Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng sử dụng và điều hành công cụ thị trường mở của Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.92 KB, 15 trang )

1.
1.1.

Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Nhật Bản năm 2010
Tình hình kinh tế Nhật Bản năm 2010 và định hướng chính sách tiền tệ
Năm 2010 là một năm có nhiều khó khăn đối với nền kinh tế Nhật Bản. Đồng Yên
Nhật lên giá 30% so với đồng USD khiến cho việc xuất khẩu của Nhật gặp bất lợi, cùng
với đó là nỗi lo về giảm phát; năng suất lao động giảm do Nhật Bản đang nằm trong số
những quốc gia có dân số già đi nhanh nhất trên thế giới. Trong quý II/2010, Nhật Bản đã
để Trung Quốc sóan ngôi vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Trong năm 2010, NHTW Nhật Bản thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm giữ
giá đồng yên, hỗ trợ, phục hồi nền kinh tế. Để hiện thực mục tiêu trên, BOJ đã thực thi
hàng loạt chính sách nổi bật là:
 Hạ lãi suất cơ bản.

Vào ngày 05/10/2010, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản quyết định tiếp tục nới
lỏng chính sách tiền tệ bằng cách hạ lãi suất cơ bản từ mức 0,1% xuống mức dao động
trong khoảng 0% - 0,1%; BOJ cũng quyết định thành lập một quỹ đặc biệt để mua các tài
sản tài chính với tổng trị giá tới 35 nghìn tỷ yên.
Đây là lần đầu tiên kể từ 12/2008, BOJ hạ lãi suất cơ bản. Quyết định này được
đưa ra sau cuộc họp hai ngày của Hội đồng Chính sách BOJ với nhận định các rủi ro suy
thoái kinh tế đối với nền kinh tế Nhật Bản đang gia tăng do sự suy giảm kinh tế toàn cầu
và hiện tượng đồng yên liên tục tăng giá.
Ngay sau quyết định trên của BOJ, hiệu ứng thông báo diễn ra và đồng yên đã
giảm giá mạnh so với USD.
 Sử dụng nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự bất ổn định của tình hình tài chính.

Khi có nguy cơ bất ổn trong thị trường tài chính thế giới và những ảnh hưởng lên
tính thanh khoản của thị trường yên Nhật, BOJ đã lập lại nghiệp vụ cấp vốn USD. Ví dụ:
sau trận động đất phía Đông, để ngăn chặn sự bất ổn trên thị trường, BOJ đã cung ứng



lượng vốn lớn vượt quá nhu cầu trên thị trường bằng cách thực hiện 12 lần cấp vốn với
lượng tiền được cấp ngay trong cùng ngày giao dịch trong 6 ngày làm việc liên tục, trong
khi đó vẫn tích cực triển khai các hoạt động có độ trễ của lượng tiền sau vài ngày khi
giao dịch. Ngoài ra, để đối phó với tình hình kinh doanh chênh lệch giá giữa các thị
trường đơn lẻ chưa được tốt, NHTW đã lại tiếp tục mua trái phiếu chính phủ và thương
phiếu với hợp đồng mua lại.
1.2.

Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Nhật Bản
 Khái quát chung.

Trong năm 2010, BOJ đã thực hiện 394 lần cung cấp các khoản vốn ngắn hạn cho
nền kinh tế, thấp hơn khá nhiều so với mức 931 lần với năm 2009. Nguyên nhân của sự
giảm sút này là do BOJ đã dừng việc mua Trái phiếu chính phủ qua đêm và với thời hạn 7
ngày, và nếu không có ảnh hưởng của thiên tai thỳ việc cung ứng các khoản vốn ngắn hạn
sẽ còn ít hơn nữa.
Trong năm tài khóa 2010, việc mua không hoàn lại tín phiếu được thực hiện 1 tuần
1 lần cho đến tháng 12/2010. Khối lượng mỗi lần vào khoản 400 tỉ yên cho đến tháng
05/2010 và 300 tỉ yên từ tháng 06/2010. Với điều kiện của thị trường tín phiếu, BOJ đã
giảm tần suất của nghiệp vụ mua tín phiếu từ tháng 1/2011 nhưng vẫn giữ nguyên khối
lượng mua mỗi lần ở mức 300 tỉ yên.
NHTW tiếp tục mua trái phiếu chính phủ với khối lượng trung bình là 21,6 ngàn tỷ
yên trong 1 năm (tương đương với 1,8 ngàn tỉ một tháng). Ngoài việc mua trái phiếu
chính phủ thông qua các nghiệp vụ quy định, BOJ còn thực hiện mua không hoàn lại trái
phiếu chính phủ thông qua chương trình mua tài sản.
Thị trường Thương phiếu tương đối ổn định nên BOJ không thực hiện việc mua
thương phiếu với hợp đồng mua lại cho đến tháng 02/2011.
 Chương trình mua tài sản của BOJ



Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cũng quyết định thành lập một quỹ đặc biệt để
mua các tài sản tài chính và coi đây là một trong các biện pháp để tiếp tục nới lỏng chính
sách tiền tệ. Quỹ này có thể có tổng trị giá lên tới 35 nghìn tỷ yên (tương đương 418 tỷ
USD). BOJ sẽ dành ra khoảng 5 nghìn tỷ yen để mua trái phiếu chính phủ và trái phiếu
doanh nghiệp, quỹ giao dịch ngoại hối, thương phiếu và tín thác đầu tư bất động sản,
đồng thời sẽ bổ sung khoảng 30 nghìn tỷ yên cho quỹ này để cấp tín dụng cho các Ngân
hàng trên cơ sở ký quỹ ở lãi suất cố định.
NHTW đã thực hiện việc mua trái phiếu chính phủ với hợp đồng mua lại với thời
hạn T+2 cho đến giữa tháng 07. Khối lượng thực hiện mỗi lần vào khoảng 600 tỉ yên cho
đến giữa tháng 06/2010 và vào khoảng 400 tỉ yên cho đến giữa tháng 07/2010. Thêm vào
đó, NHTW đã thực hiện nghiệp vụ mua qua đêm với thời hạn T+1 và T+2 tổng cộng 4
lần. Khối lượng mỗi lần là từ 800 đến 1000 tỉ yên. Từ giữa tháng 7/2010, sau khi đã bình
ổn được thị trường hợp đồng mua lại, NHTW đã ngừng việc mua lại trái phiếu chính phủ.
Ngày 08/11/2010, đợt đấu giá Trái phiếu chính phủ đầu tiên được diễn ra. Ngân
hàng thực hiện mua Trái phiếu chính phủ 6 lần trong năm 2010 với mức 150 tỷ yên/lần
và thời hạn còn lại trung bình là 1,8 năm.
Tiếp đó, vào ngày 09/11/210, đợt đấu giá Tín phiếu kho bạc đầu tiên được thực
hiện. Ngân hàng mua lại tín phiếu kho bạc có kì hạn 6 tháng mới phát hành hoặc tín
phiếu đang lưu hành có thời hạn còn lại từ 6 tháng trở nên. BOJ thực hiện mua không
hoàn loại Tín phiếu kho bạc 9 lần trong năm 2010 với mức cung vốn 150 tỷ yên/lần với
thời hạn trung bình còn lại là 8,6 tháng.
Ngày 03/12/2010, cuộc đấu giá đầu tiên Trái phiếu doanh nghiệp được thực hiện.
BOJ thực hiện mua không hoàn lại Trái phiếu doanh nghiệp 2 lần trong năm tài chính
2010 với 100 tỷ yên cung vốn cho mỗi hoạt động.
Ngày 10/12/2010, cuộc đấu giá Thương phiếu được tiến hành lần đầu tiên. BOJ
thực hiện mua không hoàn lại thuơng phiếu 5 lần trong năm 2010với mức cung vốn là
100 tỷ yên/lần.



Ngày 15/12/2010, lần bơm tiền đầu tiên thông qua việc mua ETFs được tiến hành.
Tới cuối tháng 03/2011, số dư tiền ở mức 200 tỷ yên trên số tiền tối đa dư nợ khoảng 900
tỷ yên.
Ngày 16/12/2010: hoạt động mua J-REITs lần đầu được tiến hành. Cuối tháng
03/2011, số dư tiền ở mức 20 tỷ yên trên số tiền tối đa dư nợ khoảng 100 tỷ yên.
Trong tổng số 132 lần cấp vốn từ 01/2010 tới 11/03/2011, 68 lần còn thừa vốn
chưa cấp hết (chiếm 52%), có sự gia tăng mạnh mẽ trong tính thanh khoản của nền kinh
tế, tình trạng dư cung thường xuyên diễn ra, số lượng hồ sơ tham gia đấu thầu đã giảm đi.
 Kết quả đạt được.

