Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.79 KB, 12 trang )

Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

1. Đặt vấn đề
Xã hội là một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất. Nó vận động và phát triển
theo những luật khách quan vốn có. Quy luật xã hội có đợc phải thông qua mối quan
hệ giữa con ngời với nhau trong xã hội. Vì vậy xã hội vận động và phát triển không chỉ
phụ thuộc vào điều kiện khách quan mà còn phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con
ngời. Tức là nếu con ngời nhận thức và vận dụng đúng quy luật thì sẽ làm cho xã hội
phát triển nhanh hơn. Ngợc lại, nếu nhận thức và vận dụng sai quy luật thì sẽ kìm hãm
xã hội phát triển và bị quy luật phá bỏ.
Trong các quy luật xã hội, thì quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất, là một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận
động và phát triển của xã hội loài ngời. Mặt khác, đây cũng là quy luật cơ bản trong lý
luận hình thái kinh tế xã hội của Mác.
Đảng, Nhà nớc ta đã vận dụng một cách sáng tạo quy luật này vào trong điều kiện
lịch sử đặc thù của nớc ta, nhằm đổi mới về kinh tế. Trong kinh tế, Đảng chủ trơng phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản
lý của nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế Nhà nớc giữ vai trò
chủ đạo.
Để định hớng đợc Xã hội chủ nghĩa thì kinh tế Nhà nớc phải giữ vai trò nòng cốt,
dẫn dắt chi phối các thành phần kinh tế khác. Bởi vì đây là thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Nó có vai trò quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng h ớng,
tránh nguy cơ chệch hớng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trờng, kinh tế Nhà nớc còn bộc lộ nhiều yếu
kém về năng suất, chất lợng, hiệu quả, đã đánh mất vai trò chủ đạo trong một số lĩnh
vực. Nhiều doanh nghiệp nhà nớc làm ăn thua lỗ kéo dài, chất lợng sản phẩm còn thua
kém nhiều thành phần kinh tế khác, đầu t nhiều nhng hiệu quả kinh tế còn thấp. Việc
doanh nghiệp Nhà nớc làm ăn kém hiệu quả đã làm suy yếu đi vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế quan trọng này đối với việc định hớng đi lên chủ nghĩa xã hội.


Do vậy, đổi mới kinh tế Nhà nớc nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất là vấn đề bức xúc đang đặt ra nhằm giữ vững
định hớng xã hội chủ nghĩa.
2. Lý luận triết học Mác Lê Nin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng
sản xuất và quan hệ sản xuất
Xã hội đợc hình thành, tồn tại và phát triển đợc là do hoạt động của con ngời có ý
thức luôn theo đuổi những mục tiêu nhất định. Chính trong quá trình hoạt động đó đã
hình thành lên quy luật xã hội. Quy luật xã hội chỉ đợc thể hiện thông qua hoạt động
thực tiễn, hoạt động xã hội rộng lớn của con ngời, trong đó hoạt động sản xuất vật chất
đóng vai trò quyết định. Sản xuất vật chất là cơ sở, là điều kiện để cho xã hội tồn tại và
phát triển. Lịch sử loài ngời trớc hết là lịch sử của sản xuất vật chất, lịch sử thay thế
nhau của các phơng thức sản xuất từ thấp tới cao, suy cho cùng đó là lịch sử phát triển
của lực lợng sản xuất.
Phơng thức sản xuất là cách thức mà con ngời làm ra của cải vật chất. Đây là
nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội. Với quan điểm duy vật về lịch sử, tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Mác cho rằng: Chìa khoá để nghiên cứu các quy
luật xã hội, của lịch sử xã hội không phải tìm ở trong óc con ngời, trong t tởng và ý
niệm xã hội mà là ở trong phơng thức sản xuất do xã hội tiến hành trên mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định
Thật vậy, trong quá trình lao động sản xuất con ngời phải sử dụng các phơng tiện,
các công cụ thích hợp để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để
thoả mãn nhu cầu của mình. Đồng thời trong quá trình sản xuất đó, con ngời phải quan
hệ với nhau, đó là mối quan hệ song trùng. Tức là con ngời vừa phải quan hệ với giới
tự nhiên nhằm biến đổi tự nhiên, lại vừa phải quan hệ với nhau trong quá trình sản
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang

1



Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

xuất. Chính nhờ có quan hệ song trùng này đợc biểu hiện ra là lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Hai mặt này không tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Mối quan hệ đó đợc lặp đi lặp lại nhiều lần qua các thời kỳ của lịch sử tạo thành
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Đây
là quy luật cơ bản, khách quan chi phối sự vận động và phát triển xã hội loài ngời.
Phơng thức sản xuất gồm hai mặt: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong
đó lực lợng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con ngời với giới tự nhiên trong quá
trình sản xuất vật chất. Trình độ của lực lợng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con ngời. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con ngời trong quá trình
tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất.
Lực lợng sản xuất đợc cấu thành bởi hai yếu tố:
- T liệu sản xuất do xã hội tạo ra trớc hết là công cụ lao động
- Ngời lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao động, biết sử dụng
t liệu lao động để tạo ra của cải vật chất.
Trong các yếu tố đó thì ngời lao động đóng vai trò quyết định. Bởi vì, chính con
ngời tạo ra t liệu sản xuất và luôn luôn cải biến nó cho phù hợp với yêu cầu của mình.
Mặt khác, t liệu lao động dù có hiện đại tới đâu, có ý nghĩa lớn lao đến thế nào nếu
không đợc con ngời dụng thì không thể phát huy đợc tác dụng. Khẳng định vai trò
hàng đầu của con ngời lao động Lê Nin viết: Lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân và ngời lao động
T liệu sản xuất bao gồm: Đối tợng lao động và t liệu lao động
T liệu lao động là: Phức hợp các vật thể mà con ngời đặt mình với đối tợng lao
động để biến thành sản phẩm trong quá trình sản xuất. Trong t liệu lao động thì công
cụ lao động có vai trò rất quan trọng vì nó là sức mạnh tri thức đã đợc vật thể hoá có
tác dụng nối dài bàn tay của con ngời.

Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lợng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất con ngời không ngừng cải tiến công cụ sản xuất, các phát
minh sáng chế không ngừng ra đời, thời gian ra đời các phát minh ngày càng rút
ngắn làm cho lực lợng sản xuất đợc mở rộng, nhiều ngành nghề mới ra đời, cùng với
nó là kinh nghiệm sản xuất, tay nghề ngời lao động không ngừng đợc nâng cao. Trình
độ phát triển của t liệu lao động là thớc đo trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời
và là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế.
Đối tợng lao động là một bộ phận của giới tự nhiên đợc con ngời đa vào sản xuất.
Đây là yếu tố cấu thành của t liệu sản xuất. Đối tợng lao động trớc hết là đối tợng sẵn
có ở trong tự nhiên nh: Đất, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản sau đó là những cái
đã đợc trải qua quá trình sản xuất nào đó nhng cha trở thành sản phẩm mà chỉ là
nguyên liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo nh: Bông, quặng, than chúng phải trải
qua một vài quá trình sản xuất nào đó mới trở thành sản phẩm. Sản xuất càng phát triển
thì đối tợng lao động càng đợc mở rộng.
Các yếu tố cấu thành lên lực lợng sản xuất (ngời lao động, đối tợng lao động,
công cụ lao động, phơng tiện lao động và khoa học công nghệ) có sự tác động biện
chứng với nhau. Sự hoạt động có hiệu quả của t liệu lao động phụ thuộc vào trí thông
minh, sự hiểu biết kinh nghiệm của con ngời, đồng thời bản thân con ngời lại phụ
thuộc vào t liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào họ sử dụng t liệu sản xuất nào. theo Lê
Nin không có nền đại công nghiệp cơ khí thì cũng không có ng ời công nhân hiện đại.
Tóm lại sự phát triển của lực lợng sản xuất là sự phát triển của văn hoá, khoa học kỹ
thuật của họ. Do đó, năng suất lao động xã hội là thớc đo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất đồng thời là một nhân tố quan trọng nhất cho sự thăng lợi của trật tự xã
hội mới.
Lực lợng sản xuất do con ngời tạo ra nhng nó lại là một nhân tố khách quan, là
nền tảng vật chất cho toàn bộ nhân loại. Bởi vì lực lợng sản xuất có sự kế thừa và phát
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang

2



Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

triển liên tục từ chế độ xã hội này sang chế độ xã hội khác. Mỗi chế độ xã hội không đợc tự do lựa chọn lực lợng sản xuất cho mình mà bao giời cũng dựa trên lực lợng sản
xuất do chế độ trớc để lại. Mác khẳng định Lực lợng sản xuất là kết quả của năng lực
thực tiễn của con ngời, nhng bản thân năng lực này bị quy định bởi những điều kiện
trong đó ngời ta sống bởi những lực lợng sản xuất đã đạt đợc bởi những hình thái xã
hội có trớc họ, không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trớc tạo ra.
Mặt thứ hai của phơng thức sản xuất là quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất đó là quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất vật
chất. Trong quá trình sản xuất con ngời không chỉ quan hệ với tự nhiên mà còn quan hệ
với nhau nhằm tạo ra của cải. Mác viết trong sản xuất con ngời ta không chỉ quan hệ
với giới tự nhiên, con ngời ta không thể sản xuất đợc nếu không kết hợp với nhau theo
một cách thức nào đó để hoạt động chung và để trao đổi với nhau.
Cũng nh lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng mang tính khách quan không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con ngời. Đó là những quan hệ mang tính vật chất
trong đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái
kinh tế xã hội nhất định. Nó quyết định các mối quan hệ khác trong xã hội và là đặc trng cho hình thái kinh tế đó.
Quan hệ sản xuất đợc cấu thành từ ba mặt: Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất,
quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm xã hội, trong đó quan hệ sở
hữu về t liệu sản xuất đóng vai trò quyết định các quan hệ trong sản xuất.
Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất là đặc trng cơ bản của một phơng thức sản xuất.
Nó là quan hệ kinh tế cơ bản, trung tâm, chi phối các quan hệ sản xuất khác của xã hội.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ tổ chức quản lý có vai trò quan trọng ở chỗ nó
có khả năng quyết định một cách trực tiếp tới quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hớng của
một nền sản xuất cụ thể. Nếu quan hệ quản lý, tổ chức mà tốt thì làm cho sản phẩm
phát triển. Ngợc lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất hoặc làm biến dạng quan

