38

Bảng 2.1 Một số chỉ tiêu kỹ thuật đực giống đưa vào khai thác tinh

42

Bảng 2.2 Danh mục hoá chất dùng trong thí nghiệm

43

Bảng 2.3 Danh mục dụng cụ, thiết bị dùng trong thí nghiệm

44

Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu kỹ thuật âm đạo giả của ngựa

52


Bảng 3.2 Thành phần và một số chỉ tiêu lý hoá của dung dịch ly tâm

55

Bảng 3.3 Thành phần môi trường đông lạnh tinh dịch ngựa

55

Bảng 3.4 Kích thước tinh trùng ngựa

58

Bảng 3.5 Chỉ tiêu tinh dịch ngựa khai thác ở vụ xuân hè

59

Bảng 3.6 Chỉ tiêu tinh dịch ngựa khai thác ở vụ thu đông

60

Bảng 3.7 Hoạt lực tinh trùng ngựa sau khi pha với dung dịch ly tâm

64

Bảng 3.8 Một số chỉ tiêu về tinh dịch ngựa sau ly tâm ở hai phương pháp 65
Bảng 3.9 Hoạt lực tinh trùng trước và sau cân bằng ở 2 phương pháp

66

Bảng 3.10 Hoạt lực tinh trùng ngựa sau đông lạnh


68

Bảng 3.11 Hoạt lực tinh trùng ngựa ở các dung dịch giải đông và tốc độ 70
giải đông khác nhau
Bảng 3.12 Vận tốc tinh trùng ở các giai đoạn nghiên cứu

71

Bảng 3.13 Chiều dài chuyển động tinh trùng ở các giai đoạn nghiên cứu

72

Bảng 3.14 Kết quả theo dõi động dục ở ngựa cái

74

Bảng3.15 Kết quả phối giống thử nghiệm TTNT cho ngựa bằng tinh đông viên 75


Danh môc c¸c biÓu ®å trong luËn v¨n

Biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 3.1 Thể tích dịch ngựa ở 2 thời vụ khác nhau


61

Biểu đồ 3.2 Hoạt lực tinh trùng ngựa ở 2 thời vụ khác nhau

63

Biểu đồ 3.3 Hoạt lực tinh trùng ngựa sau khi pha với dung dịch ly tâm

64

Đồ thị 3.1

Hoạt lực tinh trùng ngựa trước và sau cân bằng ở 2 phương pháp

67

Đồ thị 3.2

Hoạt lực tinh trùng ngựa trước và sau đông lạnh

69

Đồ thị 3.3

Vận tốc và chiều dài quãng đường chuyển động

73

Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t trong LUẬN VĂN


TTNT

:

Thụ tinh nhân tạo

V

:

Thể tích tinh dịch

A

:

Hoạt lực tinh trùng

C

:

Nồng độ tinh trùng

R

:

Sức kháng của tinh trùng


K

:

Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình

ASTT

:

Áp suất thẩm thấu

DL

:

Môi trường đông lạnh

TT

:

Tinh trùng

TD

:

Tinh dịch


ĐVT

:

Đơn vị tính


MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO ĐỀ TÀI

Số TT

Tên ảnh

1

: Đàn ngựa giống gốc Trung tâm

2

: Ngựa đực Kabadin

3

: Ngựa đực lai 25% máu Kabadin

4

: Chuẩn bị âm đạo giả

5


: Môi trường ly tâm

6

: Khai thác tinh dịch ngựa

7

: Đánh giá hoạt lực ngay sau khi khai thác

8

: Ly tâm tinh dịch

9

: Tinh dịch ngựa sau ly tâm

10

: Cân bằng tinh dịch ngựa ở 50C

11

: Đánh giá tinh trùng ngựa bằng phần mền Sperm Vision

12

: Chụp hình thái tinh trùng ngựa


13

: Nhỏ viên tinh dịch ngựa trên tấm mica ở nhiệt độ -960C đến -1000C

14

: Dẫn tinh cho ngựa cái tại Trung tâm

15

: Máy đo áp suất thẩm thấu

16

: Hệ thống Sperm Vision

17

: Bảo quản tinh đông viên trong bình nitơ

18

: Nhóm tác giả nghiên cứu

P

P

P


P

P

P


1
Më ®Çu

1. Đặt vấn đề
Thế kỷ 21 là thế kỷ của công nghệ sinh học. Công nghệ sinh học đã tạo
ra những bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng giống cây trồng, vật nuôi.
Nó không những tạo ra các giống có năng suất cao, chất lượng tốt mà còn
thích ứng với điều kiện môi trường sinh thái khác nhau.
Trong những năm gần đây nền chăn nuôi công nghiệp trên thế giới đã
có những tiến bộ vượt bậc do áp dụng những kỹ thuật tiên tiến và công nghệ
sinh học. Đông lạnh, bảo tồn và thụ tinh nhân tạo bằng tinh đông lạnh cho
ngựa cũng là một trong những công nghệ sinh học được ứng dụng rộng rãi
trong ngành chăn nuôi ở các nước phát triển. Đó là một trong những kỹ thuật
có ý nghĩa kinh tế trong việc khai thác tiềm năng di truyền con đực và bảo tồn
các giống quý hiếm, đáp ứng nhu cầu thụ tinh nhân tạo trong chăn nuôi ngựa
cũng như thương mại hóa các sản phẩm tinh dịch ngựa. Ngoài ra, việc sử
dụng tinh đông lạnh còn đảm bảo dễ dàng, thuận lợi, an toàn về dịch bệnh
trong nhân giống. Đông lạnh tinh dịch gia súc còn có ý nghĩa quan trọng
trong thụ tinh nhân tạo vật nuôi, tăng tốc độ cải tiến di truyền và bảo tồn vật
liệu di truyền dưới dạng ngân hàng gen trong thời gian dài, nhất là bảo tồn các
giống gia súc quý hiếm nhằm phục vụ trong sản xuất. Hiện nay nhiều nước
trên thế giới như: Đức, Nhật, Mỹ, Pháp….đã rất thành công trong lĩnh vực