Bảng tổng kết khối lượng tài sản giao dịch đang lưu thông từ tháng 1/2010
đến tháng 3/2011. (Đơn vị: Tỷ Yên)

Từ bảng trên ta có thể thấy, khối lượng các Tài sản giao dịch ở trong ngưỡng cho
phép, góp phần không nhỏ vào việc tăng lượng tiền lưu thông ra nền kinh tế, giảm bớt
khó khăn trong thời kì hiện tại.
Với những nỗ lực từ phía Chính phủ, tính tới tháng 12/2010, niềm tin của các nhà
kinh doanh đã tăng lên mức cao nhất trong vòng một năm qua, sau khi tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống mức thấp nhất nhất sau 10 tháng và tiền lương cơ bản tăng lần đầu tiên sau


20 tháng. Đó là những dấu hiệu tích cực báo hiệu sự khởi sắc đối với nền kinh tế Nhật
Bản trong những năm tiếp theo.
2.
2.1.

Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Nhật Bản năm 2011
Tình hình kinh tế Nhật Bản năm 2011 và định hướng chính sách tiền tệ
Theo tuyên bố ngày 25/1/2011, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nhận định: nền
kinh tế nước này đang có dấu hiệu phục hồi nhẹ nhưng tốc độ đang dần chững lại, đầu tư

kinh doanh cố định bắt đầu tăng, đầu tư nhà đất có dấu hiệu khởi sắc trong khi việc làm
và thu nhập chưa được cải thiện, tiêu dùng cá nhân và nhu cầu hàng hóa giảm sau một
thời gian tăng mạnh, xuất khẩu phần nào giảm nhẹ. Trong năm 2010, đồng Yên Nhật bị
đánh giá cao 13 % so với đồng đô la Mỹ và thương mại trong khi Yên Nhật đã tăng 5 %
trong 11 tháng đầu năm 2010. Việc đồng Yên bị đánh giá cao làm tổn thương xuất khẩu
và khu vực doanh nghiệp . Nhiều công ty bắt đầu chia sẻ quan điểm cho rằng đồng Yên
sẽ tiếp tục tăng giá trong một thời gian dài. Điều này làm cho các công ty địa phương
kém cạnh tranh hơn so với Hàn Quốc và các công ty nước ngoài khác.
Trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, kinh tế NB đối mặt với những rủi ro hiện hữu từ
sự tăng trưởng nhanh hơn của các nước xuất khẩu hàng hóa mới nổi do cầu nội địa tại các
quốc gia này tăng và khả năng thu hút mạnh nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, mặc dù
những lo ngại về Mỹ đã giảm, vẫn còn những rủi ro tiềm ẩn gắn liền với những khoản
không chắc chắn về triển vọng của Mỹ và các nước châu Âu cùng sự phát triển của thị
trường tài chính toàn cầu.
Trước tình hình đó, BOJ dự đoán kinh tế Nhật Bản năm 2011 sẽ dần dần khắc
phục tình trạng suy giảm và phục hồi nhẹ cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn
cầu, dẫn đầu bởi các quốc gia xuất khẩu hàng hóa mới nổi. CPI kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm
nhưng chậm lại.
Để khắc phục được tình trạng giảm phát, phát triển bền vững nền kinh tế và ổn
định giá cả, BOJ tiếp tục theo đuổi chính sách nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ bao gồm 3 mũi
nhọn: nới lỏng tiền tệ toàn diện, đảm bảo ổn định thị trường tài chính, hỗ trợ, củng cố nền


tảng cho sự tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng tiếp tục giám sát chặt chẽ hoạt động nền kinh
tế và giá cả để đưa ra những chính sách phù hợp.
Nghiệp vụ Thị trường mở của NHTW Nhật Bản

2.2.

Ngay từ đầu năm, BOJ đã đưa tiến hành các phiên đấu giá thương phiếu và trái

phiếu doanh nghiệp để khắc phục tình trạng giảm phát, đồng thời kích thích nền kinh tế
tăng trưởng. Ngày 04/02/2011, BOJ thông báo kế hoạch đấu giá mua Thương phiếu và
Trái phiếu doanh nghiệp thông qua chương trình mua tài sản.


Thương phiếu: (đơn vị: tỷ yên)
Ngày đấu giá
10/03/2011
14/04/2011



Ngày thực hiện
15/03/2011
19/04/2011

Khối lượng đấu giá
100
100

Trái phiếu doanh nghiệp: (đơn vị: tỷ yên)
Ngày đấu giá
06/04/2011

Ngày thực hiện
12/04/2011

Khối lượng đấu giá
100


Ngày 11/3/2011, trận động đất và sóng thần kinh hoàng tấn công vùng Đông Bắc Nhật Bản khiến
hơn 18.000 người chết và mất tích, gây ra sự cố hạt nhân tồi tệ nhất thế giới kể từ sau thảm họa hạt
nhân Chernobyl ở Ukraine năm 1986. Hậu quả của trận động đất đã ảnh hưởng trên diện rộng, sản xuất
dường như bị đình trệ, tâm lý của doanh nghiệp và người tiêu dùng xấu đi trông thấy. Như một hệ quả,
giá trị xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng cá nhân trong nước giảm. CPI giảm chậm, xung quanh mức 0%.

