Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LENIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.24 KB, 15 trang )

Lời nói đầu
Từ khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, các thế lực đối nghịch của chủ
nghĩa Mác Lênin, của chủ nghĩa xã hội cũng có dịp vu cáo, xuyên tạc
hòng bác bỏ chủ nghĩa Mác Lênin. Trong đó lý luận hình thái kinh tế xã
hội là một điều lý luận bị công kích từ nhiều phía. Những con ng ời cách
mạng luôn phải đấu tranh với các quan điểm thù địch nhằm bảo vệ sự
đúng đắn của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và lý luận Mác về hình thái
kinh tế xã hội nói riêng.
Việt Nam là một trong bốn nớc còn tồn tại của hệ thống chủ nghĩa xã
hội trớc kia nhng Việt Nam luôn đi theo con đờng mà mình đã lựa chọn,
luôn xây dựng và bảo vệ những gì mà mình đã lựa chọn, luôn xây dựng và
bảo vệ những gì mà mình đã có dới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nớc đi
theo con đờng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Vấn đề là một nớc nghèo
nàn, lạc hậu, nền kinh tế thấp kém, lại còn bị bọn thực dân rồi đế quốc đàn
áp bóc lột, nớc ta đã và đang dần dần từng bớc đi lên và phát triển kinh tế
dới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam. N ớc ta thuộc vào
nhóm đang phát triển, là một trong những nớc nghèo nhất thế giới, nông
nghiệp lạc hậu còn cha phát triển xã hội truyền thống đổi sang xã hội văn
minh công nghiệp. Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là nội dung, phơng thức là con đờng phát triển nhanh có hiệu
quả. Đối với nớc ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại
hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại
làm biến đổi cơ bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, chính trị công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đờng củng cố độc lập
dân tộc, khắc phục lạc hậu, đói nghèo là quy luật khách quan trong tiến
trình phát triển của đất nớc tạo ra một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, bảo
đảm cho sự tăng trởng kinh tế nâng cao đời sống vấn đề và văn hoá của
nhân dân. Chúng ta cần biết rằng khi hình thành quan niệm duy vật về lịch
sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định tiến trình phát triển lịch
sử của xã hội loài ngời là sự thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình


thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Việc vận dụng học thuyết hình thái kinh
tế xã hội để xác định con đờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc
cuộc đổi mới ở nớc ta đã đang nảy sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi chúng ta
phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và học thuyết

Tiểu luận Triết học

1


hình thái kinh tế xã hội nói riêng để tiếp tục làm sáng tỏ con đ ờng đi lên
của chủ nghĩa xã hội ở nớc ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là một vấn đề quan
trọng cần phải thực hiện một cách đúng đắn nhanh chóng để đặt tới một
nền kinh tế phát triển mạnh xã hội ổn định, một xã hội có trình độ khoa
học ngày càng cao, hiện đại. Muốn thế chúng ta cần thay đổi hình thái
kinh tế xã hội, cụ thể hơn chúng ta cần phải thay đổi quan hệ sản xuất, lực
lợng sản xuất và phơng thức sản xuất bởi vì lực lợng sản xuất là nền tảng
vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Sự hình thành và phát
triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội xét đến cùng là do lực lợng sản xuất
quyết định. Lực lợng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế xã hội
nối tiếp nhau từ thấp lên cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của
xã hội loài ngời. Từ quan hệ sản xuất dẫn tới các mối quan hệ khác trong
xã hội từ đó tạo nên xã hội và quy luật xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội
lại có một kiểu qqh sản xuất của nó tơng ứng với một trình độ nhất định
của lực lợng sản xuất. Trong dự thảo báo cáo chính trị Đại hội IX xác
định: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đa nớc ta trở thành một nớc công nghiệp; u tiên phát triển lực lợng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định h ớng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực của dân tộc gắn với vận
dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để

phát triển nhanh có hiệu quả bền vững Do đó chúng ta cần nghiên cứu lý
luận hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam hiện nay để thấy rõ đợc thực trạng của vấn đề đó.