đông lạnh tinh dịch ngựa phục vụ cho thụ tinh nhân tạo hoặc lưu giữ bảo tồn
quỹ gen cũng như thương mại hoá các sản phẩm tinh dịch ngựa.
Ở Việt Nam, nghiên cứu đông lạnh tinh dịch ngựa là việc làm hoàn
toàn mới và độc đáo, vì từ trước tới nay chưa có tác giả nào nghiên cứu về
vấn đề này. Do vậy những kết quả nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản trong chăn
nuôi ngựa trong đó có lĩnh vực đông lạnh tinh dịch ngựa là một việc làm cần
thiết và là một nhu cầu của thực tế sản xuất hiện nay.
Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: ''Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật
đông lạnh tinh dịch ngựa và ứng dụng trong thụ tinh nhân tạo tại Trung
tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi''


2

2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá một số chỉ tiêu sinh học và nghiên cứu lựa chọn môi trường
đông lạnh tối ưu cho tinh dịch ngựa.
- Nghiên cứu đông lạnh tinh dịch ngựa dạng viên đạt tiêu chuẩn phối
giống (hoạt lực tinh trùng sau giải đông đạt tỷ lệ ≥ 30%)
- Thử nghiệm phối giống thụ tinh nhân tạo cho ngựa cái bằng tinh đông
lạnh dạng viên.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Nguồn gốc của ngựa
Ngựa có vị trí trong hệ thống phân loại động vật như sau:

Ngựa thuộc giới động vật

: Animalia

Ngành

: Chordata

Ngành phụ có xương sống

: Vertebrata

Lớp có vú

: Mammalia

Bộ guốc lẻ

: Perissdactyla

Họ

: Equydae

Chủng

: Equus

Loài


: Equus caballus

Tên

: Caballus
(Trích Đặng Đình Hanh, 2002) [6]

1.1.2. Một số phương thức chăn nuôi ngựa hiện nay
Ngựa được chăn nuôi rộng khắp ở các vùng địa lý, kinh tế với tập quán
hướng sử dụng khác nhau đã tạo nên những phương thức chăn nuôi khác nhau.
Phương thức chăn nuôi bầy đàn: Ngựa được chăn nuôi với số lượng
vừa phải trong các hộ gia đình hay trong các nông trang trại với mục đích
kết hợp làm việc và sinh sản. Phương thức này đã tồn tại từ lâu đời đối với
những dân du mục ở các vùng thảo nguyên hoặc những vùng chăn nuôi chưa
phát triển. Với phương thức này ngựa đực và ngựa cái được nuôi chung đàn,
phối giống tự do, ít có sự tác động của con người. Ở nước ta phương thức
chăn nuôi này đã tồn tại ở một số địa phương: Bắc Kạn, Lào Cai, Cao Bằng,
Hà Giang….Ngựa được quản lý trong hộ gia đình trong vụ trồng trọt từ tháng
11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Những ngày thả rông cũng là mùa sinh
sản, ngựa đực và ngựa cái phối giống tự do. Phương thức chăn nuôi này cho
năng suất rất thấp gây hậu quả cận huyết, dẫn đến khả năng sinh trưởng kém.


4

Phương thức chăn nuôi bán chăn thả: Phương thức chăn nuôi này được
áp dụng với những người chăn nuôi có định hướng, có mục đích. Người chăn
nuôi có chọn giống, có tác động khoa học kỹ thuật và tuyển ngựa theo mục
đích riêng. Theo Heriquez (1980) [30], phương thức này có hai hình thức
chăn nuôi đó là:

Chăn nuôi ngựa theo từng cá thể: Những ngựa đực và ngựa cái chuyên
dùng để nhân giống, hoặc chuyên dùng cho việc sản xuất gắn liền với từng
chủ hộ và những yêu cầu nhất định của người chăn nuôi. Ngựa được tuyển
chọn theo mục đích riêng và được quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng riêng biệt.
Việc chăn thả ngựa chỉ là hình thức vận động, hoặc vận động có quy trình
kỹ thuật. Phương thức chăn nuôi này đã có tổ chức phối giống, có sự theo
dõi chặt chẽ ngựa đực và ngựa cái, có áp dụng kỹ thuật phối giống và theo
dõi, đánh giá khả năng sinh sản của ngựa. Sử dụng phương thức chăn nuôi
này nếu người chăn nuôi không được trang bị đầy đủ về kỹ thuật sinh sản
của ngựa thì tỷ lệ sinh sản của đàn ngựa sẽ thụ thai thấp.
Chăn nuôi theo nhóm được áp dụng tại các nông hộ hoặc trong các
nông trang trại, số lượng ngựa đực và ngựa cái được điều chỉnh theo tỷ lệ và
được tuyển chọn nuôi kết hợp sinh sản và làm việc. Phương thức chăn nuôi
này có áp dụng những tiến bộ kỹ thuật nhất định trong việc chọn giống và
nâng cao năng suất sinh sản.
Ở Việt Nam, phương thức chăn nuôi thả rông mang tính phổ biến ở
các tỉnh trung du và miền núi. Do việc giao phối tự nhiên là hoàn toàn ngẫu
nhiên và không có sự tác động kiểm soát của con người dẫn đến mức độ cận
huyết cao. Riêng ngựa cái bạch là được theo dõi và phối giống có chọn lọc
với những đực bạch giống tốt. Chỉ có ở các Trung tâm nghiên cứu, việc quản
lý đực giống và ghép đôi giao phối được kiểm soát chặt chẽ nên khống chế
được yếu tố cận huyết.


