Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích hình tượng trung tâm trong thơ ca giai đoạn (19451975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.76 KB, 8 trang )

Đề : Phân tích hình tượng trung tâm trong thơ ca giai đoạn (19451975)
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
Đặc điểm cơ bản văn học Việt Nam (1945-1975) là nền văn học phục vụ
cho chiến đấu. Chủ trương của Đảng “văn học cũng là một mặt trận” , chiến đấu
vì quê hương, đất nước. Và hình tượng trung tâm của văn học là người lính ,
người chiến sĩ vệ quốc quân anh hùng hi sinh thân mình để bảo vệ quê hương Tổ
quốc.
II/ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG GIAI ĐOẠN (1945-1975)
1/ Giai đoạn chống Pháp (1946-1954)
Hình tượng người lính trong giai đoạn đầu của thời kì chống Pháp mang
đậm tính bi hùng, cảm hứng lãng mạng anh hùng của con người đi vào cuộc
chiến đấu, đầy gian lao và hy sinh. Và người lính ở giai đoạn này được sử thi hóa
nên có một khoảng cách quá xa vời với đời sống thực.
a/ Hình tượng người lính mang vẻ đẹp của sử thi.
- Trong thời đầu của cuộc chiến tranh vệ quốc, hình tượng người lính được
các nhà thơ xây dựng với một vẻ đẹp hiên ngang, bất khuất nhằm khích lệ tinh
thần yêu nước chống Pháp xâm lược cho dân tộc. Tiêu biểu có nhà thơ Chính
Hữu với bài thơ “Đồng Chí” mang vẻ đẹp lí tưởng của người lính. Mở đầu bài
thơ tác giả đã giới thiệu xuất thân của những người lính trong giai đoạn này, họ
là những người nông dân tay lắm chân bùn, quanh năm tần tảo với mảnh vườn,
thủa ruộng, nhưng học hiểu được nghĩa lớn đã ra đi để bảo vệ tổ quốc :” Quê
hương anh nước mặn đồng chua. Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá, Tôi với anh
đôi người xa lạ. Tựa phương trời chẳng hẹn quen nhau “. Họ là những người xa
lạ, nhưng họ thành bạn, thành Đồng chí với nhau thật sâu đậm và bình dị, vì họ
cùng có lí tưởng chung là cùng đi lính để bảo vệ quê hương đất nước. Ở đây, nhà

1


thơ Chính Hữu đã xây dựng một hình ảnh đẹp của người lính xã thân quên mình,
vì nghĩa lớn mà gạt bỏ tình riêng. “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian


nhà không mặt kệ gió lung lay” . Rồi họ cùng chia sẽ những khó khăn vất vả
trong chiến đấu :” Áo anh rách vai, Quần tôi có vài mảnh vá, Tôi với anh biết
từng cơn ớn lạnh, Sốt rung người vần tráng ướt mồ hôi” . Nhưng những khó
khăn thiếu thốn đó không làm lung lai ý chí kiên định của người lính, và họ đã
biến những khó khăn đó thành động lực, ý chí chiến đấu vì quê hương tổ quốc ;”
Đêm nay rừng hoang sương muối, Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới, Đầu súng
trăng treo” . Hình ảnh đầu súng trăng treo vừa tả thực vừa mang vẻ đẹp lãng
mạng anh hùng của người lính, hiên ngang bất khuất đứng chờ giặt đến. Đó là
một hình ảnh đẹp mang dáng vấp anh hùng trong sữ thi.
b/ Người lính mang vẻ đẹp của sự bi hùng.
Trong giai đoạn chống Pháp này, cùng với hình ảnh đẹp người lính hiên
ngang mang vẻ đẹp sử thi, thì bên cạnh đó còn có hình ảnh người lính mang vẻ
đẹp của sự bi hùng. Đại diện tiêu biểu là Quang Dũng với Tây Tiến, Mắt người
Sơn Tây…Và bài Tây Tiến được xem là một thi phẩm độc đáo , toàn bích hiếm
có của nền văn học kháng chiến, thế nhưng trong bài thơ này trong một khoảng
thời gian dài 1950, 1951 trở đi, người ta đã coi bài thơ này là biểu hiện của
những rơi rớt tư tưởng tiểu tư sản với những cái gọi là “mộng rớt” hay “yêng
hùng rớt” . Nhưng trong thực tế bài thơ này đã phán ánh được, lột tả hết được
chân thật những khó khăn gian khổ của người lính phải gánh chịu, và những nổi
tâm tư của những chàng trai trẻ khi khoát trên mình chiếc áo lính. Chất bi hùng
trong bài thơ đã được đề cập đến ngay từ nhan đề bài thơ “Tây Tiến “ . Đoàn
quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả
học sinh, sinh viên. Vẻ đẹp lãng mạng của người lính Tây Tiến được nhà thơ
xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi
2