Tiểu luận Triết học

2


Phần I: Cơ sở lý luận về hình thái kinh tế xã hội
của chủ nghĩa Mác Lênin
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của nghĩa duy vật lịch sử
đáng để chủ nghĩa xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định với
những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lợng sản xuất ở một trình
độ nhất định và với một kiến trúc thợng tầng đợc xây dựng lên trên những
quan hệ sản xuất đó. Học thuyết Mac Lê nin về hình thái kinh tế xã hội
vạch rõ kết cấu cơ bản và phổ biến của mọi xã hội, quy luật vận động và
phát triển tất yếu của xã hội. Xã hội không phải là tổng số những hiện t ợng, sự kiện rời rạc, những cơ cấu phức tạp trong đó có những mặt cơ bản
nhất là lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến thức thợng tầng. Mọi
mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận
động của cơ thể xã hội. Chính toàn vẹn đó đợc phản ánh bằng khái niệm
hình thái kinh tế xã hội.
Tìm hiểu về học thuyết Mac-Lê nin và hình thái kinh tế xã hội
chúng ta phải xét trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật về nguồn gốc
động lực của sự vật, xét đến sự vận động phát triển của thế giới, nó đòi hỏi
phải xem xét các sự vật, hiện tợng trong sự tác động qua lại ảnh hởng lẫn
nhau giữa chúng trong sự vận động phát triển, đó là quy luật và phát triển
của sự thống nhất hay đấu tranh trong xã hội. Sự tác động qua lại của các
mặt đối lập, trực tiếp sự đấu tranh của các mặt đối lập th ờng xuyên trong
các mặt đối lập dẫn đến chuyển hoá lên những hình thức cao hơn. Lê nin

đã từng nói: Phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Mọi sự vật
còn là một thể thống nhất của chất lợng . Sự thống nhất giữa chất và lợng
là thống nhất của 2 mặt đối lập, chất là mật độ tơng đối ổn định là mặt
biến động hơn. Đó là quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lợng và
chất. Còn trong quy luật phủ định của phủ định Mác đã nghiên cứu lý luận
hình thái kinh tế xã hội dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết
quá trình lịch sử. Mác đã nêu ra quan điểm duy vật và lịch sử về hình thái
học thuyết về hình thái kinh tế xã hội. Sự sản xuất xã hội là hoạt động đặc
trng riêng của con ngời và xã hội loài ngời. Quá trình sản xuất vật chất là
cơ sở nền tảng cho sự tồn tại và phát triển xã hội, sản xuất vật chất quy
định và quyết định đến toàn bộ đời sống xã hội. Học thuyết Mác Lê nin về
hình thái kinh tế xã hội vạch rõ kết cấu cơ bản và phổ biến của mọi xã hội
quy luật vận động và phát triển tất yếu của xã hội. Nh vậy muốn thay đổi
Tiểu luận Triết học

3


xã hội nâng cao xã hội và trớc hết phải tác động vào chính nền kinh tế
xây dựng tác động đến hình thái kinh tế xã hội cụ thể hơn là thay đổi nâng
cao hơn đối với lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thợng tầng. Mac đã nêu một t tởng rất quan trọng về vai trò của lực lợng sản xuất trong việc thay đổi các quan hệ xã hội. Mác việt: Những
quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lợng sản xuất . Do có
đợc những lực lợng sản xuất mới loài ngời thay đổi phơng thức sản xuất
của mình và do thay đổi phơng thức sản xuất cách kiếm sống của mình,
loài ngời thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cố xay quay
bằng tay đa lại xã hội có lãnh chúa ,cái cối xay chạy bằng hơn n ớc đa lại
xã hội có nhà t bản công nghiệp. Nh vậy theo Mác lực lợng sản xuất xét
đến cùng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phơng thức sản xuất,
dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội và thay đổi một chế độ xã hội

mà về sau Mác gọi là hình thái kinh tế xã hội. Lịch sử phát triển của xã
hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. T ơng ứng với
mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế xã hội. Sự vận động thay thế nhau
của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy
luật khách quan đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Mác viết: Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên. Trong các quy luật khách quan cho phối sự vận động phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất có vai trò quyết
định nhất. Lực lợng sản xuất một mặt của phơng thức sản xuất là yếu tố
bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định
khuynh hớng phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai
của phơng thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của
lịch sử nhân loại. Theo quan điểm của Lê nin thì ông đã quy những quan
hệ xã hội về các quan hệ sản xuất quy những quan hệ sản xuất vào
những trình độ của lực lợng sản xuất từ đó giải thích đa sự vận động của
các hình thái xã hội. Bởi vì, những quan hệ sản xuất bao giớ cũng tồn tại
trân một trình độ nhất định của lực lợng sản xuất. Hai mặt này thống nhất
thành phơng thức sản xuất và hợp thành nền tảng vật chất của mọi hình
thái kinh tế xã hội. Phép biện chứng của lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất xét cho cùng là động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội
và đa sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế
xã hội khác cao hơn. Những ý kiến của Lê nin về sự phân tích chủ nghĩa t
Tiểu luận Triết học

