Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Sự phê phán của c mác đối với tư tưởng triết học của pru đông trong tác phẩm sự khốn cùng của triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.96 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HOÀI

SỰ PHÊ PHÁN CỦA C.MÁC ĐỐI VỚI TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC
CỦA PRU-ĐÔNG TRONG TÁC PHẨM
“SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC”

Chuyên ngành:
Mã ngành:

Triết học
60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Minh Hợp

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4
5. Cơ cở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 4
6. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 5
7. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 5


8. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 5
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI
VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT
HỌC” ................................................................................................................ 6
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” ........... 6
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Tây Âu đầu thế kỷ XIX ........................... 6
1.1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự ra đời của tác phẩm ......................................12
1.2 . Kết cấu của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”......................... 15
* Tiểu kết chƣơng 1 ...........................................................................................18
CHƢƠNG 2 SỰ PHÊ PHÁN CỦA C.MÁC ĐỐI VỚI TƢ TƢỞNG
TRIẾT HỌC CỦA PRU-ĐÔNG VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ PHÊ PHÁN
ĐÓ. .................................................................................................................. 19
2.1. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học của Pru-đông
trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”............................................ 19
2.1.1. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học mang tính duy tâm của
Pru-đông........................................................................................................... 19
2.1.2. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học mang tính tƣ
biện, siêu hình của Pru-đông. ....................................................................... 34
2.1.3. Sự phê phán của C.Mác đối với tính không tƣởng trong tƣ tƣởng
triết học kinh tế của Pru-đông. .................................................................... 43


2.2. Ý nghĩa sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học của Pruđông................................................................................................................. 62
2.2.1. Ý nghĩa lý luận ..................................................................................... 62
2.2.2. Ý nghĩa thực tiễn................................................................................... 67
* Tiểu kết chƣơng 2 ...........................................................................................74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Được đánh giá là một trong những sự kiện nổi bật nhất của thế kỷ XIXsự ra đời của chủ nghĩa Mác đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử nhân
loại. Trên cơ sở tổng kết, kế thừa những thành tựu của khoa học và lịch sử tư tưởng
nhân loại C.Mác và Ph.Ănghen đã xây dựng nên học thuyết mang tính khoa học,
cách mạng và nhân văn sâu sắc. Nó không chỉ đóng vai trò là thế giới quan mà còn
là phương pháp luận cho khoa học và hoạt động của con người. Bởi vậy, tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta xác định “Đảng ta lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động”.
Hơn 100 năm trôi qua chủ nghĩa Mác-Lênin luôn chứng tỏ được sức sống
mãnh liệt cũng như vai trò định hướng của mình. Vì vậy, để hiểu thực chất tính
cách mạng và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác trong thực
tiễn thì một trong nhiệm vụ quan trọng nhất là chúng ta phải đi sâu tìm hiểu cội
nguồn tư tưởng mà cụ thể là những tư tưởng được thể hiện trong các tác phẩm
kinh điển của chủ nghĩa Mác.
Lịch sử hơn 100 năm qua cũng chứng minh quá trình xây dựng và phát
triển của chủ nghĩa Mác là quá trình thường xuyên và liên tục đấu tranh chống lại
sự chống phá của các lực lượng phản động, thù địch. Điều này được thể hiện qua
hàng loạt các tác phẩm bút chiến trong hệ thống kinh điển của chủ nghĩa Mác.
Tiêu biểu trong hàng loạt các tác phẩm kinh điển mang tính bút chiến đó là tác
phẩm “Sự khốn cùng của triết học” được viết vào giai đoạn đề xuất những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Với ngòi bút phê phán quyết liệt, sâu cay
C.Mác đã đấu tranh chống lại trào lưu vô chính phủ Pru-đông bởi những luận
điểm mang nặng tính duy tâm, tư biện, không tưởng, những luận điểm là sự lừa
bịp trong khoa học và là sự dung hòa trong chính trị và qua đó C.Mác cũng trình
bày một cách hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác về triết học,

1



kinh tế và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm được đánh giá là một tác phẩm
quan trọng và là sự chuẩn bị cuối cùng cho “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” ra đời.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu to lớn
mà Đảng và nhân dân ta đạt được thì còn tồn tại nhiều phức tạp, khó khăn. Lợi
dụng sự phức tạp của tình hình hiện nay các thế lực phản động luôn tìm cách
chống phá cách mạng, cùng đó cũng xuất hiện những nghi ngờ, sự dao động tư
tưởng trong một bộ phận nhân dân về đường lối lãnh đạo, về lý tưởng mà chúng
ta đi theo cùng với đó yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi việc phát triển công tác lý
luận.
Bởi vậy, nghiên cứu và học tập để nắm chắc những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lê nin đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt là các tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác mà tiêu biểu là “Sự khốn cùng của triết học” có ý nghĩa lớn trong tiếp
thu và bảo vệ chủ nghĩa Mác trong giai đoạn hiện nay.
Mặt khác có khá nhiều công trình nghiên cứu tác phẩm “Sự khốn cùng
của triết học” với nhiều khía cạnh khác nhau về triết học, về kinh tế, về chủ
nghĩa xã hội... nhưng chưa có công trình nào trình bày tác phẩm một cách hệ
thống, sâu sắc. Đặc biệt là nội dung C.Mác phê phán tư tưởng triết học của Pruđông, phê phán trào lưu vô chính phủ ảnh hưởng đến phong trào công nhân lúc
bấy giờ.
Vì vậy, tôi chọn vấn đề “Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng
triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về nội dung C.Mác phê phán các trào lưu phản động, trước
hết phải kể đến các công trình của C.Mác và F. Ănghen trong các tác phẩm như
“Bản thảo kinh tế-triết học”, “Gia đình thần thánh”, “Hệ tư tưởng Đức”, “Góp
phần phê phán chính trị - kinh tế học”, “Chống Đuy-rinh”, “Phê phán cương lĩnh
Gô-ta” ...
2



Tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” được C.Mác viết trong giai
đoạn đầu - giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác và nó
được đánh giá là một tác phẩm quan trọng trong hệ thống kinh điển của chủ
nghĩa Mác, là sự chuẩn bị cuối cùng cho sự ra đời “Tuyên ngôn Đảng cộng
sản”- cương lĩnh của giai cấp vô sản. Bởi vậy, nghiên cứu chủ nghĩa Mác có khá
nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới tác phẩm này như:
Trong cuốn “Lịch sử triết học Mác” của Học viện Báo chí và Tuyên
truyền do TS. Trương Ngọc Nam chủ biên. Trong đó tác giả đã giới thiệu
những nét khái quát nhất về hoàn cảnh ra đời, những nội dung lớn và ý nghĩa
của tác phẩm “Sự khốn của triết học” trong giai đoạn đầu - giai đoạn đề xuất
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác.
Các tác giả viết cuốn “Giới thiệu tác phẩm kinh điển Mác-Lê nin” của
trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Cuốn
sách cũng đã chỉ ra những nét cơ bản nhất của tác phẩm về bối cảnh ra đời, nội
dung khái quát, giá trị của tác phẩm..
Cuốn “Giáo trình triết học Mác-Lê nin” của Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng bàn về tác phẩm “sự khốn cùng của triết học”. Qua việc trình bày những
nét chính và vị trí, ý nghĩa của tác phẩm đối với sự hình thành và phát triển của
chủ nghĩa Mác.
Ngoài ra tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” còn được giới thiệu
nhiều trong các cuốn “Giới thiệu tác phẩm kinh điển Mác-Lênin”, trong một số
tiểu luận, khóa luận về quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác hay
trong một số bài báo, tạp chí bàn về lý luận hình thái kinh tế-xã hội, lý thuyết giá
trị…
Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở giới thiệu những nét
khái quát nhất về hoàn cảnh ra đời, nội dung chính cũng như ý nghĩa lớn của tác
phẩm. Như vậy, vấn đề C.Mác phê phán những tư tưởng triết học của Pru-đông
trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” là một vấn đề mới chưa có công
trình nào nghiên cứu.

3


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Mục đích của luận văn là phân tích sự phê phán của C.Mác đối với những
tư tưởng triết học của Pru-đông qua đó làm rõ tính chất phản khoa học của những
quan điểm, lý luận đó.
3.2. Nhiệm vụ:
Từ mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, giới thiệu những nét khái quát nhất về hoàn cảnh ra đời và
kết cấu của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”.
Thứ hai, phân tích rõ những nội dung phê phán của C.Mác đối với tư
tưởng triết học của Pru-đông.
Thứ ba, đánh giá ý nghĩa của sự phê phán đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng:
Đối tượng của luận văn là nội dung phê phán của C.Mác đối với tư tưởng
triết học của Pru-đông trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”.
4.2. Phạm vi:
Luận văn tập trung vào khai thác sự phê phán của C.Mác đến các mặt,
các khía cạnh như tính chất duy tâm, tư biện và không tưởng.. trong những luận
điểm, tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm „Sự khốn cùng của triết
học”.
5. Cơ cở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan niệm duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và kết hợp sử dụng các
phương pháp như tổng hợp tài liệu, phân tích, so sánh,.. để làm rõ các vấn đề mà
luận văn đề cập.


4


6. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần phân tích một cách hệ thống nội dung phê phán của
C.Mác đối với những quan điểm phản khoa học của Pru-đông trong tác phẩm
“Sự khốn cùng của triết học”.
7. Ý nghĩa của đề tài
“Sự khốn cùng của triết học” là một tác phẩm lớn trong hệ thống kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Bởi vậy, luận văn có thể là tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác-Lênin nói
riêng.
Bên cạnh đó luận văn góp phần làm rõ vai trò của việc đấu tranh chống
những lực lượng phản động để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lê-nin.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn có kết cấu gồm 2 chương và 5 tiết.

5


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU
CỦA TÁC PHẨM “SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC”
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Tây Âu đầu thế kỷ XIX
“Sự khốn cùng của triết học” là tác phẩm được C.Mác viết năm 1847
trong giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, trong một
bối cảnh hết sức nóng bỏng của kinh tế- xã hội Tây Âu.
Từ thế kỷ XV, hàng loạt các phát kiến địa lý ra đời, rất nhiều các phát

minh khoa học trong các lĩnh vực xuất hiện tạo điều kiện cho sự phát triển của
kinh tế, thị trường quy mô thế giới hình thành. Lúc đó giai cấp tư sản đã rất
mạnh về kinh tế nhưng chưa có địa vị chính trị tương xứng vì vậy sự thay đổi về
mặt chế độ là tất yếu. Bước chuyển đó được thực hiện qua hàng loạt những cuộc
cách mạng tư sản như cách mạng Hà Lan (1566-1572), cách mạng Anh (16401689), cách mạng Pháp (1789-1799)... Như vậy , chủ nghĩa tư bản đã xác lập sự
thống trị của mình và để củng cố sự thống trị đó, giai cấp tư sản đã tiến hành các
cuộc cách mạng công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, là
sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát
từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản
đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và
chế tạo máy móc quy mô lớn.
Đầu tiên, cách mạng công nghiệp diễn ra ở nước Anh. Từ những năm
60 của thế kỷ XVIII cách mạng công nghiệp bắt đầu khởi động với tiêu chí quan
trọng nhất là máy móc thay thế lao động thủ công. Nước Anh đứng đầu trong
nền kinh tế thế giới, hoàn thành cách mạng công nghiệp vào những năm 1840.
Cuộc cách mạng này diễn ra từ công nghiệp nhẹ, trong ngành dệt sợi bông và
thu được nhiều thành tựu. Năm 1874 với sự ra đời của máy hơi nước đã tạo ra

6


bước đột phá trong cách mạng công nghiệp khi nó được ứng dụng rộng rãi trong
các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, giao thông vận tải...
Cuối thế kỷ XIX, máy móc chiếm ưu thế trong sản xuất, ngành dệt bông
được cơ khí hóa rất sớm. Việc cơ khí hóa sản xuất làm cho sản xuất công nghiệp
tăng lên nhanh chóng. Các ngành luyện kim và cơ khí phát triển mạnh nhằm
trang bị kỹ thuật toàn bộ cho công nghiệp. Năm 1810, sản lượng gang của Anh
là 225.000 tấn, năm 1850 con số đó là 2.250.000 tấn. Hệ thống đường sắt phát
triển mạnh từ 2.000km tăng lên 10.000km trong thời gian từ 1840 đến 1850. Sự