hệ sở hữu.
Mặt thứ ba cấu thành lên quan hệ sản xuất là quan hệ phân phối sản phẩm. Quan
hệ này có ý nghĩa to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Vì nó
có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của ngời lao động, thúc đẩy sản xuất phát
triển khi lợi ích đợc bảo đảm, hoặc kìm hãm quá trình sản xuất khi lợi ích ngời lao
động bị vi phạm.
Ba mặt của quan hệ sản xuất không tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định với các quan hệ khác, nhng
quan hệ quản lý và phân phối cùng có sự tác động trở lại nó có thể làm biến dạng quan
hệ sở hữu. Do đó, ta không đợc tuyệt đối hoá bất kỳ một quan hệ nào.
Quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phơng thức sản xuất
chúng tồn tại không tách rời nhau mà có sự tác động biện chứng với nhau để hình
thành lên quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực l ợng sản
xuất.
Trong mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất khi lực lợng sản
xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Nội
dung quyết định hình thức.
Tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất đợc thể hiện đó là tính chất của t liệu
sản xuất và của ngời lao động. Nó thể hiện tính chất của t liệu sản xuất là sử dụng công
cụ là thủ công hay máy móc. Còn tính chất của ngời lao động là riêng lẻ hay hợp tác
trong quá trình sản xuất.
Trình độ của lực lợng sản xuất thể hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao
động của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động, quy mô sản xuất và trình
độ phân công lao động.
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang

3



Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

Tính quyết định của lực lợng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Các Mác cho rằng thích ứng với mỗi trình độ của lực lợng sản xuất chỉ có một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trng, tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất nh thế nào
thì nó quy định quan hệ sản xuất nh thế ấy. Lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất cả về nội dung, tính chất và xu hớng vận động của nó. Điều này có đợc là xuất
phát từ tính luôn vận động biến đổi và tính cách mạng của lực lợng sản xuất. Bởi vì
trong quá trình sản xuất thì con ngời luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao
động và chế tạo ra những công cụ lao động mới. Cùng với sự phát triển biến đổi của
công cụ lao động thì kinh nghiệm, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức
khoa học công nghệ của con ngời càng ngày càng phát triển hơn. Do đó lực lợng sản
xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất còn quan hệ sản xuất lại có tính chất
ổn định tơng đối có khuynh hớng lạc hậu hơn so với lực lợng sản xuất.
Trong mối quan hệ này thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc
vào nội dung, nội dung thay đổi trớc, hình thức biến đổi sau. Khi lực lợng sản xuất phát
triển biến đổi tới một trình độ mới thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa,
trở thành sự chớng ngại đối với sự phát triển của lực lợng sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của lực lợng sản xuất. Nếu sự phù hợp xảy ra ở giai đoạn cuối của một phơng thức
sản xuất thì phải làm cuộc cách mạng xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng một
quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản
xuất. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất xác lập quan hệ sản xuất mới có nghĩa là sự diệt
vong của một phơng thức cũ đã lỗi thời và ra đời một phơng thức mới thay thế nó.
Điều này đã đợc chứng minh trong lịch sử, trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ
trình độ phát triển của lực lợng rất thấp, lao động bằng thủ công, công cụ sản xuất rất
thô sơ, năng suất lao động thấp, thích ứng với nó là quan hệ công hữu về t liệu sản

xuất. Khi công cụ sản xuất phát triển chuyển từ đồ đá sang kim loại, năng suất lao
động cao hơn của cải d thừa tơng đối thích ứng với nó là sở hữu t nhân về t liệu sản
xuất ra đời. Xã hội Nô lệ ra đời thay thế xã hội nguyên thuỷ.
Sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình
độ của lực lợng sản xuất.
Nhng quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại đối với lực lợng sản xuất, nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển lực lợng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất thì
nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển. Tức là
quan hệ sản xuất phải tạo địa bàn cho lực lợng sản xuất phát triển, đồng thời quan hệ
sản xuất phải đem lại phơng thức tốt nhất cho sự kết hợp giữa ngời lao động và t liệu
sản xuất. Ngợc lại, khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời không phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất, hoặc quan hệ sản xuất đi quá xa thì nó kìm hãm sự phát
triển của lực lợng sản xuất. Song tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất chỉ mang tính
chất tạm thời nhng cuối cùng cũng đợc thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới.
Tác động biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự tác động
biện chứng giữa sự phù hợp và không phù hợp. Phù hợp khi quan hệ sản xuất là
hình thức phát triển của lực lợng sản xuất, nó phát huy tính tích cực của con ngời khai
thác các nguồn lực của sản xuất thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, kết hợp
có hiệu quả các yếu tố của lực lợng sản xuất. Còn không phù hợp khi quan hệ sản xuất
trở thành xiềng xích, trói buộc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Trong quá
trình phát triển luôn luôn xảy ra sự không phù hợp do đó ta cần thờng xuyên phát hiện
để giải quyết mâu thuẫn đem lại sự phát triển nhịp nhàng trong sản xuất.
3. Sự vận dụng của Đảng CSVN về mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản
xuất và Quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nớc ta
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực l ợng sản xuất là quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển. Do đó khi vận dụng
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang


4


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

vào mỗi nớc thì quy luật chung còn có tính đặc thù. Bời vì mỗi nớc trên thế giới ngoài
cái chung là đều phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội tồn tại và phát
triển, phải tuân theo quá trình phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Nh ng
các nớc lại tiến hành sản xuất với những đặc điểm riêng của mình nh: Phong tục, tập
quán, nền văn hoá riêng mang tính đặc thù. Vì vậy, khi áp dụng quy luật chung vào nớc
mình thì không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn cũng là tuân theo sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là quá trinh lịch sử tự nhiên nhng có nớc đi tuần tự từ Nô
lệ Phong kiến T bản - Xã hội chủ nghĩa, có nớc lại bỏ qua một hoặc hai hình
thái, nớc Mỹ bỏ qua một hình thái từ Nô lệ - T bản, nớc Nga từ Nông nô - T bản.
Nớc ta, Đảng xác định bỏ qua chế độ T bản chủ nghĩa tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta đi lên Chủ nghĩa xã hội từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ không
qua giai đoạn T bản chủ nghĩa. Bởi vậy khi áp dụng quy luật của Mác vào nớc ta lại có
những đặc thù riêng. Việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất nhiều khi đã bị hiểu sai, hiểu không đúng, chủ quan,
nóng vội, duy ý chí. Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc chúng ta đã mắc không ít
các sai lầm. Song chúng ta đã khắc phục các sai lầm đó, sự nhận thức vận dụng quy
luật ngày càng chính xác đầy đủ và có hiệu quả hơn.
Sự vận dụng quy luật ở nớc ta đã trải qua hai thời kỳ chính, đó là:
Thời kỳ trớc đổi mới
Từ năm 1954 1976, thời kỳ này miền Bắc nớc ta mới đợc giải phóng. Do đó,
khi tiến lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã mắc phải t tởng chủ quan, nóng vội cho rằng
cứ có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là có chủ nghĩa xã hội. Trong cải tạo quan hệ
sản xuất, chúng ta tiến hành theo hớng, xoá và chuyển, xoá là xoá bỏ quan hệ

chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất, xoá bỏ sự tồn tại của các thành phần kinh tế,
chuyển là chuyển từ sử hữu t nhân sang sở hữu nhà nớc, sở hữu cá thể thành sở hữu
tập thể. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng xác định hoàn thành cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thơng nghiệp nhỏ và công thơng nghiệp t bản t nhân, tăng cờng mối quan hệ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở
rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Với phơng châm nh vậy chúng ta đã tiến hành đa nông dân cá thể vào làm ăn tập
thể, trong công nghiệp tiến hành quốc hữu hoá các xí nghiệp t bản t nhân chuyển thành
xí nghiệp nhà nớc.
Kết quả tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất đã đợc khẳng định tại báo cáo Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng: chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dới hai
hình thức toàn dân và tập thể đã đợc xác lập một cách phổ biến. Đến năm 1975 trong
khu vực sản xuất vật chất 99,7% tài sản cố định đã thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục quan điểm của Đại hội III, đại hội IV khẳng định: cải tạo quan hệ sản xuất
cũ, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Để đạt đợc mục tiêu trên
đại hội đề ra:
Đối với lực lợng sản xuất phải đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa để
tăng cờng cơ sở vật chất cho quan hệ sản xuất mới. Đồng thời xoá bỏ các thành phần
kinh tế, làm sao để củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp theo hớng mở rộng quy mô sản xuất đối
với các hợp tác xã và nông trờng quốc doanh.
Đối với các bộ phận cá thể còn lại thì hớng dẫn họ phát triển theo đúng hớng.
Miền nam Đại hội đề ra: quốc hữu hoá những cơ sở công thơng nghiệp của t sản
mại bản, của bọn phản quốc và bọn t sản bỏ chạy ra nớc ngoài, tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với t sản t doanh, trong nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và thơng nghiệp nhỏ.
Với mục tiêu nh trên Đảng đề ra:

Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang


5


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

Bằng mọi cách làm cho kinh tế quốc doanh lớn mạnh nhanh chóng, chiếm u thế
trong sản xuất và phân phối.
Xoá bỏ ngay thơng nghiệp t bản chủ nghĩa trên cơ sở phát triển mậu dịch quốc
doanh và các hợp tác xã mua bán.
Tới Đại hội toàn quốc làn thứ V ta tiếp tục quan điểm của Đại hội tr ớc, mục tiêu
là: Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố phát triển quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nớc.
Tóm lại, qua ba kỳ Đại hội (từ Đại hội III đến đại hội V của Đảng), chúng ta tiến
hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hớng xoá bỏ nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đây là sự vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Chúng ta đã hiểu sai lý luận quan
hệ sản xuất mở đờng cho sự phát triển của lực lợng sản xuất. Theo lối t duy này, cứ có
chế độ sở hữu mới thì lực lợng sản xuất tự động phát triển, năng suất lao động tăng
nhanh, cho nên có thể thiết lập bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mới không
cần phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Chúng ta đã lạm dụng
quá vai trò mở đờng của quan hệ sản xuất mới đến mức tùy tiện, chủ quan, tách rời
khỏi thực trạng của lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có tác dụng mở đờng khi
lực lợng sản xuất phát triển đến mức quan hệ sản xuất trở thành lỗi thời kìm hãm nó,
khi đó ta xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ xác lập quan hệ sản xuất mới sẽ tạo ra động lực
trong sản xuất. ở đây chúng ta làm ngợc lại, đi xây dựng quan hệ sản xuất mới tiên
tiến vợt quá xa so với lực lợng sản xuất do đó tạo ra sự không phù hợp.

Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ lại đồng nhất cải tạo quan hệ sản xuất với quan
hệ sở hữu, lấy việc cải tạo chế độ sở hữu làm tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá mức độ
thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất. Trong khi đó lại không chú ý tới quan hệ quản lý và
quan hệ phân phối, trong phân phối chúng ta tiến hành phân phối bình quân do vậy
không khuyến khích đợc sản xuất. Về mặt quản lý tiến hành mở rộng kinh tế quốc
doanh nhng trình độ các cán bộ quản lý không đáp ứng đợc yêu cầu dẫn tới làm biến
dạng quan hệ sở hữu.
Thời kỳ đổi mới
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đánh dấu một mốc quan trọng về t duy đổi mới trong nhận thức, vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Đại hội chỉ ra sai lầm trớc đây: cha nắm chắc và vận dụng đúng quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Ta biết
rằng quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là hai mặt hợp thành một phơng thức sản
xuất, có sự tác động biện chứng với nhau. Tơng ứng với một trình độ phát triển nhất
định của lực lợng sản xuất, có một quan hệ sản xuất nhất định. Đồng thời quan hệ sản
xuất cũng có sự tác động qua lại đối với lực lợng sản xuất theo hớng thúc đẩy hoặc kìm
hãm. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất thì
nó thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, ngợc lại nếu không phù hợp thì kìm hãm lực lợng sản xuất phát triển.
Nớc ta vẫn còn sự không phù hợp giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải chủ động đợc quá trình vận động của lực lợng sản xuất
và quan hệ sản xuất để thờng xuyên điều chỉnh tạo nên sự gắn bó giữa hai mặt của một
phơng thức sản xuất.
Những năm sai lầm của ta là đã đẩy quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời thực
trạng thấp kém của lực lợng sản xuất. Đại hội khẳng định: lực lợng sản xuất bị kìm
hãm không chỉ trong trờng hợp quan hệ sản xuất lạc hậu. Mà còn cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi trớc vợt quá xa so với trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất.
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N


Trang

6


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

Khắc phục sai lầm trên Đại hội đề ra:
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần coi đây là đặc trng trong thời
kỳ quá độ ở nớc ta. Điều này bắt nguồn từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin
về thời kỳ quá độ. Theo Lê Nin thì thời kỳ quá độ có nghĩa là trong chế độ hiện nay
có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa
xã hội. Mặt khác theo lý luận hình thái kinh tế xã hội của Mác thì không có một
hình thái nào là thuần nhất chỉ có một kiểu quan hệ sản xuất mà bao giờ cũng có: Quan
hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn d và quan hệ sản xuất mầm mống.
Nớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu bỏ
qua giai đoạn t bản chủ nghĩa, lực lợng sản xuất của ta phát triển không đều, thích ứng
với một trình độ của lực lợng sản xuất lại có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trng. Vì
vậy sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ sản xuất là một tất yếu khách
quan. Nhanh chóng xoá bỏ đi các thành phần kinh tế là một sai lầm Mác khẳng định:
không bao giờ xuất hiện tr ớc khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ
đó chín muồi. Do đó không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào khi lực lợng sản xuất tơng ứng với nó đang còn sức sống, đang còn là tất yếu đối với xã hội.
Đại hội VI thừa nhận các thành phần kinh tế tồn tại đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm có quốc doanh và tập thể
- Các thành phần kinh tế khác gồm có: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ
công, nông dân cá thể, buôn bán và kinh doanh dịch vụ) kinh tế t bản t nhân, kinh tế
t bản nhà nớc, kinh tế tự nhiên, kinh tế tự cấp, tự túc.
Trong xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã tiến hành đồng thời trên cả ba

mặt của quan hệ sản xuất: Quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân
phối.
Trong nông nghiệp, ta đã tiến hành chia ruộng đất cho nông dân khắc phục lối
bình quân nhờ đó đã thúc đẩy sản xuất, công tác quản lý hợp tác xã cũng thay đổi, hợp
tác xã từ chỗ làm mọi khâu nay chuyển sang làm dịch vụ cho nông dân mà họ không
làm đợc.
Trong công nghiệp, chúng ta tiến hành đổi mới quản lý đói với các doanh nghiệp
quốc doanh, đảm bảo cho các doanh nghiệp quốc doanh đợc tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp. Đặc biệt là chúng ta đã chuyển từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng, đây là bớc đi căn bản tạo ra sự
phát triển cho lực lợng sản xuất. Trong quan hệ sở hữu, chúng ta tiến hành đa dạng hoá
các hình thức sở hữu gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu t nhân.
Nhờ các chính sách đồng bộ trên đã tạo ra sự phù hợp giữa lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Đánh giá chính sách trên, báo cáo tại Đại hội VII ghi nhận: chính
sách này đã đợc nhân dân hởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống nhanh chóng, chính
sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, về kinh tế, khơi dậy nhiều
tiềm năng sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ tạo thêm việc làm
và phát triển xã hội.
Tiếp tục quan điểm của Đại hội VI, Đại hội VII khăng định: chúng ta chủ trơng
thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ
nghĩa. Tới Đại hội VII các thành phần kinh tế có sự thay đổi đó là: Thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa đợc tách ra làm hai thành phần Quốc doanh và Tập thể. Đồng thời
không phân chia kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá và kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp
mà gọi là Kinh tế cá thể.
Các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể, kinh tế t bản nhà nớc và kinh tế t bản t nhân.
Trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Đến Đại hội VIII kinh tế quốc
doanh không còn gọi là một thành phần kinh tế nữa mà chỉ là một bộ phận nằm trong
kinh tế nhà nớc. Kinh tế tập thể thay bằng kinh tế hợp tác.
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N