5

1.1.3. Sinh lý sinh sản ngựa đực
1.1.3.1. Thành thục tính dục.
Thành thục tính dục là con vật có khả năng giải phóng giao tử và biểu
lộ đầy đủ các hệ quả tập tính sinh dục. Về cơ bản, thành thục tính dục là kết

quả của sự tăng tiết hoạt động gonadotropin và khả năng đảm đương của các
tuyến sinh dục trong hoạt động sinh sản, đồng thời là sự sản sinh steroid và
sản sinh giao tử. Với các loài, giống gia súc khác nhau, thời gian xuất hiện
tính thành thục cũng khác nhau. Thành thục về tính sớm hơn thành thục về
thể về thể vóc. Ở ngựa đực có thời gian thành thục về tính ở khoảng 12 - 20
tháng tuổi (Nguyễn Xuân Tịnh, 1996) [15].
Thành thục về tính phụ thuộc vào: Giống gia súc, chế độ dinh dưỡng,
giới tính và thời tiết khí hậu. Ở con đực, thành thục về tính là khi dịch hoàn
và các tuyến sinh dục phụ đã phát triển tương đối hoàn thiện, có khả năng sản
xuất tinh dịch và xuất tinh. Ngựa đực thành thục về tính vào khoảng thời gian
18 - 24 tháng tuổi, khi đó khối lượng cơ thể chiếm 60 - 70% khối lượng cơ
thể lúc trưởng thành (Lê Viết Ly, 1999) [8].
1.1.3.2. Cấu tạo bộ máy sinh dục ngựa đực
* Dịch hoàn (Testis): Dịch hoàn là những cơ quan đôi, sẵn có chức năng
kép: Sản sinh giao tử đực (tinh trùng) và sản sinh nội tiết tố (hormon sinh dục
testosteron). Khối lượng dịch hoàn ngựa đực thường bằng 0,34% khối lượng
cơ thể. Khả năng sản xuất tinh trùng/1 ngày đêm của 2 dịch hoàn ngựa là 5,3
tỷ tinh trùng (với ngựa có khối lượng 1000kg và dịch hoàn là 340g), (Nguyễn
Tấn Anh, 2003) [2].
Ở ngựa, dịch hoàn trong thời kỳ bào thai nằm trong xoang bụng, đến
tháng thứ 7 thì chui qua ống bẹn vào trong bao dịch hoàn. Thời kỳ ngoài bào
thai, dịch hoàn nằm ở giữa, 2 bên là bẹn (Phạm Thị Xuân Vân, 2001) [18].
Dịch hoàn sa xuống qua vòng bẹn, vào trong bao dịch hoàn. Trước khi
hình thành việc sa xuống, dây chằng mào dịch hoàn dãn ra nhiều, sau khi sa
xuống xong, dây chằng mào dịch hoàn thoái hoá. Cả hai quá trình được xem
là quan trọng trong cơ chế sa xuống của dịch hoàn. Đôi khi dịch hoàn không


6


sa vào bao dịch hoàn được (dịch hoàn ẩn) không đáp ứng được nhu cầu nhiệt
độ của dịch hoàn và dịch hoàn phụ, mặc dù chức năng bài tiết của dịch hoàn là
không suy chuyển. Vì vậy con đực có dịch hoàn không sa vào trong bao dịch
hoàn được (dịch hoàn ẩn) vẫn biểu hiện tính dục bình thường nhưng vô sinh.
Cấu tạo dịch hoàn gồm: Bên ngoài là lớp giác mạc riêng (tunica
vaginalis propia) bằng một lớp sợi vững chắc do phúc mạc kéo dài đến hình
thành. Phía trong lớp giác mạc riêng là tổ chức liên kết màng mỏng gọi là
màng trắng (tunica albuginea), lớp màng trắng đi sâu vào trong chia dịch hoàn
thành nhiều múi, mỗi múi đều chứa những ống sinh tinh uốn khúc (tubuli
albuginea) trong đó tinh trùng được hình thành. Tất cả các ống sinh tinh đều
hướng về vách giữa của dịch hoàn. Những ống sinh tinh đi vào vách giữa của
dịch hoàn thì biến thành ống tinh thẳng (tubili recti) và đan chéo nhau tạo
thành mạng tinh (Retetestis). Mạng tinh cùng với vách giữa của dịch hoàn tạo
thành thể Haimo (Highmor).
* Dịch hoàn phụ (Epididimis). Gồm ba phần: Đầu dịch hoàn phụ, thân
phụ dịch hoàn, đuôi dịch hoàn phụ.
Đầu dịch hoàn phụ có rất nhiều ống dẫn tinh ra (13 đến 20 ống) đính
vào ống dẫn tinh của dịch hoàn phụ, tạo thành một cấu trúc dẹt, gắn vào một
đầu của dịch hoàn.
Thân phụ dịch hoàn, phần này hẹp nối tiếp sau đầu dịch hoàn phụ và
tận cùng bên kia của dịch hoàn.
Đuôi dịch hoàn phụ, phần này nối tiếp sau thân dịch hoàn phụ và rộng
hơn thân dịch hoàn phụ. Đường viền quanh của đuôi dịch hoàn phụ là đặc
điểm có thể thấy được ở dịch hoàn phụ ở gia súc còn sống.
Ở ngựa dịch hoàn phụ cũng là một ống có đường kính tăng dần từ 70
µm lên tới khoảng 500µm, chiều dài 70 - 75 cm, khối lượng 40g, (Nguyễn
Tấn Anh, 2003) [2]. Một lượng lớn chất dịch hàng ngày ra khỏi dịch hoàn và
hầu hết nó bị hấp phụ ở đầu dịch hoàn phụ ở đoạn khỏi đầu của ống tinh của
tinh hoàn phụ. Sự vận chuyển tinh trùng thông qua dịch hoàn phụ 7,5 - 10