phát triển của đường sắt thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong nước và tăng
cường sự liên hệ giữa các trung tâm công nghiệp. Ngành hàng hải cũng có
những biến đổi quan trọng nhờ việc ứng dụng máy hơi nước với nhiều công ty
hàng hải lớn được thành lập. Sự phát triển của giao thông vận tải ảnh hưởng đến
ngoại thương, số lượng hàng xuất khẩu ngày càng nhiều. Sự phát triển công
nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp. Máy móc và phương pháp canh
tác mới được sử dụng trong nông thôn, do đó năng suất nông nghiệp tăng cao.
Anh là một nước có trình độ nông nghiệp tiên tiến thời bấy giờ.
Như vậy, cách mạng công nghiệp hoàn thành tạo nên sự phát triển mạnh
mẽ trong cả công nghiệp, nông nghiệp và đã hoàn toàn thay đổi bộ mặt kinh tế
của nước Anh, đưa nước Anh lên địa vị hàng đầu của thế giới.
Sau những khởi đầu ở Anh, cách mạng công nghiệp nhanh chóng lan
rộng ra phạm vi thế giới và nó trở thành hiện tượng phổ biến đồng thời mang
tính tất yếu với các quốc gia tư bản còn lại. Nếu như Anh mất gần một thế kỷ để
hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp của mình thì cách mạng công nghiệp
diễn ra ở một số nước tư bản khác diễn ra với tốc độ khẩn trương hơn, sôi động
hơn và thời gian hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp cũng ngắn hơn. Như
cách mạng công nghiệp ở Pháp, nước Pháp có nền kinh tế kém phát triển hơn
Anh nhưng mạnh hơn so với các nước Châu Âu lúc bấy giờ. Cách mạng công
nghiệp đang trên đà phát triển, hoàn thành vào những năm 60 của thế kỷ XIX.
Việc sử dụng máy móc ngày càng rộng rãi trong các ngành công nghiệp nhẹ và
7


nặng. Năm 1830, Pháp có 616 máy hơi nước đến năm 1847 tăng lên 4.853 cái.
Sản lượng công nghiệp các ngành cũng tăng lên rõ rệt. Công nghiệp dệt, đặc biệt
là dệt bông phát triển khá nhanh, sản lượng tăng gấp đôi từ 1816-1830. Năm
1832, Pháp sản xuất 225.000 tấn gang và 148.000 tấn sắt. Năm 1846, số gang
tăng lên 586.000 tấn và sắt tăng 373.000 tấn.
Trong nền kinh tế Pháp, hệ thống tín dụng phát triển khá mạnh, đây là

một đặc điểm quan trọng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp. Tuy có
những bước phát triển đáng kể, nhưng nhìn chung, tốc độ phát triển của công
nghiệp còn chậm chạp, quy mô nhỏ bé vì sự tồn tại của chế độ tiểu nông làm cho
thị trường trong nước bị thu hẹp, nguồn công nhân hạn chế, nguyên liệu ít ỏi. Sự
thống trị của Louis Philippe cũng là một trở ngại vì tư sản tài chính chỉ làm giàu
bằng con đường cho vay chứ không phát triển sản xuất.
Còn kinh tế Ðức tuy phát triển kém hơn Anh, Pháp, nhưng vượt xa các
nước Châu Âu nửa phong kiến lúc bấy giờ. Quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển
mạnh ở vùng sông Rhin, Westphalie. Bec-lin trở thành trung tâm công thương
nghiệp của Ðức, tập trung 1/3 sản xuất cơ khí và vải của cả nước. Trong công
nghiệp Ðức, công trường thủ công là hình thức sản xuất phổ biến. Cách mạng
công nghiệp ở Ðức bắt đầu vào năm 40 của thế kỷ XIX. Năm 1822 cả nước Ðức
chỉ có vài máy hơi nước. Năm 1837, riêng Phổ có trên 300 máy hơi nước. Công
nghiệp dệt và khai khoáng phát triển mạnh. Nền sản xuất tư bản đạt nhiều thành
tựu đáng kể, ngày càng tỏ ra mâu thuẫn với chế độ phong kiến.
Như vậy, trong khoảng từ 1815-1848 cách mạng công nghiệp tiếp tục
phát triển ở các nước, thúc đẩy nền kinh tế ở các nước này phát triển lên một
bước. Ở các nước chưa tiến hành cách mạng tư sản, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
cũng có những bước phát triển đáng kể. Nó đã tạo ra một nguồn của cải vật chất
phong phú cho chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng ảnh
hưởng đến sự phát triển xã hộị.
Cách mạng công nghiệp thành công với những thành tựu lớn lao làm
thay đổi bộ mặt của các nước được C.Mác đánh giá là đã tạo ra khối của cải
8


khổng lồ bằng nhiều lần các xã hội trước cộng lại. Nhiều khu công nghiệp xuất
hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới quá trình đô thị
hóa thời cận đại diễn ra mạnh mẽ. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần
hình thành. Sự phát triển của kinh tế cũng làm thay đổi cơ cấu giai cấp trong xã

hội, đặc biệt là sự xuất hiện và ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng
của giai cấp công nhân- giai cấp có tính tổ chức, kỷ luât và ý thức giác ngộ. Với
điều kiện sống cực khổ, lương thấp, điều kiện làm việc nguy hiểm luôn xảy ra
tai nạn, bóc lột và mỗi ngày họ phải làm việc từ 12 đến 15 giờ nên những cuộc
đấu tranh của họ đã sớm nổ ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Anh nảy sinh sớm nhất
vào năm 60 của thế kỷ XVIII. Ngay trong những cuộc đấu tranh đầu tiên hiện
tượng đập phá máy móc xuất hiện. Cao trào này phản đối việc sử dụng máy dệt
bằng hơi nước, nhưng bị chính quyền ra sắc lệnh xử tử những người đập phá
máy móc. Sau năm 1815, do khuynh hướng phản động của chính quyền nên
những cuộc đình công đòi phổ thông đầu phiếu và cải thiện đời sống lại bùng lên
sôi nổi và trở nên quyết liệt vào 1819. Phong trào đập phá máy móc lại nổ ra
mạnh hơn trước. Năm 1822, 1823 công nhân lại nổi dậy đập phá máy móc, thiêu
hủy những trang viên của địa chủ, đốt nhà người giàu, những cơ quan của chính
quyền.
Phong trào công nhân Pháp phát triển muộn hơn ở Anh, bắt đầu nảy
sinh từ những năm đầu thế kỷ XIX, bằng việc lập những hội tương tế, nhưng
những hội này ngày càng thiếu tính chất giai cấp. Phong trào đập phá máy móc
nổ ra và phát triển mạnh ở Pháp vào những năm 20 của thế kỷ XIX.
Phong trào công nhân Ðức phát triển muộn hơn ở Anh và Pháp. Nó
diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ XIX ở hai vùng công nghiệp quan trọng là
Rhin và Saxe, giai cấp vô sản Ðức đấu tranh đòi cấm sử dụng máy móc, họ còn
đập phá xí nghiệp.
Thông qua những phong trào này, giai cấp vô sản ở các nước được tôi
luyện và thu được những kinh nghiệm đấu tranh, thúc đẩy họ ngày càng trưởng
9