Trang

7


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

Mục tiêu của Đại hội là: Xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Đại hội đề ra cần phải phát triển lực lợng
sản xuất để đến năm 2020 phần lớn lao động thủ công đợc thay bằng lao động máy
móc. Quan hệ sản xuất phải tiến hành trên cả ba mặt tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy
tăng trởng kinh tế.
Tới Đại hội IX, Đảng, Nhà nớc tiếp tục sử dụng chính sách kinh tế nhiều thành
phần. Đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển sản xuất. Tới
Đại hội IX quan hệ sản xuất tiếp tục đợc đổi mới, đại hội xác định có thêm thành phần
kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Với các thành phần kinh tế là: Kinh tế Nhà nớc, kinh tế
tập thể, kinh tế các thể, kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế có vốn đầu t
nớc ngoài.
Nh vậy, qua các kỳ đại hội Đảng quan hệ sản xuất đợc điều chỉnh sao cho có sự
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Tóm lại sự vận dụng quy luật của chủ nghĩa Mác Lê Nin ở nớc ta là một quá
trình, đi từ nhận thức cha đầy đủ tới nhận thức đầy đủ, từ cha hoàn thiện tới hoàn thiện
và ngày càng phát huy hiệu quả.
4. Đổi mới kinh tế nhà nớc là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Hiện nay, với những trình độ khác nhau của lực lợng sản xuất, chúng ta đã thực

hiện chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế nhà nớc giữ
vai trò chủ đạo. thuật ngữ kinh tế nhà nớc mới xuất hiện gần đây và đợc sử dụng rộng
rãi từ Đại hội VIII của Đảng.
Kinh tế nhà nớc là loại kinh tế do nhà nớc nắm giữ bao gồm quyền sở hữu, quyền
quản lý, quyền sử dụng kết quả kinh tế do lực lợng vật chất đó đem lại. Kinh tế nhà nớc phải là những hoạt động mà nhà nớc là ngời chủ sở hữu, có quyền tổ chức, chi phối
hoạt động theo hớng đã định.
Kinh tế nhà nớc bao gồm: Doanh nghiệp nhà nớc, Ngân sách nhà nớc, Ngân hàng
nhà nớc, Quỹ quốc gia và Hệ thống bảo hiểm
Mỗi bộ phận trong hệ thống lại có chức năng khác nhau:
Doanh nghiệp nhà nớc: là tổ chức kinh tế do nhà nớc đầu t vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hật động công ích nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội do nhà nớc giao.
Doanh nghiệp nhà nớc có hai loại:
- Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận
- Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động vì mục tiêu phúc lợi xã hội
Hai loại hình doanh nghiệp này có đặc trng, tính chất và mục tiêu khác nhau
Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động sản xuất kinh doanh, tiến hành kinh doanh theo
hiến pháp và pháp luật, canh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mục tiêu
là lợi nhuận.
Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động công ích có mục đích ổn định chính trị xã hội,
phục vụ cho nhu cầu chung của toàn xã hội. Đánh giá hiệu quả loại hình doanh nghiệp
này căn cứ vào phục vụ lợi ích công cộng tới đâu.
Ngân sách nhà nớc: là một bộ phận của kinh tế nhà nớc thực hiện chức năng thu,
chi ngân sách và có tác dụng điều chỉnh, quản lý, các hoạt động của kinh tế nhà nớc và
các thành phần linh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội.
Ngân hàng nhà nớc có chức năng quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh tế của
doanh nghiệp nhà nớc và các thành phần kinh tế khác.
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N


Trang

8


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

Các quỹ quốc gia có mục đích bảo đảm cho kinh tế nhà nớc, kinh tế quốc dân
hoạt động bình thờng trong mọi tình huống, các quỹ quốc gia dùng lực lợng vật chất
của mình để điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trờng, bảo đảm cho kinh tế xã hội đợc
ổn định.
Hệ thống bảo hiểm chịu trách nhiệm thực hiện chế độ bảo hiểm do nhà nớc quy
định để phục vụ kinh tế xã hội, nhằm cho hoạt động kinh tế xã hội hoạt động bình thờng trong điều kiện bị tổn thất.
Kinh tế nhà nớc là một hệ thống không chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nớc
mà còn có các bộ phận khác. Tuy mỗi bộ phận có chức năng, nhiệm vụ cụ thể khác
nhau nhng giữa chúng lại có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, chặt chẽ với nhau, hoạt động
theo một thể thống nhất do nhà nớc quy định nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã
hội do nhà nớc đặt ra.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất
đợc vận dụng vào kinh tế nhà nớc có sự khác nhau qua các thời kỳ của lịch sử.
Thời kỳ trớc đổi mới
Do nhận thức sai lệch về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sai quy luật của chủ nghĩa
Mác Lê Nin. Chúng ta đã tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất theo hớng mở rộng
thành phần kinh tế nhà nớc, xoá bỏ sự tồn tại các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà
nớc đợc mở rộng một cách tràn lan, không chú ý tới chất lợng mà chỉ chú ý mở rộng về
số lợng, vợt quá khả năng về năng lực quản lý, điều hành của nhà nớc.
Sau khi miền Bắc đợc giải phóng, năm 1954 miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiến hành kháng chiến. Kinh tế nhà nớc đợc mở rộng về quy mô bằng cách

