Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.29 KB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, Cộng Hòa Dân Chủ
Nhân Dân Lào (CHDCND Lào) đang từng bước chuyển đổi nền kinh tế
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước.
Nhằm theo kịp với trình độ phát triển của các quốc gia lớn và để
chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả, hoàn thiện và minh bạch chính sách
thuế trong công tác nhập khẩu là một nội dung cực kỳ quan trọng.
Chính sách thuế nhập khẩu có hoàn thiện mới thúc đẩy quan hệ kinh tế
thương mại quốc tế phát triển. Kinh tế thương mại quốc tế phát triển sẽ
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trang bị kỹ thuật phục vụ quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu là một đòi hỏi
đang rất cần thiết và tất yếu tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Chính
vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu
góp phần phát triển kinh tế Lào để làm luận văn thạc sỹ của mình
trong khoá học tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
- NGHIỜN CỨU NHỮNG VẤN đỀ LÝ LUẬN Cơ BẢN VỀ
CHỚNH SỎCH THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CỘNG HOà DÕN CHỦ
NHÕN DÕN LàO.
- PHÕN TỚCH, đáNH GIỎ THỰC TRẠNG CHỚNH SỎCH
THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CỘNG HOà DÕN CHỦ NHÕN DÕN LàO.


- ĐỀ XUẤT CỎC GIẢI PHỎP NHẰM HOàN THIỆN CHỚNH
SỎCH THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CỘNG HOà DÕN CHỦ NHÕN
DÕN LàO.
3. ĐỐI TưỢNG Và PHẠM VI NGHIỜN CỨU
- ĐỐI TưỢNG NGHIỜN CỨU: NGHIỜN CỨU CHỚNH SỎCH


THUẾ NHẬP KHẨU.
- PHẠM VI NGHIỜN CỨU: TẠI CỘNG HOà DÕN CHỦ NHÕN
DÕN LàO, TRONG KHOẢNG THỜI GIAN TỪ NăM 2000 – 2006.

4. PHươNG PHỎP NGHIỜN CỨU
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá
trỠNH NGHIỜN CỨU Là: PHươNG PHỎP THU THẬP, THỐNG
KỜ, TỔNG HỢP SỐ LIỆU, SO SỎNH Và PHÕN TỚCH KINH TẾ.
5. NHỮNG đóNG GÚP CỦA LUẬN VăN
- HỆ THỐNG HOỎ NHỮNG VẤN đỀ Cơ BẢN VỀ CHỚNH
SỎCH THUẾ NHẬP KHẨU.
- PHÕN TỚCH THỰC TRẠNG CHỚNH SỎCH THUẾ NHẬP
KHẨU TẠI CHDCND LàO, TỪ đó TỠM RA NHỮNG MẶT MẠNH,
đIỂM YẾU Và NGUYỜN NHÕN HẠN CHẾ CỦA CHỚNH SỎCH
THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CHDCND LàO.
- ĐưA RA MỘT SỐ GIẢI PHỎP NHẰM Hoàn thiện chính sách
thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VăN


Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Chính sách thuế nhập khẩu và tác động của nó đến
sự phát triển nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng Chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ
năm 2000 đến nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu tại
CHDCND Lào.

CHƯƠNG 1:

THUẾ NHẬP KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ NHẬP KHẨU
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
1.1

Khái niệm, chức năng và vai trò của thuế nhập khẩu
1.1.1

Khái niệm

1.1.2 Chức năng và vai trò


1.2

Chính sách thuế nhập khẩu
1.2.1 Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu
1.2.2 Vị trí của Chính sách thuế nhập khẩu

1.3

Tác động của chính sách thuế Nhập khẩu đến hoạt động

kinh tế
1.3.1 Thuế tác động tăng đến tăng trưởng kinh tế
1.3.2 Thuế tác động tăng thu Ngân sách
1.4

Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của các nước và bài học
kinh nghiệm cho Lào
1.4.1 Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam

1.4.2 Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của Trung quốc
1.4.3 Bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào

CHƯƠNG 2


THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU CỦA LÀO
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.1 Nhân tố trong nước tác động tới quá trình điều chỉnh
chính sách thuế nhập khẩu của Lào
2.1.1 Nhân tố trong nước tác động tới quá trình điều chỉnh
chính sách thuế nhập khẩu của Lào
2.1.2 Hội nhập kinh tế và ảnh hưởng của nó tới chính sách
thuế nhập khẩu của Lào
2.2 Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm
2000 đến nay
2.2.1

Chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm 2000

đến nay
2.2.2 Đánh giá chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm
2000 đến nay
2.2.2.1- Những tác động tích cực của chính sách thuế nhập
khẩu đến phát triển kinh tế Lào
2.2.2.2- Những hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu hiện
nay


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU
TẠI CHDCND LÀO
3.1

Những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện thuế nhập

khẩu của Lào
3.1.1 Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với mục tiêu xây
dựng nền kinh tế.
3.1.1 Chính sách thuế nhập khẩu phải tạo điều kiện cho mọi thành
phần kinh tế tham gia bình đẳng vào hoạt động nhập khẩu
3.1.2 Chính sách thuế nhập khẩu phải tạo thuận lợi cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh trong điều kiện mới,đồng thời bảo đảm quản lý tốt
hoạt động nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu ngân sách từ nhập khẩu
3.2

Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Lào
3.1.3 Nhất quán thực hiện chiến lược phát triển, hoàn thiện chính

sách kinh tế, sớm xây dựng lộ trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và
khu vực.
3.1.4 Thực hiện đồng bộ thuế nhập khẩu với thuế trụ giá gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt và các sắc thuế khác.


3.1.5 Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách thuế
nhập khẩu của Lào.
KẾT LUẬN

CHƯƠNG 1

THUẾ NHẬP KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ NHẬP KHẨU
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1

Khái niệm, chức năng, vai trò của thuế nhập khẩu

1.1.1 Khái niệm của thuế
Tại nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào cũng có nhiều định
nghĩa về thuế: Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các
tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc phải
nộp cho Nhà nước theo mức quy định.
Qua nguyên cứu các khái niệm về thuế trên đây, thấy rằng: Mỗi
khái niệm chỉ mô tả một phần bản chất của thuế và mang tính lịch sử


trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội. Gắn với tình hình thực tế và xu
thế phát triển kinh tế-xã hội hiện nay tác giả khái niệm về thuế như sau:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp
nhân cho Nhà nước theo đối tượng, mức độ và thời hạn được pháp
luật quy định,để tạo thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà
nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong thực hiện các chức năng
của Nhà nước.
Khái niệm về thuế nêu trên, có thể làn rõ được bản chất của thuế
như sau:
Một là, thuế là khoản tiền đóng góp bắt buộc của các thể nhân và
pháp nhân cho Nhà nước.
Hai là, đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế và mức đóng góp
tiền thuế cho Nhà nước quy định bằng pháp luật.
Ba là, thuế là nguồn thu chủ yếu để tạo thành Ngân sách Nhà
nước nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trong thực hiện các chức năng

của Nhà nước để quản lý và phục vụ xã hội.
1.1.1.1 Khái quát về thuế
Thuế là khoản đóng góp mang tính pháp luật mà Nhà nước bắt
buộc tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất và kinh doanh phải nộp phần
thu nhập mới tạo ra vào Ngân sách Nhà nước. Khoản nộp dưới hình
thức thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả
gián tiếp thông qua trợ cấp xã hội, phúc hợi công cộng.


Cũng có thể hiểu: Thuế là hình thức động viên, phân phối sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức và cá nhân tạo ra để
hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước.
Là một phạm trù lịch sử, thuế gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của Nhà nước, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từng
thời kỳ. Tuỳ theo mỗi chế độ xã hội khác nhau, thuế được thiết lập theo
những quan điểm khác nhau. Song nhìn chung trong nền kinh tế thị
trường thuế có những chức năng nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước.
Thông qua thuế, Ngân sách Nhà nước có được nguồn thu để đáp ứng
các nhu cầu chi tiêu để thực hiện chức năng quản lý xã hội.
Hai là, trong nền kinh tế thị trường, thuế là một công cụ quản lý
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua công cụ này, Chính phủ kiểm soát, hướng dẫn, khuyến
khích hoặc hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện
sự điều tiết hợp lý giữa người giàu và người nghèo, đảm bảo sự bình
đẳng giữa các chủ thể kinh doanh và các tầng lớp dân cư.
Người ta phân chia thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế mà người nộp thuế lấy trong phần thu
nhập của mình để nộp vào Ngân sách Nhà nước. ở đây, người nộp thuế

đồng thời là người bị huy động từ thu nhập của mình. Ví dụ như thuế
thu nhập cá nhân, thuế lợi tức…