thành, đưa phong trào phát triển lên một bước. Từ những năm 30 trở đi, ý thức
chính trị của giai cấp công nhân tuy còn mơ hồ nhưng đã tiến bộ hơn trước, hiện

tượng đập phá máy móc không còn nữa. Những yêu sách về kinh tế, chính trị bắt
đầu được đưa ra trong các cuộc đấu tranh như những mục tiêu chiến đấu chủ yếu
của giai cấp vô sản. Họ đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng
xã hội độc lập.
Khởi nghĩa của thợ tơ Li-ông năm1831 và 1834 là cuộc khởi nghĩa lớn
của công nhân Pháp thời kỳ này. Công nhân ở Li-ông đã đứng lên biểu tình
để phản đối việc chủ không chịu tăng lương. Chính quyền phái quân đội đến
đàn áp, nhưng họ vẫn kiên quyết đấu tranh với khẩu hiệu Sống trong lao động
hay chết trong chiến đấu. Sau 3 ngày đấu tranh, công nhân đã đuổi được quân
chính phủ là làm chủ thành phố, nhưng bọn tiểu chủ đã ngăn cản việc tổ chức
chính quyền của giai cấp công nhân, vì thế quân đội được phái từ Pari về đàn áp
phong trào.
Cũng tại Li-ông, năm 1834 đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa khác, công
nhân phản kháng đạo luật cấm lập nhóm một cánh khắt khe. Nghiã quân đã ra
một bản tuyên bố trong đó mục đích chiến đấu của họ cũng là của toàn thể nhân
loại, là hạnh phúc, là một tương lai có bảo đảm. Những khẩu hiệu mà giai cấp
công nhân nêu ra trong quá trình khởi nghĩa đã mang tính chất chính trị rõ ràng.
Họ đòi thiết lập chế độ cộng hòa, nhưng lần này chính phủ đã chuẩn bị chu đáo
nên khởi nghĩa của công nhân bị quân đội đàn áp sau bốn ngày chiến đấu anh
dũng.
Các cuộc khởi nghĩa này đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công
nhân Pháp lần đầu tiên họ bước lên vũ đài chính trị với tư thế là một lực lượng
chính trị độc lập.
Phong trào đấu tranh của công nhân Anh thể hiện ở phong trào Hiến
Chương. Giai cấp vô sản Anh ủng hộ giai cấp tư sản trong cải cách tuyển cử
1832, nhưng kết quả là họ không được chút quyền chính trị gì. Vì thế, yêu cầu
của công nhân là đòi quyền chính trị ở nghị viện. Lãnh đạo phong trào là một tổ
10



chức mang tên Hội công nhân Luân đôn thành lập năm 1836 do Lowet đứng
đầu.
Hội đã thảo ra một yêu sách gồm sáu điểm trình lên nghị viện: Thực
hiện phổ thông đầu phiếu đối với nam giới từ 21 tuổi trở lên, phân chia khu vực
tuyển cử, xóa bỏ mọi hình thức thuế với điều kiện nghị viện, trả lương cho nghị
viên, tuyển cử hàng năm vào Quốc Hội và bỏ phiếu kín. Ðây là một cương lĩnh
mang tính dân chủ của công nhân, nó trở thành cương lĩnh hành động của phong
trào.
Diễn biến phong trào trải qua ba cao trào với ba cuộc biểu tình ủng hộ cho
các bản kiến nghị với cao trào lần 1 diễn ra năm 1839, thu được trên 1 triệu chữ
ký của công nhân, cao trào lần 2 diễn ra năm 1842, thu trên 3 triệu chữ ký và cao
trào lần 3 diễn ra năm 1848 với trên 5 triệu chữ ký.
Tuy vậy, tư tưởng hòa bình của Lowet, họ chủ trương thỏa hiệp với giai
cấp tư sản, cho rằng bất đắc dĩ mới dùng đến biện pháp cách mạng, vì vậy họ
không dám phát động phong trào đấu tranh của quần chúng để chống đối giai
cấp tư sản khi chúng từ chối không chấp nhận các yêu cầu của công nhân. Phong
trào tuy thất bại nhưng có một ý nghĩa lịch sử rất lớn, nó là một phong trào
mang tính chất quần chúng rộng rãi với một qui mô đấu tranh lớn.
Khởi nghĩa của công nhân Ðức nổ ra vào 1844 ở Silêdi. Công nhân đòi
tăng lương, phá hủy nhà cửa của tư sản. Chính quyền địa phương cho quân đến
đàn áp cuộc khởi nghĩa. Trong cuộc đàn áp này có nhiều chết và bị thương.
C.Mác đánh giá cao cuộc khởi nghĩa của những người thợ dệt Silêdi, xem đó là
một hiện tượng có ý nghĩa chính trị lớn lao, mở đầu cho phong trào công nhân
có tính chất quần chúng, chứ không phải là "một cuộc khởi nghĩa vì đói" như tư
sản cố tình xuyên tạc.
Các phong trào công nhân trong những năm 30-40 của thế kỷ XIX ở
Anh, Pháp, Ðức có những đặc điểm chung là những khẩu hiệu chính trị đã được
nêu lên bên cạnh những khẩu hiệu về kinh tế, phong trào mang tính chất quần
chúng rộng rãi và quy mô đấu tranh ngày càng lớn. Những đặc điểm này chứng
11