thường . Hình ảnh người lính được trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và
kì lạ “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùm, Mắt

trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” . Sự tàn khốc
của thiên nhiên đã làm phai tàn chân dung của những chàng trai Hà Nội , khiến
họ phải mắt những căn bệnh oái oăm đầu không mọc tóc, nhưng không thể nào
xóa đi được sự lạc quan yêu đời , mang đạm tính anh hùng của những chàng trai
trẻ. Họ hi sinh đi chiến đấu vì quê hương đất nước nhưng trong tâm của mõi
người điều có một bóng hồng nhan, họ có người yêu, hay đang mơ ước một
người yêu ở Hà Nội. Quang Dũng chỉ qua vài câu thơ đã miêu tả được hết nội
tâm của người lính Tây Tiến.
Chất bi tráng trong Tây Tiến lần đầu tiên Quang Dũng đã đề cập đến cái
chết. Đó là điều tối kị trong thơ kháng chiến trong giai đoạn đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Nhưng cái chết trong Tây Tiến là cái chết anh hùng, không bi
lụy, tan thương. Cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang
chất bi hùng “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh, Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Khi miêu
tả những người lính Tây tiến , ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm
người đọc vào cái bi thương , bi lụy, mà ngược lại chính những hình ảnh những
nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí
tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái bi thảm của người lính
Tây Tiến là ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, nhưng qua cái
nhìn của nhà thơ lại đầy hiên ngang và sang trọng. “ Áo bào thay chiếu anh về
đất. Sông Mã gầm lên khúc đọc hành” . Hình ảnh người lính trong Tây Tiến của
Quang Dũng thấm đậm chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng , mang dáng vẻ
của bật anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
Ngoài Quang Dũng ra còn có Hữu Loan cũng là một nhà thơ tiêu biểu cho
hình tượng người lính mang vẻ đẹp của sự bi hùng qua bài thơ “ Màu tím Hoa
3


Sim. Bài thơ được nhà thơ sáng tác vào giai đoạn 1946-1950, bài thơ đã phát họa
ra một thế hệ anh hùng, lãng mạng trong thời kỳ đầu chống Pháp. Bài thơ này từ

khi ra đời đã bị cấm xuất bản vì nó mang âm hưởng đau thương tan tốc không
phù hợp với cách mạng. Nhưng trong lòng người đọc, Hữu Loan đã đem lại một
tiếng nói chân thành của người lính, bởi cái anh hùng và cái bi thương luôn đi
song hành cùng nhau.
Đồi tím hoa sim kẻ về người lính, chàng trai vệ quốc quân, xuất thân từ tầng
lớp tiểu tư sản, đi vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc bằng tất cả dũng khí “
trai thời loạn” nhưng vẫn mang trong mình nét hào hoa của một thế hệ. Mở đầu
bài thơ tác giả giới thiệu về gia đình của người vợ của mình bằng những câu thơ
đẹp nhất, hào hùng nhất. “ Nàng có ba người anh đi bộ đội. Những em nàng có
em chưa biết nói. Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi người vệ quốc quân yêu nàng như
tình yêu em gái.” Đó là tình yêu đẹp nhưng vì thời cuộc , chiến tranh nên phải xa
gia đình , xa người vợ bé bỏng. Trong tâm tư người lính lúc nào cũng mang nặng
tâm trạng “ Chinh phu tử sĩ mấy người “. Nhưng nỗi đau đớn của nhà thơ không
phải là cái chết của người đi đánh trận mà là cái chết của người vợ trẻ ở nhà.Đó
chính là nỗi đau đớn bi thảm hơn cái chết của mình, nhưng nỗi đau đớn đó đã
quá thành sức mạnh để người chiến sĩ góp công vào tiêu diệt kẻ thù chung cho
đất nước.
Một đại diên tiêu biểu nửa cho chất bi hùng của người lính đó chính là Núi
Đôi của Vũ Cao. Bài thơ kể về một chuyện tình có thật. Một tình yêu đẹp của đôi
trai gái trong làng “ Núi Đôi “ họ yêu nhau nhẹ nhàng , sâu sắc…Nhưng tất cả đã
tan biến khi có bóng giặt xâm lăng, tình yêu của người lính được kể lại với tâm
trạng đau đớn , xót xa khi nghe tin người yêu bị giặt giết chết. “ Giặt giết em rồi
dưới gốc thông…Núi vẫn đôi mà anh mất em” . Nhưng chính nỗi đau mang tính
bi thương đó đã hóa ra sức mạnh để người lính vệ quốc thêm vững bước quyết