Trước tình hình đó, ngày 14/3/2011, NHTW Nhật Bản tuyên bố theo đuổi hướng
điều hành sau:


Thực hiện nghiệp vụ thị trường tiền tệ: Cung cấp tài chính dồi dào để đáp ứng nhu cầu
thị trường tài chính, đảm bảo ổn định thì trường tài chính; khuyến khích lãi suất qua đêm

duy trì ở mức 0-0,1%
• Chương trình mua bán tài sản: Nhằm hạn chế tâm lý xấu trong kinh doanh và sự gia tăng
những lo ngại trong thị trường tài chính ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, NHTW Nhật
Bản quyết định tăng quy mô chương trình mua tài sản, chủ yếu là các tài sản rủi ro, tăng
khoảng 5 nghìn tỷ yên lên tổng số 40 nghìn tỷ.


Sự gia tăng mua bán tài sản sẽ được thực hiện theo danh mục tài sản (dự kiến hoàn
thành vào cuối tháng 7 năm 2012):







Trái phiếu Chính phủ: 0,5 nghìn tỷ

Trái phiếu kho bạc: 1 nghìn tỷ yên
Thương phiếu: 1,5 nghìn tỷ yên
Trái phiếu doanh nghiệp: 1,5 nghìn tỷ yên
ETFs: 0,45 nghìn tỷ yên
J-REITs: 0,05 nghìn tỷ yên
Để thực hiện kế hoạch trên, từ đầu năm đến trước ngày 4/8/2011, NHTW Nhật
tiến hành bán đấu giá Thương phiếu 14 lần, 2 lần đầu với khối lượng đấu giá là 100 tỷ
yên/lần, 12 lần sau với khối lượng 300 tỷ yên/lần. Về trái phiếu doanh nghiệp, NHTW
tiến hành được 7 phiên đấu giá, khối lượng đấu giá mỗi phiên là 150 tỷ yên trừ phiên đầu
tiên với khối lượng là 100 tỷ đồng.
Ngày 4/8/2011, NHTW Nhật quyết định cải thiện chính sách nới lỏng tiền tệ bằng
việc tăng tổng quy mô của chương trình mua tài sản lên 10 nghìn tỷ, từ khoảng 40 nghìn
tỷ lên khoảng 50 nghìn tỷ.
Bảng: Biến động tăng trong các chương trình mua tài sản (4/8/2011)

Tổng quy mô
Tài sản mua
Trái phiếu chính
phủ Nhật Bản
Trái phiếu
kho bạc
Thương phiếu
Trái phiếu doanh
nghiệp
Cổ phiếu quỹ giao
dịch
Quỹ Ủy thác đầu
tư bất động sản.
Khoản vay lãi
suất cố định

Kì hạn 3 tháng

Kì hạn 6 tháng

Quy mô chương
trình trước khi tăng
Khoảng 40
10,0
2,0

Số lượng tăng
Khoảng +10
+5,0
+2,0

Quy mô chương
trình sau khi tăng
Khoảng 50
15,0
4,0

3,0

+1,5

4,5

2,0
2,0


+0,1
+0,9

2,1
2,9

0,9

+0,5

1,4

0,1

+0,01

0,11

+5,0

35,0
20,0
15,0

30,0
20,0
10,0

+5,0



thể chấp.

Ngày 27/10/2011, tại Hội nghị chính sách tiền tệ, với 8/9 phiếu thông qua, Hội
đồng quản trị BOJ đã công bố tăng cường nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách tăng kích
thước chương trình mua tài sản thêm khoảng 5 nghìn tỷ yên, từ 50 nghìn tỷ yên lên 55
nghìn tỷ yên. Sự gia tăng trong chương trình này chủ yếu dùng để mua Trái phiếu chính
phủ Nhật Bản. Ngoài mua hàng theo chương trình, NHTW còn thường xuyên mua Trái
phiếu chính phủ với mức tăng khoảng 21,6 nghìn tỷ yên mỗi năm nhằm mục đích cung
cấp vốn ổn định, rộng rãi phù hợp với xu hướng tăng về nhu cầu tiền trong nền kinh tế.
Bảng: Biên động tăng trong các chương trình mua tài sản (27/10/2011)

Tổng quy mô
Tài sản mua
Trái phiếu chính
phủ
Nhật Bản
Trái phiếu
kho bạc
Thương phiếu
Trái phiếu doanh
nghiệp
Cổ phiếu quỹ giao
dịch
Quỹ Ủy thác đầu

bất động sản.
Khoản vay lãi
suất cố định
Kì hạn 3 tháng


Kì hạn 6 tháng
thế chấp.