tỏ rằng giai cấp vô sản ở các nước đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Tuy nhiên, sự thất bại của phong trào đã chứng tỏ rằng giai cấp vô sản chưa
được giác ngộ đầy đủ, tổ chức chưa chặt chẽ, không được hướng dẫn bằng một
lý luận cách mạng khoa học. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Cũng
trong khi ấy, có một loạt những lý luận không khoa học đang tìm cách len lỏi
vào phong trào công nhân.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt
bậc, đã chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện
nhiều phát minh khoa học vạch thời đại như: Định luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng của Lô-mô-nô-xốp, thuyết tế bào của Sô-van và Slây-đen, học thuyết
tiến hóa của Đác-uyn… Các khoa học khác cũng thu được nhiều thành tựu như
kinh tế chính trị Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của A.X-mít, Đ.Ri-cácđô, lý luận xã hội của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi
tiếng như Xanh-ximông, Phu-riê hay triết học cổ điển Đức, đặc biệt với 2 hệ
thống triết học tiêu biểu của Hê-ghen và Phoiơbắc. Từ đó, C.Mác cùng với
Ph.Ănghen đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở tổng kết các thành tựu khoa học, kế thừa các giá trị tư tưởng
của nhân loại và một sức sáng tạo rất lớn. Chủ nghĩa Mác ra đời với hệ thống lý
luận hết sức khoa học, phù hợp và phục vụ cho việc đấu tranh vì lợi ích của giai
cấp công nhân được họ trình bày thông qua hàng loạt các tác phẩm lớn. Qua các
tác phẩm đó mà những nhà chủ nghĩa Mác đã trình bày hệ thống các quan điểm lý
luận của mình cũng như những lý luận bút chiến với những lý luận phản động
đang được truyền bá vào trong phong trào công nhân.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của tác phẩm
Trong giai đoạn đề xuất các nguyên lý cơ bản, C.Mác đã viết rất nhiều
tác phẩm đấu tranh chống những trào lưu phản động và cũng qua đó trình bày
những nguyên lý của mình. Như: “Phê phán triết học pháp quyền Hêghen”,
“Bản thảo kinh tế-triết học”, “Gia đình thần thánh”, “Hệ tư tưởng Đức”… Đến

12


1847, C.Mác đã viết “Sự khốn cùng của triết học” để trả lời tác phẩm “Triết học
về sự khốn cùng” của P.J.Pru-đông.
Pie Jo-dep Pru-đông (PierreJoseph Proudhon) sinh năm 1809, mất năm
1865. Ông là một nhà chính luận người Pháp, nhà xã hội học, kinh tế học tầm
thường, nhà tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, một trong những cha đẻ của “chủ
nghĩa vô chính phủ”.
Pru- đông sinh ra ở Besancon, trong một gia đình sản xuất bia rượu.Lúc
nhỏ ông làm việc trong quán rượu gia đình, giúp những công việc cơ bản, sống ở
nông thôn và ít nhận được sự giáo dục tiên tiến. Ông được dạy đọc bởi người mẹ
của mình, biết đánh vần từ năm 3 tuổi và đến năm 10 tuổi ông ông có thể đọc
được một số niên giám địa phương.. Năm 1820, ông được nhận vào đại học
Besacon, gia đình nghèo nhưng Pru-đông luôn thể hiện một ý chí mạnh mẽ
thường xuyên tìm hiểu, đọc sách ở thư viện trường...
Năm 1827, Pru-đông bắt đầu học nghề in tại Battant, năm sau ông
chuyển sang làm báo ở Besacon-trung tâm quan trọng của tư tưởng tôn giáo thời
điểm đó. Pru-đông trong quá trình làm việc của mình đã dành ra rất nhiều thời
gian để đọc các tác phẩm văn chương Kitô giáo và cũng trong thời gian đó ông
cũng sửa được rất nhiều ấn phẩm báo chí. Từ năm 1829, ông bắt đầu quan tâm
đến các vấn đề xã hội hơn là các lý thuyết tôn giáo.
Đến năm 1830, ông thất nghiệp và đi vòng quanh nước Pháp với những
công việc không ổn định trong nghề in ấn, làm giáo viên.. Trong thời gian này
Fallot-một người bạn của ông đã hỗ trợ tài chính với điều kiện Pru-đông phải
đến Pari nghiên cứu triết học. Nhận lời đó, ông đã đến Pari và bắt đầu công việc
học thuật của mình, nhưng vì không thích lối sống đô thi, các cuộc tranh luận
triết học nên khi dịch tả bùng phát ở Pari ông đã về nhà ở Besacon. Năm 1838
sau một kinh doanh in ấn không thành công, Pru-đông quyết tâm dấn thân hoàn
toàn vào học thuật và ông nhận được học bổng của Học viện Besacon để đến

Pari nghiên cứu.

13


Pru-đông có một số tác phẩm lớn như : Sở hữu là gì, Triết học về sự
khốn cùng.. Năm 1840, ông cho xuất bản cuốn “Sở hữu là gì?”. Tác phẩm này,
ông đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng "Sở hữu, đó là của ăn cắp". Tuy nhiên,
trong khi chủ trương xóa bỏ chế độ sỡ hữu tư bản chủ nghĩa, ông lại muốn duy
trì nền tư hữu nhỏ, chủ trương chỉ cần cải cách kinh tế, mà phủ nhận đấu tranh
chính trị, phủ nhận cách mạng vô sản. Năm 1846, ông viết tác phẩm “Hệ thống
những mâu thuẩn kinh tế hay là Triết học của sự khốn cùng”. Tác phẩm này đã
bị C.Mác kịch liệt phê phán lập trường chính trị tiểu tư sản, cơ hội chủ nghĩa,
chống đấu tranh giai cấp, chống cách mạng vô sản của Pru-đông...
Năm 1848, Pru-đông được bầu làm đại biểu trong Hội nghị lập hiến ở
Pháp, ông đề xuất ra đề án lập Ngân hàng nhân dân cho vay không lấy lãi. Dự án
xã hội chủ nghĩa không tưởng này đã bị thất bại. Pru-đông bị bắt và cầm tù 3
năm từ 1849 đến 1852 vì tội xúc phạm chủ tịch Luis Napoleon Bonaparte. Trong
quá trình trong tù, Pru-đông kết hôn và có nhiều hoạt động khác. Sau khi ra tù
Pru-đông sống lưu vong ở Bỉ và đến năm 1863 khi tự do hóa đế chế ông trở về
Pháp và từ bỏ hoạt động chính trị. Ngoài hai tác phẩm kể trên, ông còn viết một
số tác phẩm về kinh tế, xã hội và tôn giáo.
Ông mất tại Pari năm 1865. Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản
và vô chính phủ của Pru-đông đã có nhiều ảnh hưởng đến phong trào công nhân,
do đó C.Mác và F. Ănghen đã đấu tranh để loại trừ tư tưởng này ra khỏi phong
trào công nhân.
Năm 1846, Pru-đông viết “Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế hay triết
học về sự khốn cùng”. Với lời giới thiệu và 8 chương.
Giới thiệu: Các giả thuyết về một Thiên Chúa.
Chương 1: Trong kinh tế học

Chương 2: Phản đối của giá trị trong sử dụng và giá trị trong trao đổi
Chương 3: Diễn biến kinh tế - giai đoạn đầu - phòng lao động
Chương 4: Thời kỳ thứ 2 - máy móc
Chương 5: Giai đoạn thứ 3 - cạnh tranh
14