quốc hữu hoá các xí nghiệp t bản t nhân, kinh tế nhà nớc nắm giữ những ngành, những
lĩnh vực quan trọng nh: Ngân hàng, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải.
Mặt khác, chúng ta đã tiến hành xây dựng một số cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
nh: Khu công nghiệp Việt Trì, khu gang thép Thái nguyên, nhà máy công cụ số 1 và
một số kết cấu hạ tầng khác, nhờ đó đã làm cho lực lợng sản xuất phát triển lên một
tầm cao mới.
Sau khi miền Nam đợc hoàn toàn giải phòng, đất nớc thống nhất, ta tiếp tục cuộc
cách mạng quan hệ sản xuất, miền Bắc củng cố mở rộng kinh tế quốc doanh, miền
Nam tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới. Miền Bắc
xây dựng các nông trờng quốc doanh, mở rộng các cửa hàng quốc doanh. Miền Nam
quốc hữu hoá các xí nghiệp t bản t nhân và t bản nớc ngoài, tăng cờng kinh tế nhà nớc.
Tóm lại, từ sau Đại hội lần thứ III đến đại hội lần thứ V của Đảng đều tiến hành
mở rộng kinh tế nhà nớc, xoá bỏ các thành phần kinh tế khác. Đây là sự vi phạm quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Kinh tế
nhà nớc tuy nhiều về số lợng song chất lợng lại yếu kém. Do cơ chế bao cấp cho nên
kinh tế nhà nớc mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nớc làm ăn không có hiệu quả.
Kế hoạch đợc đa từ trên xuống, đầu vào, đầu ra có nhà nớc lo, chính điều này đã làm
cho các doanh nghiệp không chú ý đến chất lợng sản phẩm và hiệu quả trong công việc
xoá bỏ các thành phần kinh tế làm mất tính cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nớc giữ độc
quyền dẫn tới chất lợng hàng hoá thấp, mẫu mã đơn diệu không có sự cải tiến, hàng
hoá khan hiếm không thoả mãn đợc nhu cầu của nhân dân.
Sản xuất không phát triển đã làm cho vai trò ổn định kinh tế đối với kinh tế nhà
nớc bị giảm sút. Hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, không kiểm soát đợc giá
cả. Nớc ta thời kỳ đó hình thành hai loại giá là giá chợ đen và giá nhà nớc, lu thông
phân phối rối ren, lạm phát leo thang. Điều này đã đợc khẳng định tại Đại hội lần thứ
V của Đảng: hiệu quả sản xuất thấp, các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng đ ợc một
nửa công suất thiết kế, năng suất lao động giảm, chất lợng sản phẩm sút kém. Lu thông
không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh đang tác đọng tiêu cực tới đời
sống nhân dân vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy giảm
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N


Trang

9


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

Chính vì vậy Đảng và Nhà nớc ta phải tiến hành đổi mới kinh tế nhà nớc nhằm
giữ đợc vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Thời kỳ đổi mới
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và kinh tế nhà nớc nói riêng. T duy đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI,
với mục tiêu chung là: Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý
của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đối với thành phần kinh tế nhà nớc, Đại hội VI cũng khẳng định: làm cho kinh
tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối đợc các thành phần kinh tế khác.
Kinh tế quốc doanh tiến hành đồng thời trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất là quan hệ
sở hữu, quan hệ quản lý, tổ chức sản xuất và quan hệ phân phối.
Trên lĩnh vực quản lý, chúng ta đã tiến hành đổi mới cơ chế quản lý chuyển từ cơ
chế bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh tế theo cơ chế thị trờng. Đại hội xác định:
phải đổi mới cơ chế quản lý, đảm bảo cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự
chủ thật sự, chuyển sang hạc toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Về mặt lực lợng sản
xuất, Đại hội xác định: tăng cờng cơ sở vật chất kỹ thuật và đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật
để nâng cao chất lợng và hiệu quả.
Nhờ có các chính sách trên đã làm cho quan hệ sản xuất phù hợp tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất, kinh tế nhà nớc vững mạnh trở lại đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Đại hội VII khẳng định: kinh tế quốc doanh sang nắm giữ những bộ