4


tâm giết giặt để cứu nước “Anh đi bộ đội sao trên mũ, Mãi mãi là sao sáng dẫn
đường. Em sẽ là hoa trên đỉnh núi, Bốn mùa thơm ngát cánh hoa thơm”.

2/ Gia đoạn kháng chiến chống Mĩ (1960-1975)
Sau khi Mĩ nhãy vào tham chiến ở miền Nam. Đất nước phải đối mặt với
một kẻ thù mới đầy nguy hiểm. Hình tượng người lính trong giai đoạn này được
các nhà thơ khắc họa đầy hiên ngang , lẫm liệt với chí khí ngang tàn của những
người tri thức, hi sinh quên mình để bảo vệ đất nước.
a/ Vẻ đẹp người lính hiên ngang bất khuất trước sự tàn khóc của chiến
tranh
Các nhà thơ trẻ trong giai đoạn này cũng là những người trực tiếp tham gia
trận chiến, nên họ đã góp vào thơ một hình tượng người lính chân thật đầy cá
tính quên mình vì nước. Tiêu biểu cho giai đoạn này là nhà thơ Phạm Tiến Duật ,
ông cũng là người lính lái xe Trường Sơn với một tâm thế “ Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước- Mà lòng phơi phới dậy tương lai ( Tố Hữu). Phạm Tiến Duật có
giọng thơ mang chất lính , khỏe, dạt dào sức sống , tinh nghịch vui tươi, giàu suy
tưởng. Bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho hồn thơ trẻ
,khỏe khoắn của nhà thơ. Mỡ đầu bài thơ tác giả (người lính lái xe) đã khắc họa
sự tàn khốc ác liệt của chiến tranh gây ra, in đau thương tan tốc trên những chiếc
xe hằng ngày ra mặt trận. “ Xe không có kính, không phải vì xe không có kính.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.” Nhưng trong ca bin chiếc xe không có kính
đó là một hình ảnh hoàn toàn ngược lại, một niềm kiêu hảnh, hiên ngang của
người lính, “ Ung dung buồn lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Cái
nhìn của người lính đầy sự lạc quan , yêu đời nhưng tràn đầy quyết tâm giải
phóng đất nước. “ Không có kính rồi xe không có đèn, Không có mui xe thùng xe
có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước, Chỉ cần trong xe có một trái
tim”. Hình ảnh nhân hóa “ trái tim” thể hiện được ý chí hiên ngang lẫm liệt của
người lính đấu tranh để giải phóng đất nước.
5


Ở giai đoạn kháng chiến chống Mĩ đội ngủ nhà thơ trẻ phát triển lớn mạnh,
họ mang nhiều tiếng nói đầy màu sắc phản ánh được sự tàn khóc của chiến tranh.