Chương 6: Giai đoạn thứ 4 - độc quyền
Chương 7: Giai đoạn thứ 5 - cảnh sát hoặc thuế
Chương 8: Trong trách nhiệm của con người và của Thiên Chúa, theo luật
của mâu thuẫn, hoặc một giải pháp của vấn đề mệnh trời.
Trong cuốn sách này, Pru-đông có những quan điểm phản khoa học,
tuyên truyền cho chủ nghĩa vô chính phủ và cản trở việc truyền bá tư tưởng cộng
sản chủ nghĩa vào phong trào công nhân. Vì vậy, để bóc trần quan điểm phản
động của Pru-đông, C.Mác đã viết tác phẩm này. Và cũng thông qua đó để làm
sáng tỏ một loạt các vấn đề của phong trào cách mạng vô sản.
1.2 . Kết cấu của tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”
C.Mác hoàn thành tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” vào năm
1847, in lần đầu tiên ở Pari và Brúc-xen bằng tiếng Pháp, khi C.Mác còn sống
tác phẩm không được tái bản thêm. Năm 1885, tác phẩm lần đầu được xuất bản
bằng tiếng Đức, Ph.Ănghen viết lời tựa, hiệu đính và viết thêm nhiều chú thích.
Năm 1886, tác phẩm được dịch và in bằng tiếng Nga. Năm 1892 tác phẩm lần
thứ 2 được xuất bản bằng tiếng Đức, lần này F.Ănghen có viết một lời tựa đề
cập đến việc sửa chữa một chỗ không chính xác trong nguyên bản mà một luật
sư người Áo lợi dụng sự nhầm lẫn đó để cho rằng C.Mác vô căn cứ. Sau khi
F.Ănghen mất, năm 1896 con gái C.Mác cho in tác phẩm này bằng tiếng Pháp.
Trong tác phẩm này C.Mác phê phán quan điểm phản khoa học và phản
động trong những quan điểm của Pru-đông và qua đó C.Mác cũng đề cập đến bộ
ba cấu thành nên chủ nghĩa Mác, tiếp tục đề xuất những nguyên lý triết học, chủ
nghĩa xã hội khoa học và kinh tế chính trị học. Nội dung đó được thể hiện trong

kết cấu gồm lời nói đầu và 2 chương lớn.
Chương 1- Một phát kiến khoa học, gồm có 3 tiết:
I - Sự đối lập giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
II - Giá trị cấu thành hay giá trị tổng hợp.
III - Việc ứng dụng quy luật tỷ lệ giữa các giá trị.

15


Trong chương này, C.Mác tập trung phê phán những sai lầm của Pruđông về tính không tưởng trong những quan niệm về kinh tế, về những biện
pháp mà Pru-đông đưa ra để cải cách kinh tế. Cụ thể là các quan niệm của Pruđông trong lý luận về giá trị, về giá trị cấu thành, sự ứng dụng của quy luật tỉ
lệ... và đặc biệt là các biện pháp cải cách kinh tế được rút ra từ những lý luận đó
của Pru-đông. Qua đó ta thấy được sự phản động trong những quan niệm, biện
pháp đó của Pru-đông.
Thông qua phân tích các phạm trù kinh tế, các quy luật giá trị. C.Mác
phê phán Pru-đông đã không thấy những mâu thuẫn biện chứng mà các nhà kinh
tế trước đó tìm ra như mâu thuẫn giữa giàu có và cùng khổ, thừa thãi và thiếu
thốn là những mặt đối lập vốn có của xã hội tư bản. Thực tế giàu có sinh ra do
bóc lột những người bần cùng, thừa thãi sinh ra do thiếu thốn, cho nên không thể
xóa bỏ tận gốc sự cùng khổ nếu không xóa bỏ xã hội tư bản. Khi Pru-đông cho
rằng chỉ cần xóa bỏ đi phương diện xấu xa của chủ nghĩa tư bản thì lý trí công
bằng được thực hiện như để xóa bỏ tự do cạnh tranh thì cần thiết phải bổ sung
bằng độc quyền, còn để chống độc quyền thì dùng chính sách thuế khóa. Mà
theo C.Mác như vậy là phản biện chứng.
Pru-đông còn phủ nhận tính chất hai mặt của mâu thuẫn, xóa nhòa đấu
tranh giữa hai mặt đối lập trong chủ nghĩa tư bản, ông ta chỉ thấy sự cùng khổ
của giai cấp vô sản mà không thấy tính chất cách mạng của nó, từ chối đấu tranh
và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phê phán quan điểm đó, C.Mác cho rằng mâu
thuẫn trong các xã hội có giai cấp là không thể điều hòa được, cách mạng xã hội
chủ nghĩa là tất yếu để giải quyết những mâu thuẫn đó.

Như vậy, bằng văn phong sắc sảo, lập luận đanh thép, tinh thần đấu
tranh trướng những tư tưởng phản khoa học, phản động của Pru-đông, C.Mác đã
phân tích làm rõ những sai lầm của Pru-đông trong quan niệm cũng như trong
hoạt động về kinh tế.
Chương 2- Phép siêu hình của khoa kinh tế chính trị, gồm 5 tiết
I - phương pháp.
16


II - Phân công lao động và máy móc
III - Cạnh tranh và độc quyền
IV - Quyền sử hữu ruộng đất hay địa tô
V – Những cuộc bãi công và những liên minh của công nhân.
Trong chương này, thông qua 7 nhận xét quan trọng C.Mác đã đấu tranh
quyết liệt với những luận điểm mang tính duy tâm, siêu hình của Pru-đông.
Đồng thời với việc phê phán các quan điểm đó, C.Mác còn trình bày những
nguyên lý triết học để bổ sung và phát triển những nguyên lý duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác.
Tiếp sau phần phương pháp với 7 nhận xét đó, C.Mác tiến hành phê
phán hàng loạt các quan điểm sai lầm của Pru-đông trong vấn đề phân công lao
động, độc quyền, phong trào công nhân mà Pru-đông trình bày trong “Hệ thống
những mâu thuẫn kinh tế hay sự khốn cùng của triết học”.
Cũng chính từ sự phê phán này, C.Mác trình bày các nguyên lý về
phương thức sản xuất, biện chứng của tồn tại xã hội, ý thức xã hội, mối quan hệ
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, về vai trò sứ mệnh của giai cấp công
nhân...
Đáp lại các quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản coi phương thức
sản xuất tư bản là vĩnh viễn, C.Mác đã chứng minh xã hội tư bản cũng là hình
thức tạm thời trong lịch sử, lịch sử loài người là quá trình hợp quy luật trong đó
sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự thay thế quan hệ sản xuất này

bằng quan hệ sản xuất khác. C.Mác còn vạch ra tính chất đối kháng trong xã hội
tư bản và các xã hội có giai cấp, đồng thời chỉ ra lực lượng có vai trò, sứ mệnh
lịch sử xóa bỏ sự đối kháng đó.
Tóm lại, C.Mác tập trung trình bày rất nhiều những nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử khi ông tiến hành phê phán
Pru-đông, ông phê phán tính duy tâm, tư biện, siêu hình, không tưởng trong các
quan điểm của Pru-đông và cũng thông qua đó trình bày các quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của mình.
17