Quy mô chương
trình trước khi tăng
Khoảng 50
15,0
4,0

Số lượng
tăng
Khoảng +5
+5,0
+5,0

Quy mô chương
trình sau khi tăng
Khoảng 55
20,0
9,0

4,5

-

4,5

2,1
2,9


-

2,1
2,9

1,4

-

1,4

0,11

-

0,11

35,0
20,0
15,0

-

35,0
20,0
15,0

Như vậy, trong cả năm 2011, NHTW Nhật liên tục tiến hành bơm tiền ra nền kinh
tế thông qua nghiệp vụ thị trường mở nhằm mục tiêu ngăn chặn đà giảm phát và tăng



cường nguốn vốn để kích thích tăng trưởng. Sơ đồ sau trình bày trạng thái của Chương
trình mua tài sản dưới chính sách nới lỏng tiền tệ, tính đến hết tháng 7 năm 2011.

Cụ thể, tổng khối lượng mua vào đạt 8913.1 tỷ yên, trong đó trái phiếu chính phủ
là 1450 tỷ yên, trái phiếu kho bạc là 2400 tỷ yên, trái phiếu doanh nghiệp là 800 tỷ yên,
thương phiếu là 3900 tỷ yên, ETFs là 340,4 tỷ yên và J-REITs là 22,7 tỷ yên, thấp hơn
mục tiêu đề ra vào tháng 8/2011 với tổng số là 15000 tỷ yên.
 Kết quả:

Mặc dù NHTW Nhật Bản đã rất tích cực và chủ động tiến hành chính sách tiền tệ
nới lỏng, nhưng lạm phát và tăng trưởng của năm 2011 diễn ra chưa được như kỳ vọng.
Cụ thể, Chính phủ Nhật Bản ngày 9/12 đã công bố tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản
trong quý 2 tài khóa 2011-2012 (từ tháng 7-9/2011) đạt 5,6% so với cùng kỳ tài khóa
trước đó, thấp hơn mức dự kiến 6%. GDP của Nhật Bản sau khi điều chỉnh lạm phát
trong Quý II đạt mức tăng 1,4% so với Quý I, cũng thấp hơn mức tăng 1,5% như công bố


trước đó, theo đánh giá sơ bộ chủ yếu là do Chính phủ Nhật Bản giảm chi tiêu công vốn
chiếm một phần quan trọng trong GDP của nước này.
Sự suy giảm về kinh tế được thể hiện rõ nét nhất trong các doanh nghiệp lớn của
Nhật Bản, mà sản phẩm của chúng luôn được ưa chuộng ở vị trí thống soái trên thế giới.
Trong hai thập kỷ qua, các chính phủ Nhật Bản kế tiếp nhau, cùng với Ngân hàng Nhật
Bản, đã tìm cách thúc đẩy nền kinh tế với những kế hoạch khuyến khích và những khoản
tín dụng với giá rất thấp. Nhưng tất cả đều vô ích. Nền kinh tế vẫn đi theo con đường
quen thuộc, mọi sự tăng trưởng kinh tế sau đó đã trượt dần tới sự suy thoái. Hậu quả là
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản đã giảm. Năm 2011, GDP của nước này là
537.000 tỷ yên, bằng năm 2005. Nếu tính cả ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, nền kinh tế
Nhật Bản năm 2011 chỉ bằng mức tại năm 1993.

3.
3.1.

Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Nhật Bản năm 2012
Tình hình kinh tế Nhật Bản 2012 và định hướng chính sách tiền tệ
Năm 2012, trong khi kinh tế châu Âu vẫn loay hoay với việc tìm cách thoát khỏi
cuộc khủng hoảng nợ công, kinh tế Mỹ có phục hồi nhưng khá trầy trật thì suy thoái kinh
tế vẫn đang hiện hữu đối với nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là nửa cuối năm. Xuất khẩu
của Nhật Bản phải đối mặt với những cơn gió ngược mạnh mẽ từ sự sụt giảm trong nhu
cầu toàn cầu và đồng yên tăng giá, thâm hụt thương mại đi đối với thâm hụt ngân sách,
tình hình giảm phát vẫn bao trùm nền kinh tế, áp lực chi ngân sách và nợ công đang gia
tăng đi đôi với lãi suất trái phiếu chính phủ khá cao. Mặc dù Nhật Bản đã đưa ra các gói
kích thích kinh tế và nới lỏng chính sách tiền tệ nhiều lần trong năm nhưng cũng không
đủ để tạo ra một tác động lớn đến nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản năm 2012 có 2 gam màu sáng tối khá rõ rệt.
Nửa đầu năm là sự tăng trưởng GDP khá ngoạn mục chủ yếu nhờ công cuộc tái thiết và
phục hồi từ thảm họa động đất và sóng thần năm 2011. GDP Quý I của nước này tăng 1%
so với quý IV/2011, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2011; và Quý II đạt 1,3% so với Quý
I. Sự phục hồi ổn định của các ngành nghề sau thảm họa động đất - sóng thần là nguyên


nhân chính khiến kinh tế Nhật Bản đạt mức tăng trưởng cao trong nửa đầu năm. Tuy
nhiên, tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc, cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu và đồng yên
liên tục tăng giá mạnh so với đô la Mỹ làm xói mòn những nguồn thu từ nước ngoài
khiến GDP Quý III và Quý IV liên tiếp suy giảm. Tăng trưởng GDP quý II của Nhật Bản
đạt mức 1,4% so với cùng kỳ năm 2011, chỉ bằng chưa đầy 1/3 con số 5,5% của quý I.
Trong quý III, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản đã giảm 0,9% so với quý
trước đó và giảm 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là quý thứ 2 liên tiếp nền kinh tế
nước này suy giảm. Nền kinh tế của Nhật Bản có thể đã rơi vào giai đoạn suy thoái do
ảnh hưởng cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu và kinh tế toàn cầu suy yếu. Năm 2011

dưới sự tàn phá của sóng thần, Nhật Bản đã tiến hành đầu tư, tái thiết khiến nửa đầu 2012
có sự tăng trưởng GDP khá ngoạn mục, tuy nhiên do ảnh hưởng của nợ công Châu Âu,
khiến GDP quý III,IV năm 2012 liên tục sụt giảm.
Năm 2012, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Nhật Bản liên tiếp giảm cho thấy ở Nhật
Bản tình trạng giảm phát vẫn bao trùm cho dù ngân hàng trung ương nước này đã tăng
mục tiêu lạm phát với hy vọng thúc đẩy lạm phát. Chỉ số lạm phát lõi của Nhật Bản tháng
7 giảm 0,3% so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi giảm 0,2% trong tháng 6. Trong tháng 9,
chỉ số này là 99,6; giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Sau 5 tháng giảm liên tiếp, đến
tháng 10/2012, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Nhật Bản không đổi so với cùng kỳ năm
trước. Ngoài ra, bên nước láng giềng Trung Quốc, đồng Nhân dân tệ đang mạnh lên, kích
thích sức mua của Trung Quốc đối với hàng hóa của Nhật. Cầu tăng tạo điều kiện để gia
tăng sản xuất, tạo điều kiện cho dư thừa hàng hóa và dẫn đến giá cả giảm, khiến sức ép
giảm phát ở Nhật Bản ngày càng gia tăng.
Nợ công của Nhật Bản tăng lên mức cao kỷ lục 983.30 ngàn tỷ yên (tương đương
12,4 nghìn tỷ USD) vào cuối tháng 9/2012. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí tái thiết
đất nước sau thảm họa động đất và sóng thần đầu tháng 3/2011. Trong đó bao gồm
803.74 ngàn tỷ yên trái phiếu Chính phủ; 125,37 ngàn tỷ yên tín phiếu đảm bảo cho nhu
cầu vốn ngắn hạn và 54,19 nghìn tỷ yên dưới dạng các khoản vay từ các tổ chức tài
chính. So với thời điểm cuối tháng 6/2012, nợ công của Nhật tăng 0.7%.


Giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu năm 2012 của Nhật Bản tăng mạnh
trong tháng 3, và tháng 4 chủ yếu do nhu cầu bên ngoài và tái thiết đất nước sau thảm họa
sóng thần đã thúc đẩy sản lượng của các nhà máy, nhưng liên tiếp sụt giảm trong các
tháng tiếp theo. Sản lượng công nghiệp tháng 9 của nước này đã giảm 4,1% so với tháng
trước đó.Trong tháng 8, tốc độ này chỉ là 1,6%. Nguyên nhân là suy giảm toàn cầu, căng
thẳng lãnh thổ với Trung Quốc và nhu cầu nội địa yếu khi chính phủ ngừng trợ giá ôtô
tiết kiệm nhiên liệu. Đây là mức sụt giảm lớn nhất tại Nhật kể từ thảm họa kép.
Xuất khẩu của Nhật Bản đã giảm xuống đến mức thấp kỷ lục do hậu quả của động
đất, sóng thần năm ngoái, cũng như do suy thoái kinh tế thế giới, đồng Yên mạnh và cuộc

tranh chấp lãnh thổ kéo dài với Trung Quốc. Xuất khẩu tại Nhật Bản giảm xuống còn
4983,90 tỷ yên trong tháng mười một năm 2012 từ 5150 tỷ yên vào tháng Mười năm
2012. Nhập khẩu, trong khi đó, lại tăng 4,1% do Nhật Bản tăng nhập dầu mỏ và Gas.
Xuất khẩu sang Trung Quốc, thị trường lớn nhất của Nhật Bản, đã giảm 14,1% so với 1
năm trước đây. Xuất khẩu sang các nước EU giảm 21,1%, nhưng xuất sang Mỹ lại tăng
0,9%. Tính đến hết tháng 10 năm 2012, mức thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản
đạt 5273 tỷ Yên. Năm 2011 do ảnh hưởng của khủng hoảng kép động đất, sóng thần,
thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản là 9628,9 tỷ yên (125 tỷ USD), giảm 44% so
với năm 2010 và là mức giảm mạnh nhất trong 15 năm. Như vậy, năm 2012 thặng dư tài
khoản vãng lai của Nhật Bản vẫn ở mức thấp kỷ lục
3.2.

Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Nhật Bản
Trước năm tài chính 2012 BOJ phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong việc
thực hiện các biện pháp giúp phục hồi nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua nhiều năm tăng
trưởng chậm chạp. Nhật Bản đã chiến đấu với giảm phát trong nhiều năm. BOJ trước đây
đã thiết lập mục tiêu lạm phát 1%, nhưng họ nói chỉ có thể đạt được điều đó trong năm tài
chính 2014-2015. Đảng của ông Abe liên tục gây sức ép buộc BOJ hành động hơn nữa để
vực dậy nền kinh tế, trong đó có việc đặt mục tiêu lạm phát 2% thay vì 1% hiện thời.
BOJ cho biết sẽ thảo luận vấn đề ổn định giá cả trong trung và dài hạn tại cuộc họp tiếp
theo vào tháng Giêng năm sau. Masamichi Adachi, chuyên gia kinh tế cao cấp tại JP


Morgan Securities tại Tokyo cho rằng: "BOJ sẽ làm cái gì đó vừa đủ để tránh sự chỉ trích
từ Abe, nhưng có lẽ không đủ để tránh một số cảm giác thất vọng,"
Ngân hàng Nhật Bản đã thực hiện nới lỏng chính sách 4 lần trong năm 2012 bằng
cách mở rộng chương trình mua tài sản của mình, các biện pháp này đã đạt được hiệu quả
trong việc thúc đẩy nền kinh tế không phải vật lộn với suy thoái, đảo ngược giảm phát và
làm suy yếu đồng yên. Nghiệp vụ thị trường mở cũng góp phần không nhỏ vào quá trình
tiến hành các chính sách tiền tệ nhằm vực dậy nền kinh tế Nhật Bản.

Biểu đồ: Lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế Nhật Bản
giai đoạn 2000-2012
(Đường màu đỏ thể hiện mức tăng trong cung khối tiền M2; đường màu xanh thể
hiện mức tăng khối tiền M3)

Cụ thể, 2 quý đầu năm 2012, NHTW Nhật Bản liên tiếp thực hiện các nghiệp vụ
gia tăng mua vào các loại GTCG, Trong tháng 3 BOJ đã tăng mua vào khoảng 0.5 nghìn
tỷ yen trái phiếu chính phủ, khoáng 1.0 nghìn tỷ yên Hóa đơn giảm giá kho bạc, khoảng
1.5 nghìn tỷ yên thương phiếu, khoảng 1.5 nghìn tỷ yên Trái phiếu doanh nghiệp, khoảng
0.45 nghìn tỷ yên ETFs, khoảng 0.05 nghìn tỉ yên J-REITs.