Nhưng nét chính ở họ là sự hiên ngang bất khuất trước mọi kẻ thù, dù ở mọi
hoàn cảnh khó khăn , vất vả trong cuộc sống chiến đấu và họ tự ý thức về cuộc
đời mình, thấu hiểu trách nhiệm của mình :” Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước
trên vai “(Bằng Việt ) “Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính. Xanh
màu áo lính “ ( Thanh Thảo) . Và họ nói rất thật phơi bày ra những suy nghĩ tâm
tư tình cảm của mình khi đi vào cuộc chiến.
“Chúng tôi ra đi chẳng tiếc đời mình (Tuổi hai mươi làm sao không tiếc).
Nhưng ai cũng tiếc thì làm sao có tổ quốc (Thanh Thảo). Trong chiến trường họ
mang một giấc mộng anh hùng của người bất đắc dĩ. Đầy đua thương, bệnh tật
sợi hãy, cái đói khi ở rừng không làm trùng bước của đoàn quân giải
phóng :”Tiểu đội thồ không có gì thồ cả” . Nhưng tình yêu nước với sự hiên
ngang bất khuất đã giúp họ vượt qua mọi gian khổ thiếu thốn : “Một tháng vả
hành quân, Hai chân phòng rọp cả. Quấn băng vẫn còn đau. Nhiều lúc đi bằng
đầu”. Ngoài ra, trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ còn có hình tượng người
anh hùng mang dáng vấp sử thi, hiên ngang qua bài Dáng Đứng Việt Nam của
Lê Anh Xuân. Nhà thơ đã khắc họa một hình ảnh anh giải phóng hiên ngang
xông trận khi đến chết vẫn đứng tiến công vào quân giặc.” Anh ngã xuống trên
đường băng Tân Sơn Nhất. Nhưng anh ngượng đứng lên tì súng trên xác trực
thăng. Và anh chết trong khi đang đứng bắng. Máu anh tuông như lửa đạn cầu
vòng…”
b/ Vẻ đẹp hình tượng người lính mang màu sắc lãng mạng, lạc quan,
yêu đời.
Đi đôi với sự tàn khốc của chiến tranh là sự lạc quan , lãng mạng, yêu đời
của người lính cụ Hồ dù ở bất kì hoàn cảnh nào :” Trường Sơn ơi, nơi ta đi qua
không một dấu chân người. Có chú nay vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác. Dừng
6


lưng đèo mà nghe gió hát. Ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi…” (Bài hát
Trường Sơn ). Con đường mòn Trường Sơn huyền thoại đầy bom rơi ác liệt của

quân thù , nhưng không làm mòn ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc. càng khóc
liệt bao nhiêu người lính Trường Sơn lại càng lạc quan yêu đời bấy nhiêu:”
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn, Hai đứa ở hai đầu xa lạ. Đường ra trận
mùa này đẹp lắm. Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây…(Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây)”. Sự lạc quan yêu đời của người lính còn được nhà thơ Thúy
Bắc khăc họa độc đáo qua bài “Sợi nhớ, Sợi thương” . Dù sự khắt nghiệt ở
Trường Sơn vào mùa hè rực lửa, hay mừa mưa bão nhưng tình cảm của người
lính vẫn nồng nàn,ấm áp đầy yêu thương thì không có gì cách trở “ Trường Sơn
Đông, Trường Sơn Tây, Bên nắng đốt ,Bên mưa quay, Em dang tay, Em xòe tay,
Chẳng thể nào mà xua tan mây, Chẳng thể nào mà che anh được..”. Cũng là nói
đến sự lạc quan, yêu đời của người lính, thì trong thơ của Bùi Công Minh lại
khắc họa một hình ảnh thơ độc đáo lãng mạn ,anh hùng của người lính, một tình
yêu cháy bổng của anh bộ đội và cô giáo trẻ , bài thơ với một nhịp điệu hào hùng
“Ngày và đêm xa nhau, Đâu chỉ dài và nhớ, Thời gian trong cách trở, Vẫn cháy
ngời tình yêu, Pháo anh trên đồi cao, Nã vào đầu giặc Mĩ , Bục giảng dưới hầm
sâu, Em cũng là chiến sĩ…” (Ngày và đêm). Hay một tình đồng đọi cao đẹp đầy
khí thế hiên ngang, bất khuất được Hữu Thỉnh ghi nhận lại khi ông là một chiến
sĩ tăng thiết giáp qua bài thơ “Trên một chiếc xe tăng”. Lời bài thơ khắc họa vẽ
đẹp tinh thần đồng đội cao thượng của những người lính trên cùng một trận địa,
một lòng thề quyết tiến công đánh giặc giữ nước :” Năm anh em mang năm cái
tên, Đã lên xe không còn tên riêng nửa, Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa,
năm quả tim một nhịp đập dồn…”.
III/ TỔNG KẾT
Thơ kháng chiến (1945-1975) đã đem lại một tiếng nói đầy màu sắc của dân
tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Một điểm đặc biệt trong giai
7


đoạn này là hình tượng người lính qua hai cuộc chiến tranh hào hùng của dân
tộc. Người lính của từng giai đoạn mang một vẻ đẹp riêng , một phẩm chất riêng,

một tiếng nói riêng phản ánh thời cuộc lúc bấy giờ, song nó đã góp phần tô đậm
cho nền thơ ca Việt Nam một vóc dáng mới, đó là sự hào hùng của dân tộc.
Nhiều cung bật của cảm xúc, nhiều tình yêu, sự lãng mạng hào hùng nhung nó
cùng một mạch nguồn cảm xúc là tình yêu đất nước.

8



×