phận then chốt, có vị trí chi phối nền kinh tế, có tác dụng điều tiết thì tr ờng giá cả.
Đồng thời Đảng tiếp tục vận dụng quy luật của Mác vào đổi mới kinh tế nhà nớc trên
cả ba lĩnh vực của một quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất tiếp tục đổi mới bằng cách sắp xếp lại các doanh nghiệp để
giảm về số lợng tăng về chất lợng. Đại hội khẳng định là: khẩn trơng sắp xếp và đổi
mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả
nắm vững những ngành, những lĩnh vực then chốt đẻ phát huy vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế.
Đi đôi với đổi mới quản lý, quan hệ sở hữu cũng đợc đổi mới cho phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Trong kinh tế nhà nớc quan hệ sở hữu đợc
đa dạng hoá nhờ chính sách: Cho thuê, cổ phần hoá, hoặc cho phá sản cho thuê,
chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài không có khả năng vơn
lên. Bên cạnh đó nhà nớc còn tiến hành giao vốn và áp dụng rộng rãi các hình thức
khoán trong doanh nghiệp quốc doanh nhằm khắc phục lối bình quân. Tới Đại hội
VIII thì kinh tế quốc doanh không còn là một thành phần kinh tế mà chỉ là một bộ
phận của kinh tế nhà nớc. Mục tiêu của Đại hội VIII và IX là đẩy mạnh Công nghiệp
hoá hiện đại hoá nhằm phát triển lực lợng sản xuất. Để đảm bảo đợc vai trò chủ đạo
kinh tế nhà nớc phải làm đòn bẩy cho tăng trởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã
hội, mở đờng dẫn dắt các thành phần kinh tế. Muốn vậy, kinh tế nhà nớc phải phát triển
nhanh chóng, phát triển lực lợng sản xuất bằng cách ứng dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ. Quan hệ sản xuất đợc đổi mới trên cả ba mặt. Về quan hệ quản lý, chúng ta
đã sắp xếp lại các doanh nghiệp làm hai loại: là doanh nghiệp hoạt động công ích và
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó tiến hành cổ phần hoá, giao,
bán và cho thuê, cho phá sản với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ để thay đổi về quan
hệ sở hữu.
Tóm lại cùng với đổi mới cơ chế chính sách, kinh tế nhà nớc cũng đợc đổi mới để
giữ vững định hớng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nớc phải nắm giữ các ngành
then chốt, đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển lực lợng sản xuất,
quan hệ sản xuất đợc thay đổi trên cả ba mặt để quan hệ sản xuất thích ứng với tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Nhờ đó kinh tế nhà nớc mới làm tốt đợc vai trò

chủ đạo.
Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang 10


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

5. Kết luận
Nớc ta quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, lực lợng
sản xuất thấp kém. Muốn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, phát huy mọi tiềm năng
đòi hỏi chúng ta phải vận dụng lý luận Mác Lê Nin vào điều kiện cụ thể ở n ớc ta.
Mà trớcc hết là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng
sản xuất.
Đây là quy luật chung khi áp dụng vào nớc ta cần phải tính đến các yếu tố đặc
thù, không thể chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
tới nay, Đảng ta đã nhất quán sử dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý điều tiết của nhà nớc định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất, nhằm làm cho quan hệ sản
xuất thích ứng lực lợng sản xuất. Nhờ đó, đã khơi dậy đợc tiềm năng sáng tạo của nhân
dân, huy động đợc vốn, kinh nghiệm sản xuất tạo ra nhiều của cải cho xã hội, giải việc
làm ổn định đời sống nhân dân.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt, tạo
điều kiện, đi trớc mở đờng và liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác.
Để làm tốt đợc vai trò chủ đạo, định hớng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nớc đã
không ngừng đổi mới để tạo ra sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất. Hơn 10 năm qua
kinh tế nhà nớc liên tục đợc sắp xếp đổi mới, giảm về số lợng, tăng về chất lợng với
nhiều giải pháp: Cổ phần hoá, giao, bán, cho thuê, phá sản, sát nhập... Nhờ đó chất lợng đã đợc nâng lên rõ rệt. Không những thế, kinh tế nhà nớc còn đi đầu trong ứng

dụng thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới máy móc thiết bị nhằm phát triển lực lợng
sản xuất. Chính vì lẽ đó kinh tế nhà nớc đã làm tốt đợc vai trò chủ đạo của mình.
Bên cạnh đó, kinh tế nhà nớc còn có những hạn chế, yếu kém, đòi hỏi cần phải đợc tiếp tục đổi mới về cơ chế chính sách, sắp xếp lại để tạo ra sự tăng trởng cao đa nền
kinh tế của nớc ta phát triển hơn nữa, cạnh tranh thắng lợi với các nớc trong khu vực.

Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang 11


Tiểu luận Triết học

Trờng Đại học Thỷ lợi Khoa Sau Đại học

tài liệu tham khảo

1960
1982
1982
1987
1991
1996
2001

1971
1996

1. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng NXB Sự thật Hà Nội
2. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng NXB Sự thật Hà Nội
3. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng NXB Sự thật Hà Nội

4. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng NXB Sự thật Hà Nội
5. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng NXB Sự thật Hà Nội
6. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng NXB Sự thật Hà Nội
7. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng NXB Sự thật Hà Nội
8. Các Mác t bản quyển 1, tập 1 - NXB Sự thật Hà Nội 1993
9. Mác - ăng Ghen tuyển tập, tập 2 NXB Sự thật Hà Nội 1997
10. Mác - ăng Ghen tuyển tập, tập 6 NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1993
11. Lê Nin toàn tập, tập 29 - NXB Sự thật Hà Nội năm 1971
12. Lê Nin toàn tập, tập 43 - NXB Tiến bộ Hà Nội năm 1978
13. Góp phần phê phán Kinh tế Chính trị học NXB Sự thật Hà Nội năm
14. Cải cách Doanh nghiệp Nhà nớc NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm

Nguyễn Quang Phi Cao học 12N

Trang 12



×