7

ngày, đó là dòng chảy của chất dịch màng lưới, do hoạt động của biểu mô có
nhung mao của các ống dãn ra và do sự co rút của thành cơ của ống dịch hoàn
phụ. Sự thành thục của tinh trùng xảy ra trong quá trình đi qua dịch hoàn phụ.
Đặc biệt trong dịch hoàn phụ có đủ các điều kiện để tinh trùng sống, phát
triển thành thục và có thể giữ được năng lực thụ tinh trong vài tuần lễ, đó là :
- pH yếu dao động 6,2 - 6,8: Kìm hãm sự vận động của tinh trùng .
- Yếm khí, thiếu oxy. Nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt 3 - 40C, tinh trùng ít
P

P

vận động và giảm tiêu hao năng lượng.
- Dịnh hoàn phụ hấp thu một số muối khoáng giữ cho ASTT không
thay đổi.
- Các vách của phụ dịch hoàn có nhiều mạch quản và lâm ba quản là
nguồn cung cấp năng lượng cho tinh trùng.
- Đuôi tinh trùng tiết ra lipoproteit bao lấy tinh trùng làm cho tinh trùng
mang điện âm. Giữa các tinh trùng có lực đẩy tĩnh điện do mang điện cùng
dấu làm cho tinh trùng không ngưng kết thành khối.
Các ion kim loại Fe++, Pb++ hoặc axit sẽ làm cho tinh trùng mất điện
P

P

P

P


ngưng kết lại với nhau và mất khả năng thụ thai.
* Các tuyến sinh dục phụ: (Tuyến cầu niệu đạo, tuyến tiền liệt, tinh nang,
tuyến niệu quản)
Tuyến cầu niệu đạo hay tuyến củ hành, tuyến Cowper. Ở ngựa tuyến này
to hơn ở bò và nằm ở gốc thể hang của dương vật. Dịch tiết trong suốt và trung
tính, có tính sát trùng, rửa sạnh và làm trơn niệu đạo trước khi phóng tinh.
Tuyến tiền liệt (Glandula Prostate). Gồm hai phần (phần phụ và phần
phân tán). Ở ngựa tuyến tiền liệt rất phát triển hoàn toàn nằm ở bên ngoài và
gồm hai phần nằm ở hai bên nối với nhau bằng một cái cầu. Chất tiết trong suốt
có mùi hăng đặc trưng, lượng chất tiết nhiều tham gia vào thành phần tinh dịch.
Tác dụng tuyến tiền liệt bao gồm:
- Dịch tiết có pH kiềm để trung hoà H2CO3 do tinh trùng sản sinh, có
B

B

B

B

protein hấp phụ CO2 trong môi trường niệu đạo.
B

B

- Dịch tiết có enzim chống ngưng kết tinh trùng.


8


- Dịch tiết tuyến này còn có hormon Prostaglandin dạng PGF2α (PGF2α
B

B

B

khi vào đường sinh dục gia súc cái có tác dụng làm tăng co bóp cơ trơn tử
B

cung và sẽ làm tăng tốc độ vận động của tinh trùng tiến nhanh vào ống dẫn
trứng để thụ tinh. Ứng dụng trong sản xuất khi pha chế tinh dịch nếu bổ sung
một lượng thích hợp Prostaglandin sẽ nâng cao được tỷ lệ thụ thai.
Tuyến tiểu nang/tinh nang (Glandula vesiculares) của ngựa là những
tiểu nang thực sự gồm những túi tuyến hình quả lê, tuyến có thể chứa đầy 130
- 150ml dịch (Nguyễn Tấn Anh, 2003) [2]. Tuyến nằm trong xoang chậu, trên
bàng quang và ống dẫn tinh. Chất tiết của tuyến này không trộn với tinh trùng
mà là dịch keo phèn (mầu trắng hoặc mầu vàng) có chứa γ globulin. Dịch keo
phèn này gặp chất tiết của tuyến tiền liệt thì ngưng đọng lại thành nút bịt kín
âm đạo ngăn không cho tinh dịch trào ngược ra ngoài sau khi giao phối. Mặt
khác, do có nhiều γ globulin nên có tác dụng ngăn không cho vi khuẩn xâm
nhập từ ngoài vào đường sinh dục con cái. Dịch tiết này có fructoz và glucoza
là nguồn năng lượng cung cấp dinh dưỡng cho tinh trùng hoạt động, có enzim
chuyển hóa glucoza thành fructoz. Ngoài ra tinh nang còn có một số chất tiết
khác như axit citric, axit amin, lipit, natri, kali…. tăng cường dinh dưỡng và
hoạt lực cho tinh trùng.
Tuyến niệu quản (Littre-Urethral): Tuyến này ở ngựa được xem như
một phần phân tán của tuyến tiền liệt, nằm rải rác và khó phân biệt.
* Dương vật và bao dương vật.

Cấu tạo gồm 3 thể hổng được tập hợp xung quanh dương vật (thể hải
miên dương vật, thể hang dương vật và thể điều khiển độ dài hữu hiệu dương
vật). Ở ngựa, dương vật khi cương cứng có thể dài 50 - 60cm, đường kính 10 11cm. Quy đầu ngựa hơi loe ra, có túi thừa phía sau hõm tuyến dương vật. Túi
này là nơi chứa chấp tác nhân làm gây nhiễm của ngựa đực có mang bệnh viêm
tử cung truyền nhiễm. (Đặng Đình Hanh, 2002) [6].
Ngựa đực khi bắt đầu xuất tinh, thì đứng yên, mắt lim dim, ghì chặt vào
hông con cái, thân hơi đung đưa nhẹ nhàng. Thời gian giao cấu 1 - 3 phút.