4


bản mà Mác đã tiến hành trong bộ t bản chính sách ý nghĩa đặc biệt đối
với việc vạch ra cấu trúc toàn diện của hình thái kinh tế xã hội nh là sự

thống nhất giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc th ợng tầng. Lê nin cho rằng
trong khi phân tích hình thái kinh tế xã hội t bản chủ nghĩa Mác đã tập
trung vào quan hệ sản xuất: Nhng điều chủ yếu là ở chỗ Mác không thoả
mãn với cái sờn đó, không chỉ dừng lại ở cái lý luận kinh tế hiểu theo
nghĩa thông thờng là ở chỗ tuy rằng Mác chỉ dùng độc có những quan hệ
sản xuất để giải thích cơ cấu và sự phát triển của một hình thái xã hội nhất
định. Song ở mọi nơi, mọi lúc, ông đều phân tích những kiến trúc th ợng
tầng tơng ứng với những quan hệ sản xuất ấy. Bộ T bản, sở dĩ đợc hoan
ngênh nhiệt liệt chính là vì cuốn sách đó đã vạch ra cho độc giả thấy rằng
toàn bộ hình thái xã hội t bản chủ nghĩa là một cái gì sinh động với những
khía cạnh của đời sống hàng ngày. Với những biểu hiện xã hội cụ thể của
sự đối kháng giai cấp vốn có của những quan hệ sản xuất, với cái kiến trúc
thợng tầng chính trị t sản đang bảo vệ sự thống trị của giai cấp t sản đang
bảo vệ sự thống nhất của giai cấp t bản, với những ý niệm t sản về tự do
bình đẳng với những quan hệ gia đình t bản. Mác đã trình bày rất logic
ở trong cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị viết năm 1859
rằng: Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình con ng ời có những
quan hệ nhất định, tất yếu, không thuỳ thuộc vào ý muốn của họ tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp, với mọi trình độ
phát triển nhất định của của các lực lợng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là các
cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc th ợng tầng pháp lý và chính
trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định hởng ứng với cơ sở hiện
thực đó. Về sau bằng một công thức ngắn gọn Ănghen đã tóm tắt quan
niệm về hình thái kinh tế xã hội nh sau: trong mỗi thời đại lịch sử phng
thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do
phơng thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời
đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ thời đại, các cơ sở mà chỉ có xuất
phát từ đó mới cất nghĩa đợc lịch sử của sự phát triển trí tuệ thời đại, cái
cơ sở và chỉ có xuất phát từ trí tuệ thời đại, các cơ sở mà chỉ có xuất phát

từ đó mới cắt nghĩa đợc lịch sử. Lịch sử chứng tỏ rằng, các hình thái xã
hội ngay cùng một kiểu cũng không khi nào đợc thể hiện dới hình thức nh
sau. Mác viết : cùng một cơ sở kinh tế đó xét về mặt những điều kiện chủ
yếu của nó-nhng do có những tình hình khác nhau về mặt kinh nghiệm,
Tiểu luận Triết học

5


do những điều kiện tự nhiên, do những quan hệ chủng tộc do những ảnh h ởng lịch sử từ ngoài vào,.. nên lại có biểu hiện ra dới không biết bao
nhiêu là biến thể và màu sắc mà ngời ta chỉ có thể hiểu đợc nhờ phân tích
những tình hình nhất định do kinh nghiệm đem lại. Học thuyết Mác về
hình thái kinh tế xã hội nhấn mạnh vai trò quyết định xét đến cung
cầu của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là nhân tố quyết
định duy nhất trong lịch sử. Ăng ghen viết: Theo quan điểm duy vật lịch
sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác lẫn tôi cha bao giờ khẳng định gì hơn
thế Do đó nếu có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là nhân tố
kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất thì nh vậy là họ đã biến câu đó
thành một câu trống rỗng, triều tợng về nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở,
nhng mọi yếu tố khác của thợng tầng kiến trúc cũng đều ảnh hởng đến
quá trình của những cuộc đấu tranh lịch sử và trong nhiều trờng hợp lại
chiếm u thết trong việc quyết định hình thức của những cuộc đấu tranh
đó. Căn cứ vào những t tởng của các nhà kinh điển và thực tiễn, chúng ta
có thể xác định hình thái kinh tế xã hội luôn gắn liền với sự phát triển của
xã hội muốn đẩy mạnh nền kinh tế của một xã hội ta cần tác động thay đổi
hình thái kinh tế xã hội. Muốn thay đổi hình thái kinh tế xã hội chúng
ta cần hiểu rõ học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội nó là một
cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Mác cho rằng
hoạt động thực tiễn của con ngời dới tác động của các quy luật khách