* Tiểu kết chƣơng 1
Tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” ra đời từ yêu cầu của cuộc đấu
tranh chống trào lưu vô chính phủ trong giai đoạn đề xuất những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác, trong bối cảnh kinh tế xã hội hết sức nóng bỏng của Tây
Âu những năm 40 của thế kỷ XIX, nó mang tính bút chiến mẫu mực - không chỉ
đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác qua việc phê phán một cách quyết liệt các luận
điểm phản khoa học của chủ nghĩa vô chính phủ đang len lỏi ảnh hưởng đến
phong trào công nhân mà qua đó nó còn trình bày hệ thống những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác.
Tác phẩm ra đời trực tiếp từ sự đấu tranh chống lại các trào lưu phản
động, những lực lượng đang gây ảnh hưởng nguy hiểm đến phong trào công
nhân, khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng. Với ngôn ngữ sắc sảo, tinh
thần đấu tranh không khoan nhượng tác phẩm xứng đáng là một tác phẩm mẫu
mực về tinh thần luận chiến. Đồng thời C.Mác còn trình bày những nguyên lý
duy vật lịch sử trên cơ sở vững chắc của những nguyên lý duy vật biện chứng.
Qua đó, ta thấy những nguyên lý duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
C.Mác, F.Ănghen đã có sự chín muồi nhất định. Như vậy, đây nền vững chắc
cho sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.


18


CHƢƠNG 2
SỰ PHÊ PHÁN CỦA C.MÁC ĐỐI VỚI TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC
CỦA PRU-ĐÔNG VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ PHÊ PHÁN ĐÓ.
2.1. Sự phê phán của C.Mác đối với tƣ tƣởng triết học của Pru-đông
trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”
2.1.1. Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học mang tính duy tâm của Pruđông.
Tác phẩm được C.Mác viết trong giai đoạn đề xuất những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác. Vào đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thông qua cách mạng
công nghiệp đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, cùng với đó là sự lớn mạnh của
phong trào công nhân, nhiều thành tựu của khoa học, lý luận đặc biệt là những
thành tựu trong lĩnh vực tư tưởng. Mà không thể không kể đến đó là nền triết
học cổ điển Đức với thành tựu nổi bật là hệ thống triết học hết sức đồ sộ của Hêghen.
Tuy là triết học duy tâm nhưng tinh hoa trong nó chính là phép biện
chứng. Chính bởi vậy mà tư tưởng triết học của Hê-ghen ảnh hưởng mạnh mẽ
đến rất nhiều nhà triết học sau đó. Nhiều người kế thừa những điểm hợp lý,
những hạt nhân của hệ thống đó để phát triển nó lên để tạo nên những hệ thống,
những quan điểm hết sức đúng đắn, khoa học. Ngược lại, có nhiều nhà triết học,
chính trị học lợi dụng sức ảnh hưởng, lợi dụng yếu tố duy tâm trong hệ thống ấy
để thực hiện những mục đích chính trị khác nhau, gây ảnh hưởng xấu, kìm hãm
sự phát triển của khoa học, của lịch sử xã hội loài người và còn để chống đối,
xuyên tạc những quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác. Bởi vậy,
trong quá trình hình thành, phát triển những nguyên lý của mình thì chủ nghĩa
Mác luôn phải đấu tranh chống lại những luận điểm phản khoa học, phản động
đó.
Trong tác phẩm này, C.Mác đã đấu tranh trực diện, luận chiến một cách
quyết liệt trước những luận điểm phản khoa học, phản động của chủ nghĩa vô
chính phủ Pru-đông, trước những ảnh hưởng nguy hiểm của nó đối với phong

19


trào công nhân. Trong đó, C.Mác luận chiến hết sức quyết liệt trước những luận
điểm mang nặng tính chất duy tâm của Pru-đông mà nguồn gốc, cơ sở của nó
chính là chủ nghĩa duy tâm Hê-ghen.
Ngay từ lời nói đầu, C.Mác khẳng định tác phẩm của Pru-đông “không
phải chỉ là một tập sách kinh tế chính trị, một quyển sách bình thường, đó là một
kiểu kinh thánh, "những sự thần bí" "những điều bí mật rút ra từ trong lòng
"Thượng đế", "những mặc khải", chẳng thiếu cái gì. Nhưng vì, ngày nay, các
nhà tiên tri bị người ta đưa ra phán xét một cách nghiêm khắc hơn là những tác
giả phàm tục, cho nên bạn đọc hãy kiên tâm cùng với chúng tôi điểm qua lý luận
uyên bác khô khan và u ám của "Sáng thế ký", để rồi sau này sẽ cùng với ông
Pru-đông bay lên những miền phiêu diêu và giầu có của siêu chủ nghĩa xã hội”.
[8, tr102]
Và C.Mác đã chứng minh nó chính xác “là một kiểu kinh thánh” trong toàn
bộ
tác phẩm của mình.
Bắt đầu cuộc chiến phê phán ấy, vào đầu tác phẩm C.Mác đã so sánh,
mỉa mai ông Pru-đông trong mắt độc giả ở Pháp và Đức, cũng qua đó C.Mác
trình bày rõ mục đích tác phẩm của mình. Đó là phê phán những sai lầm của
Pru-đông, của triết học Đức và cung cấp một số nhận xét cho kinh tế chính trị
học. Khi “Ông Pru-đông gặp điều không may là ở châu Âu, lạ lùng thay, ông
không được người ta hiểu. Ở Pháp, người ta thừa nhận ông ta có quyền là một
nhà kinh tế học tồi, bởi vì ông ta vốn có tiếng là một nhà triết học Đức giỏi. Ở
Đức, ngược lại, người ta thừa nhận ông ta có quyền là một nhà triết học tồi, bởi
vì ông vốn có tiếng là một nhà kinh tế học Pháp vào hạng cừ nhất. Chúng tôi,
với tư cách vừa là người Đức vừa là nhà kinh tế học, chúng tôi muốn phản đối
lại sự sai lầm có tính chất hai mặt ấy.
Bạn đọc sẽ hiểu cho rằng, trong công việc bạc bẽo này, nhiều khi chúng tôi