9

1.1.3.3. Tinh dịch và sự hình thành tinh dịch ở ngựa đực
Tinh dịch là dịch lỏng mầu trắng đục, có phản ứng kiềm yếu (pH = 7,27,5), có mùi hăng đặc trưng, gồm tinh trùng và tinh thanh.
Tinh dịch ngựa cũng như tinh dịch của một số loài gia súc khác, là dịch
tiết của cơ quan sinh dục đực khi con đực hưng phấn cao độ và thực hiện
thành công phản xạ sinh dục. Tinh dịch chỉ được hình thành một cách tức thời
khi con đực phóng tinh nghĩa là lúc con đực hưng phấn cao nhất trong quá
trình thực hiện phản xạ giao phối. Tinh dịch gồm tinh trùng (4 - 7%) và tinh
thanh (93 - 96%), (Trần Tiến Dũng, 2002) [4]. Lượng tinh dịch và số lượng
tinh trùng thay đổi theo loài, ở ngựa lượng tinh dịch dao động 50 - 100ml/lần
xuất tinh, thành phần hóa học của tinh dịch gồm có.
Bảng 1.1: Thành phần hoá học của tinh dịch ngựa.
Stt
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

Thành phần
Protein
Glucose
Lipit
Fructoz
Sorbitol
Inositol
Axit citric
Lactic
Ergothioneine
Potassium
Sodium
Photpho
Lưu huỳnh
Clo
Kali
Canxi
Chloride

Magiê

Số lượng
(*) mg/%
(**) mg/ml
533
1,2 - 12
0,82
42
5 - 10
0,02 - 0,08
0,2 - 0,6
0,19 - 0,47
0,06
0,08 - 0,53
26
0,03 - 1,1
1,03
2,57
19
0,02 - 0,07
3
476
62
20
0,26
4,48
3
0,09


(* theo Minovanov. Trích Nguyễn Xuân Tịnh, 1996) [15]
(** theo Mann, 1964; Lake, 1971; Serban, 1982….Trích Davies Morel, 1999) [28]


10

* Tinh trùng.
Tinh trùng là loại tế bào đặc biệt, thích ứng với chức năng vận chuyển,
đưa bộ gen đơn bội của con đực từ bên ngoài vào trong trứng để rồi kết hợp
với bộ gen đơn bội của con cái tạo thành hợ tử.
Sự hình thành: Tinh trùng là giao tử đực được hình thành từ ống sinh
tinh trong dịch hoàn. Tinh trùng được tạo ra từ các tế bào sinh dục nguyên
thủy trong lòng các ống sinh tinh. Vào một thời điểm cùng với sự thành thục
về tính, tế bào sinh dục nguyên thủy tăng lên qua hai lần phân chia, lần phân
chia thứ nhất thành tinh bào sơ cấp rồi thành tinh bào thứ cấp có nhiễm sắc
thể đơn bội. Tinh bào thứ cấp tồn tại không lâu rồi phân chia thành hai tiền
tinh trùng và hoàn thiện dần thành tinh trùng. Khi đã hình thành, tinh trùng
chuyển dần từ dịch hoàn đến dịch hoàn phụ. Trong dịch hoàn phụ, tinh trùng
tồn tại trong môi trường axit nên khả năng hoạt động bị ức chế. Khi tinh
trùng di chuyển trong dịch hoàn phụ, tinh trùng được bao phủ bởi một lớp
lipoproteit để nâng cao khả năng ổn định cho tinh trùng, lớp này có điện tích
âm giúp cho tinh trùng không bị dính tụ nhau.
Hình thái: Tinh trùng ngựa có đầu nhọn, hơn dầy. Tổng chiều dài tinh
trùng 55,0 - 63,6µm, trong đó dài đầu 6,0 - 8,1µm, rộng đầu 3,3 - 4,6µm, dài
thân 8 - 10µm, đường kính thân 0,5µm, dài đuôi 30 - 43µm, đường kính đuôi
0,4µm, (Hiroshi Masuda, 1992) [31].
Cấu tạo: Tinh trùng gồm 3 phần cơ bản (đầu, thân và đuôi)
Phần đầu: Đầu tinh trùng gồm 2 phần chính. Đó là nhân và thể chóp
acrsome. Nhân tinh trùng chiếm 65% toàn bộ thể tích của đầu và là kho duy
nhất chứa toàn bộ thông tin di truyền của con đực từ đời trước truyền sang đời

sau. Trong nhân có chứa Chromatin đậm đặc cao độ, đó là nguồn ADN liên
kết với một protein đặc biệt. Số lượng nhiễm sắc thể trong nhân tinh trùng là
đơn bội. (Barth. A. D, 1989) [22]
Bản chất của nhân là nucleoprotit. Nucleoprotit gồm hai thành phần cơ
bản là nucleic và histin. Hai thành phần này được nối với nhau bằng cầu nối
hoá học NH2-P rất dễ bị đứt bởi các tác động như nhiệt độ cao, ASTT, pH,
B

B


11

rung động…làm tế bào tinh trùng bị chết. Đây là cơ sở để xây dựng nguyên lý
kiểm tra sức kháng của tinh trùng cũng như để pha loãng, bảo quản tinh trùng
được trong các môi trường khác nhau. Trong nguyên sinh chất phần đầu có
chứa nhiều men giúp cho quá trình trao đổi chất, hoạt hoá tinh trùng. Phần
màng có 3 lớp (protein, lipit, protein) là màng bán thấm protein thuận lợi cho
quá trình trao đổi chất, có chức năng định hình tinh trùng.
Trên cùng đỉnh đầu có một lớp màng mỏng gọi là mũ chóp đỉnh. Hay
mũ trước chóp. Dưới mũ trước chóp có cấu tạo hình giải gọi là thể ngọn. Mũ
trước chóp và thể ngọn tạo thành một hệ thống xoang acrosome (thể đỉnh).
Trong xoang acrosome tập trung nhiều men hyaluronidaza, men này không đặc
trưng cho loài và có tác dụng phá vì màng phóng xạ của trứng trong quá trình
thụ tinh. Do vậy sự vẹn toàn của xoang acrsome giữ vai trũ quan trọng và được
coi như là chỉ số xắc suất về khả năng thụ tinh của tinh trùng. Khi bảo tồn tinh
trùng, hệ thống acrosome dễ bị phồng lên, rời khỏi đầu tinh trùng và làm tinh
trùng mất khả năng thụ tinh, nhất là trong môi trường nhược trương (do đó môi
trường pha loãng tinh dịch phải có ASTT tương đồng với ASTT tinh dịch). Đây
cũng là vấn đề cần quan tâm trong quá trình pha chế, bảo tồn và sử dụng tinh