quan, Mác đã làm nổi bật lại những quan hệ xã hội vật chất, tức là những
quan hệ hình thái mà không thông qua ý thức của con ng ời. Đó là những
quan hệ sản xuất và Mác coi là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết
định tất cả mọi quan hệ khác. Bằng cách này, chủ nghĩa duy vật cung cấp
cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan, từ những phức
tạp trong hiện tợng xã hội. Nh vậy học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã
hội là cơ sở phơng pháp luận của sự phân tích khoa học về xã hội là hòn
đá tảng của khoa học xã hội. Ngày nay thực tiễn lịch sử và kiến thức về
lịch sử của nhân loại có nhiều bổ sung và phát triển mới, nh ng những cơ
sở khoa học mà quan niệm duy vật về lịch sử đa đem đến cho khoa học xã
hội thì vẫn giữ nguyên giá trị. Giá trị không thể bác bỏ của học thuyết
hình thái kinh tế xã hội chẳng những ở tính khoa học mà còn ở tính cách
mạng, học thuyết này chỉ ra những mâu thuẫn bên trong và chính sự vận
động của mâu thuẫn này cuối cùng cũng dẫn đến sự chuyển hoá từ một
Tiểu luận Triết học

6


hình thái này sang một hình thái khác, từ một một trật tự quan hệ xã hội
này sang một trật tự quan hệ xã hội khác. Gần đây, tr ớc những thành tựu
kỳ diệu của khoa học và công nghệ , lại trong điều kiện chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nhiều nớc bị sụp đổ, khuynh hớng tuyệt đối hoá cách tiếp cận theo
nền văn minh tăng lên nhằm hạ thấp, thậm chí loại bỏ cách tiếp cận hình
thức kinh tế xã hội. Họ cho rằng lý luận về hình thái đang mất đi cả ý
nghĩa nhận thức. Vì thế nói không thể áp dujg vào bức tranh thế giới hiện
đại. Đó là một kết luận không có cơ sở và bản thân ph ơng pháp tiếp cận
hình thái của Mác không hề giới hạn mình chỉ trong phạm vi một nền văn
minh nhất định và nó luôn đánh giá cao vai trò cách mạng của lực l ợng
sản xuất và công nghệ, tức là vai trò của những trình độ văn minh vật chất.

Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội luôn là quan niệm duy nhất
khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã
hội. Trong quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đờng phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trờng hợp bỏ
qua một hình thái kinh tế xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể nhất định.
Qua những luận điểm những quan điểm trên của Mác và Ăng ghen
chúng ta thấy, đất nớc ta đã vận dụng những lý luận trên, Đảng và Bác Hồ
đã vạch ra con đờng tiến lên cho đất nớc Việt Nam. Đất nớc ta muốn đi
lên, muốn phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế xã
hội thì cần phải chọn lựa phát huy truyền thống dân tộc, phát triển kinh tế
xã hội, tiếp cận nền văn minh thế giới, phải đổi mới công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc. Xây dựng và bảo vệ đất nớc giàu mạnh trong những năm
tiếp theo, phấn đấu hoàn thành suất sắc mục tiêu và ph ơng hớng mà Đảng
và nhà nớc đã nêu ra trong các lần Đại hội.

* Vai trò phơng pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế xã hội.
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội là mô hình lý luận xã hội và nh
mọi mô hình nó không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tợng trong
đời sống xã hội. Vì vậy, hiện thực xã hội và sơ đồ lý thuyết về xã hội không
đồng nhất với nhau. Trong thực tế, các sự kiện lịch sử mang tính không lặp lại,
hết sức phong phú, các yếu tố tinh thần và vật chất, kinh tế và chính trị thờng xuyên tác động qua lại, xâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau. Phạm trù hình
thái kinh tế xã hội chỉ phản ánh cái bản chất, những mối liên hệ bên trong
Tiểu luận Triết học