đã phải bỏ việc phê phán ông Pru-đông để tiến hành phê phán triết học Đức và
đồng thời còn cung cấp một số nhận xét về khoa kinh tế chính trị”.[8, tr 101]
20


Chính qua đó, C.Mác đã bóc trần bản chất duy tâm của Pru-đông khi “ chỉ
làm cái việc là đi theo những “mâu thuẫn” của ông Pru-đông thôi”, với những
dẫn chứng cụ thể, lập luận đanh thép cuộc luận chiến trở nên sâu sắc, quyết liệt
hơn.
Thứ nhất, tính chất duy tâm đươc thể hiện ngay trong nhận xét thứ nhất,
C.Mác đã dẫn ra luận điểm của Pru-đông “Chúng tôi quyết không đưa ra một
lịch sử theo trật tự của thời gian, mà là theo trật tự của những ý niệm. Những
giai đoạn kinh tế hay phạm trù kinh tế biểu hiện ra khi thì đồng thời, khi thì đảo
ngược. Nhưng những học thuyết kinh tế không vì thế mà không có cái trật tự lôgic của chúng và chuỗi của chúng trong lý tính. Chúng tôi hy vọng rằng chính
trật tự ấy là cái mà chúng tôi đã phát hiện ra được".[8, tr 181]
Theo C.Mác câu nói ấy của Pru-đông “là những câu nói kiểu như của
Hê-ghen” đó là những câu nói hết sức kinh điển, những câu nói như “ném vào
mặt người Pháp”. Từ câu nói đó, C.Mác đã vạch rõ mối quan hệ của Pru-đông
với Hê-ghen, làm rõ sự khác biệt của Pru-đông với các nhà kinh tế học khác và
làm rõ vai trò của Hê-ghen trong khoa kinh tế chính trị của Pru-đông để chúng ta
có thể hiểu được thực chất câu nói này cuả Pru-đông.
Đầu tiên, C.Mác chỉ ra sự khác biệt của Pru-đông với các nhà kinh tế học
khác. Đó là các nhà kinh tế học diễn đạt những quan hệ sản xuất tư sản, sự phân
công lao động, tín dụng, tiền tệ .. như là những phạm trù cố định, không thay
đổi, vĩnh cửu. Mặt khác ông Pru-đông, trước những phạm trù đã hình thành
xong xuôi ấy, lại muốn giải thích sự hình thành, sự phát sinh của tất cả những
phạm trù, nguyên lý, quy luật, ý niệm, tư tưởng ấy. Các nhà kinh tế học giải
thích cho chúng ta hiểu rằng người ta sản xuất trong những quan hệ có sẵn ấy
như thế nào, nhưng điều mà họ không giải thích cho chúng ta, đó là những quan
hệ ấy đã nảy sinh ra như thế nào, không giải thích cho chúng ta hiểu sự vận động

lịch sử đã làm cho chúng nảy sinh ra. Pru-đông đã coi những quan hệ ấy là
những nguyên lý, những phạm trù, những tư tưởng trừu tượng nên ông ta lại đi
giải thích sự hình thành, phát sinh, phát triển của các phạm trù, nguyên lý, tư
21


tưởng ấy.. Vậy nên ông ta chỉ sắp xếp lại trật tự của các phạm trù, nguyên lý này
và sự sắp xếp ấy được C.Mác ví như là “sắp xếp lại trật tự của những tư tưởng
ấy, những tư tưởng đã được sắp xếp theo thứ tự chữ cái ở phần cuối của bất cứ
cuốn sách kinh tế chính trị nào”. [8, tr 182]
Như chúng ta đã thấy, Pru-đông rất tự tin về “cái trật tự ấy là cái mà
chúng tôi đã phát hiện ra được”. Ông ta đã không thấy được hiện thực cuộc
sống, các quan hệ xã hội luôn vận động, biến đổi. Chính điều đó đã tạo nên lịch
sử sinh động của loài người, từ thời còn sống thành bầy đàn, chuyên săn bắt hái
lượm, sử dụng những cành cây, hòn đá, những công cụ có sắn trong tự nhiên để
phục vụ cho nhu cầu sống, tự vệ của mình, đến khi con người biết sử dụng các
công cụ bằng đồng, bằng sắt, rồi biết chế tạo các công cụ thủ công, rồi máy móc
để phục vụ sản xuất, nâng cao năng suất lao động và làm thay đổi toàn bộ cuộc
sống của mình... Cứ như vậy, những hiện thực ấy được khái quát hóa, trừu
tượng hóa lại thành các phạm trù, tư tưởng, ý niệm. Mà thông qua các khái
niệm, phạm trù, tư tưởng đó chúng ta có thể hiểu được về cuộc sống, quan hệ
kinh tế, xã hội của con người ở những giai đoạn, thời kỳ khác nhau...
C.Mác đã lấy ví dụ để giải thích về điều này, chúng ta hãy cho rằng lịch
sử hiện thực, lịch sử theo thứ tự thời gian, là trật tự lịch sử theo đó những ý
niệm, những phạm trù, những nguyên lý đã biểu hiện ra. Mỗi một nguyên lý đã
từng có thế kỷ của nó, để biểu hiện ra ở đó nguyên lý quyền uy chẳng hạn thì có
thế kỷ XI, cũng như nguyên lý chủ nghĩa cá nhân có thế kỷ XVIII. Ta thấy chính
lịch sử đã sáng tạo ra nguyên lý, nên để hiểu nguyên lý ở thế kỷ XI hay XVIII ta
bắt buộc phải xem xét tỉ mỉ xem những người của thế kỷ XI là những người nào,
những người của thế kỷ XVIII là những người nào, những nhu cầu của họ trong

mỗi thế kỷ ấy, những lực lượng sản xuất của họ, phương thức sản xuất của họ,
những nguyên liệu dùng trong sản xuất của họ là những gì. Cuối cùng, những
quan hệ giữa người và người do tất cả những điều kiện sinh tồn ấy sản sinh ra là
những quan hệ nào. Nghiên cứu sâu tất cả những vấn đề ấy, chính là theo dõi
lịch sử hiện thực, trần tục của con người trong mỗi thế kỉ đó..
22


×