dịch nhằm nâng cao tỷ lệ thụ thai của tinh trùng.
Người ta cho rằng acrsome là một lisosome (tiêu thể hay thể tiêu
bào) đặc biệt, bên trong có chứa các enzim thuỷ phân (acrosine, hyaluronidaza,
photphatase axit, esteras, các hydrolase axit) có liên quan đến quá trình xâm
nhập của tinh trùng qua màng trứng vào bên trong để thụ tinh.
Phần cổ: Cổ tinh trùng rất ngắn, khớp cổ lỏng lẻo dễ đứt, khi tinh trùng
lọt được vào vùng noãn hoàn của trứng thì cổ tách ra khỏi đầu. Tại cổ tập
trung nhiều ty thể (mitocondrias) cung cấp năng lượng cho đuôi hoạt động, ty
thể có cấu tạo 50% protit, 30% lipit tích luỹ lượng lớn ATP nhằm cung cấp
năng lượng cho tinh trùng hoạt động nhưng lại giảm rất nhanh khi nhiệt độ
bảo tồn cao. Trong nguyên sinh chất phần cổ còn chứa một lượng đáng kể là
lipoit. Những năm trước 1856 người ta cho rằng đó là lactine (chất "chống
lạnh" cho tinh trùng ). Sau đó 1952 Bowguth đã chỉ ra rằng đã không phải là


12

lectine mà là plasmalogen (đây là một photpholipit chứa một phân tử axit béo,
một aldehyt của axit béo và một glyxerylphotphoryl-coline khi kết hợp với
một loạt các chất khác cho ra hợp chất có chứa năng lượng cung cấp cho quá
trình hô hấp của tinh trùng chứ không có tác dụng chống lạnh). Do đó, trong
quy trình đông lạnh tinh dịch nhất thiết phải có chất chống lạnh trong môi
trường bảo tồn.
Phần đuôi: Gồm 9 đôi vi ống ngoài xếp đồng tâm bao quanh 2 sợi dọc
ở trung tâm. Cấu tạo này làm tinh trùng có khả năng vận động, di chuyển
trong môi trường tinh dịch và trong đường sinh dục cái. Đuôi có chứa nhiều
lipit. (Nguyễn Tấn Anh, 1996) [1].
* Quá trình trao đổi chất.
Quá trình trao đổi chất của tinh trùng tạo ra năng lượng không được
tinh trùng sử dụng trực tiếp mà được dự trữ dưới dạng ATP (adenozin

triphotphat). Khi tinh trùng vận động tinh trùng lấy năng lượng tại chỗ từ việc
cắt mạch nối cao năng của ATP cổ thân. Trong protit sợi đuôi có 2 chất cơ
bản là spermiozin và spartin. Spermiozin có thể phân giải ATP tạo ra năng
lượng và năng lượng được tạo thành chạy dọc nhờ spartin đến toàn bộ sợi
đuôi làm sợi đuôi co rút và vận động.
ATPaza spermiozine
ATP cổ thân
B

ADP + W

B

ATPaza spermiozine
ADP

AMP + w'

Tinh trùng sống và hoạt động cần phải có năng lượng, năng lượng được
tạo ra từ hoạt động trao đổi chất. Tinh trùng tiến hành phân giải những chất
phức tạp thành những chất đơn giản hơn, đồng thời giải phóng năng lượng
thông qua các phản ứng hoá học dưới tác dụng của các enzim đặc hiệu. Phân
giải yếm khí đường fructoz bằng đường phân yếm khí, oxy hoá đường bằng
đường phân hiếu khí và phân giải ATP.
Quá trình đường phân yếm khí: Trong điều kiện không có oxy (yếm
khí), tinh trùng tiến hành đường phân yếm khí với nguyên liệu là đường


13


fructoz, enzim tham gia là hexokinaza và photphataza để giải phóng năng
lượng dưới dạng ATP và axit lactic.
Fructoz

axit lactic + CO2 + Q (27,7 kcal)
B

B

Như vậy quá trình hô hấp yếm khí của tinh trùng là quá trình đường
phân. Năng lượng thu được trong quá trình này cho mỗi tinh trùng là tương
đối ít, sản phẩm axit lactic trong tinh dịch với nồng độ thấp thì kéo dài thời
gian sống của tinh trùng, còn ở nồng độ cao gây chết tinh trùng hàng loạt.
Axit lactic lại phân ly rất lớn (gấp 2,8 lần axit axetic và 20 lần axit cacbonic).
Do đó [H+] tăng lên gây ức chế quá trình đường phân, đồng thời đầu độc tinh
P

P

trùng. Do vậy môi trường pha loãng cần thiết phải có năng lực đệm.
Quá trình đường phân chỉ xảy ra khi có đường. Trong môi trường dịch
hoàn phụ và ống dẫn tinh hầu như không có đường, thiếu oxy, nhiệt độ thấp hơn
thân nhiệt 3 - 40C nên ở đó tinh trùng ở trạng thái bất động và ''sống lâu''. Khi ra
P