7


tất yếu, lặp lại của các hiện tợng ấy; từ tính đa dạng cụ thể lịch sử, bỏ qua
những chi tiết cá biệt, dựng lại những cấu trúc ổn định và lôgíc phát triển của

quá trình lịch sử. Bất kỳ giới tự nhiên hay trong xã hội, đều không có và
không thể có hiện tợng thuần tuý - đó chính là điều mà phép biện chứng của
Mác đã dạy chúng ta, phép biện chứng đó vạch cho chúng ta thấy bản thân các
khái niệm thuần tuý cũng có một tính phiến diện và hẹp trong nhận thức của
con ngời, làm cho ngời ta không thể nhận thức đợc đầy đủ đối tợng trong tất
cả tính phức tạp của nó.
Phạm trù kinh tế xã hội đem lại những nguyên tắc phơng pháp luận
xuất phát để nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài cái ngẫu nhiên, không
đi vào các chi tiết, vợt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi
sâu vạch ra các bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tợng, vạch ra cái
lôgíc bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử.
Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế xã hội, hình thái
mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc
của hệ thống cũ lại đợc bảo tồn, kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó, vừa
đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra bớc phát triển, do đó tạo ra tình trạng chồng
chất, đan xen những yếu tố của nhiều hình thái xã hội khác nhau của nhiều
thời kỳ lịch sử khác nhau.
Tiến trình lịch sử của một dân tộc, một quốc gia cụ thể thờng xuyên bị
những yếu tố bên trong và bên ngoài khác chi phối nh hoàn cảnh địa lý, truyền
thống văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ giao lu với các dân tộc khác. Tất cả các
yếu tố đó đều có thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một
dân tộc nhất định. Các quá trình lịch sử của xã hội loài ngời diễn ra không
đồng đều, thờng xuyên xuất hiện những trung tâm phát triển về sản xuất vật
chất, về kỹ thuật, về văn hoá và tiến bộ xã hội. Chính từ những trung tâm ấy
có sự đổi mới và phát triển lan rộng nhờ sự giao lu, trao đổi, đua tranh giữa
các trung tâm phát triển giữa các nớc có trình độ phát triển khác nhau. Đó là
cơ sở thúc đẩy tiến bộ, làm xuất hiện khẳ năng một số nớc có thể bỏ qua một
hình thái kinh tế xã hội nào đó, lợi dụng tính không đồng đều của quá trình
lịch sử một cách có ý thức để rút ngắn mà không phải lặp lại tuần tự các quá
trình phát triển của lịch sử.


Tiểu luận Triết học

8


Phần II : Vận dụng học thuyết kinh tế xã hội
vào hoàn cảnh lịch sử của nớc ta
trong từng giai đoạn cụ thể
Những lập luận về con đờng phát triển bỏ qua một hình thái kinh tế
xã hội đã trình bày ở trên là cơ sở lý luận chung để nhận thức con đ ờng
phát triển ở nớc ta. Chúng ta có cơ sở khoa học để tin tởng rằng, con đờng
quá độ lên chủ nghĩa ở nớc ta cả trong điều kiện này vẫn là tất yếu và
có khả năng thực hiện.
Sự lãnh đạo của Đảng ta, một Đảng giàu tinh thần cách mạnh, sáng
tạo, gắn bó với quần chúng là nhân tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trong những thời điểm phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng ta vẫn vừng vàng lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện đờng lối đổi mới, vợt qua những hiểm nghèo đa công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nớc của nhân dân ta tiến lên một cách vững
vàng.
Chúng ta đang sống thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, cuộc cách mạng này vừa tạo ra thời cơ thuận lợi cho
phép một quốc gia đã chứng minh. Đó là công cuộc đổi mới công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Nói đến tốc độ của quá trình tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là nói đến cuộc chạy đua về mặt thời gian và thời
đại ngày nay. Là thời thời đại quá độ của chủ nghĩa t bản tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Các dân tộc sớm hat muộn đều tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Định hớng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế là đã bao hàm một sự cam kết

về cấp độ, đảm bảo nhanh hơn mọi quá trình tự phát và do đó lực lợng sản
xuất phải đợc phát triển mạnh hơn. Nếu chúng ta tận dụng đợc thời cơ và
vợt qua đợc thách thức thì có thể tạo ra đợc những cơ sở đó thực hiện sự
phát triển rút ngắn bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa trên con đờng đi tới chủ
nghĩa xã hội.
Trớc mắt chúng ta phải định hớng và vạch ra một chơng trình cụ thể
trên một lĩnh vực, định hớng lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu
dài nên Đảng ta đã xác định nhiệm vụ trớc mặt là đổi mới nền kinh tế, xây
dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
Tiểu luận Triết học