Trong tháng 4, NHTW nhật bản quyết định tăng từ 65 nghìn tỷ lên đến 70 nghìn tỷ
cụ thể: tăng mua vào trái phiếu chính phủ Nhật Bản thêm 10 nghìn tỷ yên (124 tỷ USD),
trong khi giảm 5 nghìn tỷ yên mua các loại tài sản khác (các quỹ giao dịch ETF tăng 200
tỷ yên, Nhật Bản ủy thác đầu tư bất động sản J-REITs tăng 10 tỉ yên).
Bước sang tháng 5, BOJ cho rằng, kinh tế Nhật Bản đang chuyển sang giai đoạn
tăng trưởng nhanh hơn nhờ đầu tư công tăng, tiêu dùng được cải thiện, triển vọng kinh tế
lần đầu tiên trong 9 tháng do hoạt động xuất nhập khẩu được nâng tầm đánh giá nên
Ngân hàng trung ương Nhật Bản quyết định không thực hiện thêm nới lỏng nữa mà giữ
nguyênchính sách tiền tệ.
Nghiệp vụ TT mở của BOJ không có nhiều biến động, tính đến cuối tháng 5/2012
tổng dư nợ của BoJ là 9,8 nghìn tỉ trái phiếu chính phủ, 3,0 nghìn tỉ Hóa đơn giảm giá
kho bạc, 1,7nghìn tỉ Thương phiếu, 2,2 tỉ Trái phiếu doanh nghiệp, 1,1 tỉ ETFs, 0.1 tỉ JREITs, 1,7 tỉ phiếu chi thương nghiệp.
Tuy nhiên khi bước sang quý 2, tình hình kinh Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng chậm
lại do chi tiêu tiêu dùng mất đà và cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ảnh hưởng mạnh đến
xuất khẩu của Nhật Bản. Trước nguy cơ nền kinh tế rơi vào suy thoái, chính phủ Nhật
Bản liên tiếp đưa ra các gói kích thích. BOJ tiếp tục thực hiện mở rộng quy mô chương
trình mua tài sản, cụ thể tính đến cuối tháng 9/2012 tổng dư nợ của BOJ là 18,1 tỉ trái
phiếu chính phủ, 7,4 tỉ Hóa đơn giảm giá kho bạc, 1,4 tỉ thương phiếu, 2,7 tỉ Trái phiếu

doanh nghiệp, 1,4 tỉ ETFs, 0,1 tỉ J-REITs.
Vào cuối năm 2012, chỉ trong vòng hai tháng, Chính phủ Nhật đã tung ra hai gói
kích thích kinh tế, trong đó gói kích thích tung ra ngày 30-11 là 10,7 tỉ USD, lớn gấp đôi
so với gói kích thích kinh tế lần trước vào tháng 10 – 2012 vào thời điểm trước thềm
cuộc bầu cử quốc hội Nhật Bản diễn ra hôm chủ nhật 16/12. Gói kích thích thứ hai của
chính quyền Thủ tướng Yoshihiko Noda được rót cho các chương trình xã hội, tạo việc
làm và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Junko
Nishioka của RBS Japan Securities, gói kích thích “không đủ để thúc đẩy tăng trưởng


GDP, đặc biệt là cho đầu năm sau, và cũng không đủ để vực dậy hoạt động kinh doanh”.
Việc tung ra gói kích cầu sau khi kêu gọi bầu cử là một động thái bất thường của đảng
cầm quyền nhằm “mua phiếu bầu”.
Ngày 20/12/2012, BOJ đã tuyên bố quyết định tăng quy mô chương trình mua tài
sản thêm 10 nghìn tỷ yên (119 tỷ USD) lên 101 nghìn tỷ yên (cụ thể 24.0 tỉ trái phiếu
chính phủ, 9,5 tỉ hóa đơn giảm giá kho bạc, 2,1 tỉ thương phiếu, 2,9 tỉ trái phiếu doanh
nghiệp, 1,6 tỉ ETFs, 0.12 tỉ J-REITs nhằm kích thích kinh tế. Theo chương trình mới, mỗi
năm, BOJ cho vay 15 nghìn tỷ yên. Tuy nhiên, BOJ quyết định giữ nguyên lãi suất từ 0%
-0,1%.
Như vậy, tuy kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng với những chính sách tiền tệ thích
hợp, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, năm 2012 GDP Nhật Bản vẫn đứng
thứ 3 trên thế giới. Nền kinh tế hứa hẹn sẽ có nhiều dấu hiệu khả quan trong những năm
sau.



×