P

ngoài cơ thể, tinh trùng nhận được đường từ chất phân tiết của tuyến tinh nang,
đường nhanh chóng thấm qua màng của tinh trùng nên quá trình đường phân xảy
ra. Khi thiếu fructoz tinh trùng có thể sử dụng glucoza của máu đưa tới vì trong

tinh nang có enzim chuyển hoá glucoza thành fructoz. Đây là cơ sở để ứng dụng
bảo tồn tinh dịch trong điều kiện yếm khí và trên cơ sở đó khi pha loãng tinh
dịch có thể dùng đường glucoza vào thành phần môi trường.
Hô hấp hiếu khí (oxy hoá đường): Hô hấp hiếu khí xảy ra trong điều
kiện tinh trùng được phóng vào đường sinh dục con cái hoặc lấy tinh ra ngoài
để pha chế bảo tồn.
C6H12O6 + 6O2
B

B

B

B

B

B

B

B

6CO2 + 6H2O + 674 kcal
B

B

B


B

Môi trường đường sinh dục con cái, đặc biệt trong giai đoạn động dục
và rụng trứng có đủ điều kiện thuận lợi cho tinh trùng hô hấp hiếu khí: Giầu
oxy (do kết quả tăng sinh mà mở rộng lòng đường sinh dục), giầu glucoza (do
dãn mạch máu tử cung âm đạo - máu đến nhiều).
Giai đoạn đầu của quá trình hô hấp hiếu khí xảy ra như quá trình
đường phân, ở giai đoạn sau axit puryvic được hoạt hoá và đi vào chu trình


14

Krebs để cuối cùng cho ra CO2, H2O và thu được một lượng khá lớn năng
B

B

B

B

lượng dù trữ dưới dạng ATP. Từ một phân tử đường đơn sau khi hoạt hoá có
thể thu được 38 ATP. Quá trình hô hấp tăng lên bởi nhiệt độ, cứ tăng lên 100C
P

P

thì hô hấp tăng lên 2 - 2,5 lần. Do đó để bảo tồn tinh dịch phải chọn được
nhiệt độ phù hợp và ngăn chặn việc tinh trùng tiếp xúc với oxy để giảm đến
mức thấp nhất quá trình hô hấp hiếu khí xảy ra.

* Tinh thanh.
Tinh thanh trong tinh dịch ngựa là một hỗn hợp những chất tiết của dịch
hoàn phụ và của các tuyến sinh dục phụ (tuyến cầu niệu đạo, tuyến tiền liệt,
tinh nang, tuyến niệu quản). Thành phần tinh thanh chủ yếu là nước (80 - 93%)
và vật chất khô. Trong vật chất khô chủ yếu là protein, chỉ có một lượng rất
nhỏ là đường mỡ, chất khoáng, men và vitamin (Trần Tiến Dũng, 2002) [4].
Tác dụng chủ yếu của tinh thanh là rửa đường niệu đạo sinh dục cho
con cái, hoạt hoá tinh trùng tạo điều kiện cho tinh trùng đến gặp trứng trong
quá trình thụ tinh, đồng thời là môi trường để nuôi sống tinh trùng ngoài cơ
thể. Như vậy tinh thanh có vai trò rất lớn trong việc ''nuôi dưỡng'' tinh trùng
ngoài cơ thể và trong quá trình thụ thai.
Bảng 1.2: Thành phần các chất có trong tinh thanh ngựa (theo Mann)
Stt

Các chất

ĐVT

Số lượng

1

Fructoz

mg/100ml

<1

2


Sorbitol

mg/100ml

20 - 60

3

Axit xitric

mg/100ml

8 - 53

4

Inositol

mg/100ml

19 - 47

5

Ergothionein

mg/100ml

3,5 - 13,7


6

Gluxerylphotphoryl

mg/100ml

40 - 110

7

Sodium

mMol/lit

114

8

Potasium

mMol/lit

26

9

Canxi

mMol/lit


6,5

10

Magnesium

mMol/lit

3,8

( Trích Hoàng Văn Tiến, 1995) [14]


15

1.1.4. Cấu tạo và kích thước âm đạo giả ngựa
Theo Milovanov 1962: Nguyên lý cấu tạo của âm đạo giả là tập hợp tất
cả các điều kiện tự nhiên phù hợp như ở trong đường sinh dục con cái ở thời
điểm giao phối và cho phép thu nhận một cách nhanh chóng toàn bộ lượng
tinh mà không bị nhiễm bẩn (trích Nguyễn Tấn Anh., 1996) [1]. Âm đạo giả
của các loài gia súc có kích thước khác nhau. Âm đạo giả của ngựa có đặc
điểm cấu tạo và kích thước như sau:
- Áo bao âm đạo giả làm bằng da hoặc tôn, dài bằng thân âm đạo giả.
- Âm đạo giả bao gồm:
Thân âm đạo giả: Cao su mềm trung tính
Ruột âm đạo giả: Cao su mềm trung tính
Bơm áp lực
Phễu hứng tinh
Bình chứa tinh: Nhựa mầu trung tính
Phần chứa nước ấm trong thân âm đạo

- Kích thước âm đạo giả: Chiều dài 65 cm, dài thân 50 cm, đường kính 18 cm.
* Các yếu tố đảm bảo cho âm đạo giả tương đồng với âm đạo của ngựa.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ trong lòng âm đạo giả: Về mùa hè 39 - 400C, về
P

P

mùa đông 41 - 420C. Nhiệt độ âm đạo giả phụ thuộc vào từng cá thể ngựa đực
P

P

khi lấy tinh
- Áp suất: Tạo áp lực trong lòng âm đạo giả bằng cách bơm không khí
vào vách ngăn giữa vỏ và ruột âm đạo giả với một tần số và áp lực nhất định
thông qua quả bơm tạo áp lực. Trong âm đạo giả ngựa áp lực phải đạt 40 70mmHg. Nếu áp lực quá thấp (< 30mmHg) hoặc quá cao (> 80mmHg) đều
gây ức chế phản xạ xuất tinh. Trong thực tế cho thấy: Khi khai thác tinh dịch,
dương vật ngựa có kích thước đường kính lớn thì cần áp lực của âm đạo giả
thấp hơn ngựa có dương vật kích thước đường kính nhỏ.
- Độ nhớt: Để tạo độ nhớt trong lòng âm đạo giả tương đồng với độ
nhớt âm đạo của ngựa cái, người ta sử dụng vazơlin hoặc pharafin vô trùng
(pH trung tính).