9


trờng có sự quản lý nhà nớc. Thực hiện quá trình đổi mới là cả một quá
trình lâu dài nên Đảng và nhà nớc ta đã chủ trơng thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nông thôn là một phơng hớng cấp bách. Nghị quyết
Đại hội VIII ghi rõ : Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã xây
dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển
của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an
ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh. Xã hội công bằng văn minh từ nay
đến năm 2020 ra sức phấn đấu đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc công
nghiệp.
Để đẩy nhanh sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n ớc, chúng ta
cần phải nắm vững tình hình kinh tế thế giới, vận dụng thành quả của các
nớc đã phát triển, phải mở cửa giao lu với các nớc bên ngoài, chớp lấy
thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn, đề phòng cảnh giác cao độ với các
nớc t bản không để cho họ lợi dụng tiềm năng kinh tế của n ớc ta. Chúng ta
đã đạt đợc một số thành quả bớc đầu, nhng cũng phải thừa nhận rằng,

công cuộc đổi mới của chúng ta còn không ít khuyết điểm và những mặt
yếu kém trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng: tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế quá thấp. Nớc ta thiếu huy động vốn trong dân. Trong phát triển
kinh tế nhiều thành phần, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới
vừa lúng túng vừa có tình trạng buông lỏng ch a phát huy tốt nhiều tiềm
năng. Giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất nhằm tháo gỡ các vớng mắc về
cơ chế. Chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp nhà nớc nâng cao hiệu quả hoạt động. Cơ chế thị tr ờng còn sơ
khai, vai trò quản lý vĩ mô của nhà nớc đối với nền kinh tế còn yếu. Hệ
thống quản lý kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi luật pháp cơ
chế chính sách cha đồng bộ nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy
và hớng dẫn nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nâng cao hiệu quả và đúng h ớng. Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực tệ nạn tham nhũng buôn lậu
lãng phí của công cha đợc ngăn chặn, thậm chí tiếp tục tăng. Sự phân hoá
giàu nghèo giữa các tầng lớp trong nhân dân ngày càng mở rộng. Sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nớc ta cần phát triển gắn liền với sự
phát triển của kinh tế trí thức, đa đất nớc thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, rút
ngắn khoảng cách giữa nớc ta với các nớc không những chậm đợc thu hẹp
mà còn có nguy cơ mở rộng hiện nay GDP bình quân đầu ng ời nớc ta
bằng 1/12 mức bình quân chung. Trong các nớc thuộc Đông Nam á nớc ta
Tiểu luận Triết học

10


có tốc độ tăng GDP còn kém so với một số nớc nh Singapo, Malayxia
Philipin, Thái Lan, Việt Nam chỉ đứng thứ 5. Trong điều kiện đó, việc tìm
ra con đờng hợp lý đa ra những giải pháp thích ứng để đạt mục tiêu đã xác
định có ý nghĩa và càng quan trọng. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội IX
xác định con đờng công nghiệp hoá ở nớc ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với những nớc đi trớc. Vừa có những bớc đi tuần tự vừa có những

bớc nhảy vọt. Đại hội III của Đảng đã xác định Sự kết hợp giữa tuần tự và
nhảy vọt . Sự kết hợp tuần tự và nhảy vọt trong điều kiện hiện nay vẫn
phải là kết hợp công nghệ nhiều tầng, một mặt sử dụng cải tiến và nâng
dần công nghệ hiện đại theo trình độ thế giới . Khi khoa học đã thực sự trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp những yếu tố của kinh tế trí thức đã xuất
hiện sự phát triển các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào những thành tựu
mới nhất của khoa học và công nghệ chúng ta cần đổi mới kinh tế làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất thúc đẩy
lực lợng sản xuất phát triển trải qua hai cuộc chiến tranh lớn và thời kỳ
bao cấp kéo dài lực lợng sản xuất nớc ta còn thấp, kém năng suất lao
động thấp, lao động thủ công vẫn chiếm đa số 80% dân làm nông nghiệp
do đó cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của nhà nớc, cần nâng cao trình độ
dân trí tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng đợc tốt hơn. Trong sự nghiệp
phát triển đó nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc
ta. Con ngời không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu
tố hàng đầu đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lợng sản xuất mà
nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xã hội bằng hoạt động
lao động sản xuất con ngời đã cải tạo tự nhiên để thỏa mãn những yêu cầu
của mình. Đồng thời cải tạo cả bản thân con ngời. Trong hoạt động lao
động trinh phục tự nhiên và trên cơ sở đó sáng tạo nên những điều kiện
đảm bảo cho sự sinh tồn của bản thân mình sáng tạo ra lịch sử của chính
mình. Con ngời chinh phục cải tiến tự nhiên không phải với t cách là
những cá nhân riêng lẻ mà với t cách là những thành viên của cộng đồng
xã hội. Phát triển con ngời về thực chất là phát triển nhân cách con ngời.
Đầu t cho con ngời là đầu t cho phát triển. Đầu t cho giáo dục và đào tạo,
khoa học công nghệ là đầu t theo chiều sâu đáp ứng đòi hỏi của phát triển
và đón trớc yêu cầu của phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, những nỗ lực
bền bỉ của toàn dân ta, với những con ngời phát triển cả về trí lực và khổ

Tiểu luận Triết học

11


lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị xã hội, về đạo
đức, tình cảm trong sáng cần phải bồi dỡng nguồn nhân lực để phát huy
năng lực nội sinh của nhân tố con ngời, chăm lo thờng xuyên tới việc giải
quyết việc làm cho ngời lao động nâng cao trình độ dân trí đáp ứng nhu
cầu vật chất và tinh thần ngày một cao của nhân dân thực hiện dân giàu,
nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin lấy
sự phát triển con ngời làm thớc đo tiến trình phát triển và tiến bộ của xã
hội loài ngời, sự phát triển con ngời đã trở thành tiêu chí ngày càng quan
trọng trong việc xếp hàng các nớc trên thế giới, đánh giá tiến bộ kinh tế xã
hội của một nớc dựa vào trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, dựa
trên cơ sở yếu tố mang tính nhân văn nh mức thu nhập, trình độ học vấn
Đảng ta chủ trơng gắn kết mọi kế hoạch xây dựng và phát triển đất n ớc với
kế hoạch đầu t cho sự phát triển con ngời Việt Nam toàn diện.
Từ hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ơng khoá VIII Đảng đã
đề ta: u tiên phát triển lực lợng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ việc tất
yếu phải giải phóng năng lực sản xuất, thúc đẩy kinh tế bằng phát triển
kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Ngày nay lực lợng đã mang tính quốc tế
hóa vì vậy đòi hỏi chúng ta phải biết tận dụng sáng tạo quy luật sự phù
hợp của sản xuất vơi tính chất và trình độ lực lợng sản xuất, chống chủ
nghĩa chủ quan duy ý chí trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Chúng ta phải tập trung vào nhân lực là nhân tố cơ bản của sự phát triển
kinh tế xã hội, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân lành nghề. Cán
bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó lực lợng cán bộ khoa học kỹ
thuật đóng vai trò là yếu tố chủ thể của lực lợng sản xuất xã hội.

Trong thời kỳ hiện nay để phát huy những khả năng tiềm tàng về vật
t, lao động tất yếu, thực hiện nhiều ngành nghề do đó đòi hỏi. Vốn là khâu
quan trọng.
Đi đôi với việc phát triển về vốn chúng ta phải xây dựng một cơ sở
hạ tâng thật tốt. Đối với nớc ta là một nớc bị chiến tranh tàn phá nặng nay
phải xây dựng cơ sở hạ tầng để phù hợp với kiến trúc th ợng tầng. Cơ sở vật
chất của ngành giao thông vận tải là một trong những khâu quan trọng
nhất của kết cấu hạ tầng nó là cửa mở đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Vì vậy sự yếu kém của kết cấu hạ tầng là nguyên nhân hạn chế sự phát
Tiểu luận Triết học