16

1.1.5. Các chỉ tiêu đánh giá số lượng, chất lượng tinh dịch
* Thể tích tinh dịch V (ml)
Thể tích tinh dịch là số ml tinh dịch sau lọc bỏ keo phèn trong một lần
khai thác. Thể tích tinh dịch phụ thuộc vào yếu tố: Giống, loài, độ tuổi, cá

thể…đồng thời còn phụ thuộc vào kỹ thuật khai thác tinh, tần xuất lấy tinh và
mùa vụ lấy tinh. Lượng xuất tinh của ngựa dao động 50 - 120ml/lần, trung
bình 75ml (Đặng Đình Hanh, 2002) [6]. Trong tinh dịch ngựa có chứa một
lượng khá lớn hạt thể selatin, chiếm tỷ lệ 20 - 30% lượng tinh dịch, chúng là
sản phẩm của tuyến Cowper, dịch tiết ra của tuyến này có bản chất
anbumonoit đặc quánh, trong suốt. Khi xuất tinh, những hạt thể gặp men
vegikinaza của tuyến tinh nang rồi đọng lại thành những tinh thể lớn hơn. Sau
đó các thể này hấp phụ nước và tăng lên về thể tích, người ta gọi đó là keo
phèn (Trần Tiến Dũng, 2002) [4].
Theo các tác giả: Dowett và Pattie (1982), Pickett (1988), Rickett (1993),
Fayver Hosken và Caudle (1989), lượng tinh ngựa của một lần khai thác vào
khoảng 100ml, trong đó tinh dịch 60 - 80ml, keo phèn 20 - 40ml. Theo Pickett
1998, chỉ tiêu tinh dịch của mỗi lần khai thác phụ thuộc vào giống, độ tuổi, lao
tác và thời gian gây kích dục (trích Davies Morel, 1999) [28].
Trong giao phối tự nhiên, keo phèn có tác dụng bịt lỗ tử cung, không
cho tinh dịch chảy ra ngoài. Trong thụ tinh nhân tạo cần phải loại bỏ keo phèn
trước khi xử lý đưa vào đông lạnh. Vào mùa giao phối trong tinh dịch ngựa có
lượng selatin lớn hơn mùa không giao phối. Do đó, khi xác định thể tích tinh
dịch cần phải loại bỏ keo phèn bằng cách lọc qua nhiều lớp vải gạc.
* Hoạt lực tinh trùng A (%)
Hoạt lực là sức sống, sức vận động tinh trùng trong tinh dịch. Nó là chỉ
tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tinh dịch, biểu thị khả năng thụ thai
của tinh trùng. Tuy nhiên, chỉ những tinh trùng tiến thẳng mới có khả năng
thụ thai. Do đó, hoạt lực tinh trùng là tỷ lệ phần trăm số tinh trùng có trong
tinh dịch có khả năng vận động theo phương thức tiến thẳng.
Tinh trùng vận động theo 3 phương thức:


17


+ Tiến thẳng: Phương vectơ vận động của tinh trùng ổn định.
+ Xoay vòng: Phương vectơ vận động của tinh trùng luôn luôn thay đổi.
+ Lắc lư (dao động): Vận động của tinh trùng hầu như không có vectơ
vận động, không thay đổi vị trí tương đối của chúng. Tinh trùng nằm tại vị trí
đó, chỉ có đầu hoặc đuôi cử động.
Hoạt lực tinh trùng càng cao chất lượng tinh trùng càng tốt và khả năng
thụ thai càng lớn. Sức sống của tinh trùng có ảnh hưởng liên quan đến sức
sống của đời sau. Hoạt lực tinh trùng càng cao khả năng thụ thai càng cao,
phát dục và chống đỡ bệnh tật của đời sau càng tốt và ngược lại (Đỗ Văn Thu,
2000) [12].
Theo Eliasson và cs 1974, hoạt lực và sức sống bền của tinh trùng phụ
thuộc vào tỷ lệ thích hợp giữa các dịch tiết của tuyến tiền liệt và tiểu nang.
Thành phần hóa sinh của tinh thanh là rất ổn định cho mỗi lần xuất tinh và
không phụ thuộc vào tần số xuất tinh. Chất tiết của tuyến tiểu nang có chứa
một vài nhân tố không có lợi cho hoạt lực và sức sống bền của tinh trùng.
Nhưng chất tiết của tuyến tiền liệt lại kích thích sức hoạt động của tinh
trùng. Khi tiếp xúc với chất tiết tuyến tiền liệt, tinh trùng được bảo vệ để
tránh ảnh hưởng không có lợi của chất tiết tuyến tiểu nang (trích Nguyễn
Tấn Anh, 1996) [1].
* Nồng độ tinh trùng C (triệu/ml)
Nồng độ tinh trùng là số tinh trùng có trong một đơn vị ml thể tích tinh
dịch. Nồng độ tinh trùng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tinh
dịch, là cơ sở để tính toán số liều tinh sản xuất. Nồng độ tinh trùng có thể dao
động từ 100 - 200 triệu/ml (Rickett, 1993) [43]. Theo Janett. F, 2003 [35],
nồng độ tinh trùng ngựa Warmblood thay đổi theo mùa, dao động từ 270 323 triệu/ml
* Độ pH tinh dịch
Độ pH của tinh dịch cho thấy nồng độ [H+], pH của tinh dịch liên quan
P

P


đến năng lực đệm, sức sống và năng lực thụ tinh của tinh trùng. Độ pH tinh
dịch toan tính thì tinh trùng hoạt động yếu, thời gian sống tinh trùng được kéo


×