12


triển kinh tế xã hội vừa là hậu quả của một nền công nghiệp ch a phát triển
bên cạnh đó việc mở rộng giao lu quốc tế tiếp cận và vận dụng những giá
trị mới của văn minh nhân loại đây là một vấn đề rất quan trọng. Nền kinh
tế nớc ta thị trờng chủ yếu trớc đây là các nớc đông Âu là Liên Xô cũ nhng thị trờng các nớc XHCN tan rã thì chúng ta đã mất đi một thị tr ờng lớn
đó là một thiệt thòi lớn đối với chúng ta nhất là trong thời kỳ chuyển đổi
nền kinh tế hiện nay. Vì đòi hỏi nhà nớc phải có chính sách yêu tiên cho
xuất khẩu và chế độ yêu đãi đối với hàng xuất khẩu. Tạo môi trờng tự do
sáng tạo cho mọi sáng kiến cá nhân là viếc nâng cao trình độ khoa học kỹ
thuật. Mở cửa thu hút vốn đầu t nớc ngoài, biết vận dụng, tận dụng nguồn
vốn một cách hợp lý, có hiệu quả, thu hút thị trờng các nớc hội nhập.
Trong sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thì chúng ta càng đề
phòng các tệ nạn, các hoạt động phản động phá hoại nền kinh tế n ớc ta,
các tệ nạn tham nhũng quan liêu làm ảnh hởng đến nền kinh tế, làm suy
thoái kinh tế trong thời kỳ phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bất kỳ một nớc nào muốn thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đều phải biết kết hợp các yếu tố trong xã hội nh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phát triển công nghiệp xây dựng kết cấu
hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ,
phát triển nguồn lực con ngời, phát triển kinh tế dịch vụ, kinh tế đối ngoại.
Trong thời đại hiện nay giai cấp công nhân là lực lợng trung tâm của xã hội là
giai cấp vừa đại diện cho nền sản xuất mới vừa là lực lợng cơ bản và chủ lực
làm ra của cải vật chất cho xã hội, lực lợng chính trong việc thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, cần phải đội ngũ hoá lực lợng sản xuất nâng
cao trình độ tri thức khoa học cho họ để đáp ứng yêu cầu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó có những điều kiện nh thị trờng vốn
đầu t, vốn sản xuất, môi trờng cạnh tranh tạo sự phát triển.
Việt Nam là một nớc có điểm xuất phát kinh tế thấp do chịu ảnh hởng của
chiến tranh, kinh tế phát triển muộn. Muốn phát triển nhanh nền kinh tế muốn
rút ngắn khoảng cách lạc hậu cần phải phát huy các điểm sau:
Phải sử dụng lợi thế nớc phát triển muộn về công nghiệp.
Tranh chiến tranh, tạo ra khung cảnh hoà bình để làm kinh tế để cần
phải ổn định về mặt chính trị t tởng.

Tiểu luận Triết học

13


Phải xác định đợc đúng mô hình phát triển công nghệ và kinh tế thị trờng.
Xây dựng các quy hoặc các ngành sát hợp với thực tiễn của ngành và
địa phơng phải thờng xuyên xem xét và điều chỉnh.
Bám sát thực tế phát hiện, tổng kết và nhân rộng các mô hình điển hình
tiêu biểu cho trí tuệ và sức mạnh của nhân tài.
Xem xét để giải quyết và tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trờng hàng
hoá và dịch vụ lao động , tiền công tiền lơng đầy đủ và bất động sản thị trờng
vốn tiền tệ tín dụng.

Cụ thể hoá luật pháp nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nớc .

Tiểu luận Triết học

14


kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử
nó nhằm tới mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó làm thay đổi bộ
mặt kinh tế và xã hội đó chính là sự đổi mới với hình thái kinh tế xã hội . Nói
cách khác sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thúc đẩy sự phát
triển không ngừng và ngày càng tiến bộ của lực lợng sản xuất, quan hệ sản
xuất, kết cấu thợng tầng, đó là một sự thay đổi mới hàng loạt các vấn đề cả về
lý luận thực tiễn, về kinh tế và chính trị xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh điều kiện mới.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm mục tiêu biến đổi
nớc ta thành một nớc công nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp sự phát triển sản xuất, nguồn lực
con ngời đợc phát huy mức sống vật chất tinh thần đợc nâng cao quốc phòng
và an ninh ổn định vững chắc làm cho dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng và
văn minh.
Nh vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình lâu dài để tạo ra sự
chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nớc ta về kinh tế chính trị và quốc phòng an
ninh. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay với chỉ là bớc đầu của
những thành tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt đợc xác đáng
khích lệ.
Việc Đảng và nhà nớc chọn con đờng tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là hết sức đúng đắn. Bằng sự thông minh sáng tạo cần cù của con ngời.
Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng Châu á chúng ta sẽ hoàn thành công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đa đất nớc Việt Nam sánh vai cùng các cờng
quốc năm châu cùng bạn bè quốc tế trên con đờng phát triển.

Tiểu luận Triết học

15



×