Thuế gián thu là loại thuế mà người kinh doanh sau quá trình
hoạt động phải nộp cho Ngân sách Nhà nước. ở đây, người kinh doanh
nộp thuế, thực chất là nộp hộ cho người mua hàng hoặc người được
hưởng dịch vụ. Chính người tiêu dùng mới là người phải nộp các khoản
thuế gián thu. Nó là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá dịch vụ.
Ví dụ: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu…
1.1.1.2 Vai trò của thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường
Là một loại thuế gián thu, thuế nhập khẩu là một công cụ chính
sách ngoại thương, được Nhà nước sử dụng để quản lý hoạt động nhập
khẩu của một nước, nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Là những sắc thuế trong hệ thống thuế quốc gia cho nên thuế nhập
khẩu cũng có vai trò của thuế nói chung là tạo nguồn thu cho Ngân sách
nhà nước (NSNN) và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, dưới giác
độ là một sắc thuế cụ thể thì thuế nhập khẩu cũng thể hiện những vai trò
riêng có của nó.
Một là, thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà
nước.
Để thực sự phát huy vai trò tạo nguồn thu NSNN, thuế nhập
khẩu phải bao quát hết các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của
các tổ chức, cá nhân, đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời
tiền thuế nhập khẩu vào NSNN. Thông qua thuế nhập khẩu, Nhà
nước huy động một phần thu nhập quốc dân được tạo ra từ hoạt


động nhập khẩu hàng hoá để tập trung vào NSNN. Tuy nhiên, nếu

Nhà nước dùng quyền lực của mình để huy động quá mức thì các
tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu sẽ không kinh doanh nữa
hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm để trốn thuế làm Nhà nước bị
thất thu thuế. Vì vậy, khi tái phân phối thu nhập bằng thuế nhập
khẩu phải chú ý đến khả năng nộp thuế của các tổ chức, cá nhân
này. Khả năng nộp thuế phản ánh số thuế tối đa mà các tổ chức,
cá nhân kinh doanh nhập khẩu có thể nộp mà không ảnh hưởng
hoặc thay đổi hoạt động kinh doanh của họ. Khả năng nộp thuế
tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, ý tức chấp hành pháp
luật, truyền thống văn hoá của mỗi quốc gia.
Hai là, thuế nhập khẩu là một công cụ tài chính được nhà nước
sử dụng để kiểm soát và điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động trao đổi, mua bán hàng
hoá diễn ra ở hầu khắp các nước. Hàng hoá ngay càng đa dạng về hình
thức và chủng loại. Có hàng hoá phục vụ an ninh quốc phòng, có hàng
hoá tiêu dụng thiết yếu, có hàng hoá xâm hại đến chủ quyền an ninh
quốc gia và đời sống của nhân dân như ma tuý, vũ khí, văn hoá phẩm
đồi trụy…Vì vây, thông qua việc kiểm tra, thu thuế đối với hàng hoá
nhập khẩu. Ta có thể nắm được tên của mặt hàng số lượng là bao nhiêu,
nhập khẩu từ nước nào. Qua đó, Nhà nước kiểm soát được toàn bộ các
loại hàng hóa nhập khẩu để có những chính sách phù hợp với thực tiễn.


Để điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa, ngoài các biện pháp
phi thuế như hạn ngạch, giấy phép v.v… thì biện pháp sử dụng công cụ
thuế nhập khẩu áp dụng khá phổ biến. Đối với nguyên liệu nhập khẩu
cần cho sản xuất trong nước mà trong nước chưa sản xuất được hoặc
sản xuất được nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì Nhà nước quy định
mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp, thậm chí là 0% để khuyến khích
nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Đối với những sản phẩm mà

trong nước đã sản xuất được đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hoặc những
sản phẩm tiêu dùng cao cấp ( ôtô, điều hoà..) thuế suất thuế nhập khẩu
thường quy định ở mức cao để hạn chế nhập khẩu và hạn chế tiêu dùng.
Như vậy, thông qua công cụ thuế nhập khẩu, Nhà nước thực hiện việc
điều tiết đối với hoạt động nhập khẩu hàng hoá.
Ba là, thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước.
Chúng ta biết rằng, khối lượng hàng hóa nhập khẩu phụ thuộc vào
sức mua của thị trường. Sức mua của thị trường phụ thuộc vào giá cả
hàng hoá. Khi giá cả hàng hoá tăng giảm còn ảnh hưởng làm giảm tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Thuế nhập khẩu là
một bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá nhập khẩu. Vì thế, thuế nhập
khẩu đấnh thấp hay cao có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
hàng hoá. Đối với những hàng hoá nhập khẩu là những sản phẩm mà
trong nước đã sản xuất được hoặc những mặt hàng cần bảo hộ, Nhà
nước đánh thuế nhập khẩu cao sẽ hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu,
khuyến khích tiêu dùng sản phẩm trong nước. Trong điều kiện đó, hàng


sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh qua giá với hàng nhập
khẩu. Khi đánh thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng ở mức thấp, tức là Nhà
nước không hạn chế nhập khẩu mặt hàng đó, người tiêu dùng sẽ được
hưởng lợi thông qua việc tiêu dùng hàng nhập khẩu với chất lượng cao,
mẫu mã đẹp, giá lại rẻ. Đồng thời, với mức thuế nhập khẩu thấp sẽ trực
tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ,
kiện toàn tổ chức, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao
khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập nếu muốn tồn tại và phát
triển. Đối với hàng hoá là đầu vào của các ngành sản xuất trong nước,
hàng là máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước, việc đánh thuế
nhập khẩu thấp sẽ có tác động trực tiếp đến chi phí đầu vào của giá
thành sản phẩm. Với giá thành sản phẩm giảm ( do thuế nhập khẩu thấp

) sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ để nâng cao
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất, từ đó nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước. Như vậy, thông qua công cụ
thuế nhập khẩu, Nhà nước thể hiện quan điểm bảo hộ sản xuất trong
nước, định hướng tiêu dùng và thu hút đầu tư. Tuỳ thuộc vào mức độ
bảo hộ sản xuất trong nước, các nước có thể thực hiện các hình thức
đánh thuế như:
- Thuế quan vừa đủ là loại thuế quan mà mức thuế suất chỉ vừa đủ
cao cho phép các nhà sản xuất nội địa bù đắp chi phí và có lợi nhuận
bình thường mức độ bảo hộ thấp.


- Leo thang thuế quan là thuế quan tăng dần cùng với sự biến đổi
tăng dần của sản phẩm. Ví dụ: loại thép để sản xuất ôtô chỉ phải chịu
mức thuế suất 5%, khung ôtô sản xuất từ loại thép này chịu thuế suất
15% và một chiếc ôtô hoàn chỉnh bị đánh thuế 30%. Điều kiện đánh
thuế này, mức độ bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo cao hơn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế, do bị ràng buộc phải
thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu, vai trò bảo
hộ của thuế nhập khẩu phần nào bị hạn chế. Hơn nữa, nếu quá nhấn
mạnh đến vao trò bảo hộ của thuế nhập khẩu thì không những không
thực hiện được các cam kết quốc tế mà còn làm cho sản xuất trong
nước bị đình trệ kém phát triển do ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước. Vì
vậy, để phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu buộc phải có sự
lựa chọn những ngành nghề cần bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo
hộ sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, đồng thời buộc
các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ,
cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, chủ động cạnh tranh với hàng nhập khẩu khi hết thời hạn bảo hộ.
1.1.2 Chức năng của thuế nhập khẩu

Khi nói đến chức năng của thuế là nói đến công dụng vốn có của
thuế đối với đời sống kinh tế – xã hội. Là công cụ vốn có ngay trong
bản thân của phạm trù thuế, cho dù có những biến đổi của hoàn cảnh nó
vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, khi nhìn nhận chủ rõ những chức năng
của thuế thì có nhiều ý kiến bàn về các chức năng của thuế. Ví dụ, có ý


kiến cho rằng thuế có 2 chức năng là phân phối và kiểm tra, giám đốc;
có ý kiến cho rằng thuế có 4 chức năng, đó là: tạo lập nguồn thu cho
NSNN, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hòa thu nhập và hướng dẫn tiêu
dùng… Theo chúng tôi, về số lượng các chức năng của thuế có thể có
nhiều ý kiến khác nhau, nhưng không mâu thuẫn nhau mà chỉ là sự
phân tích cụ thể các chức năng của thuế ở các khía cạnh khác nhau, đó
là sự chia nhỏ các chức năng để nhận biết và phân tích nó trong thực tế
sử dụng. Chính vì vậy, chức năng bao trùm nhất của thuế đó là chức
năng phân phối và phân phối lại thu nhập để hình thanh quỹ tập trung
của Nhà nước và chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

1.1.3 Bản chất của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là thuế chính phủ đánh vào hàng hoá được
chuyên chở qua biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan. Đây là một
trong những công cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc tế, là
biện pháp tài chính của nhà nước nhằm can thiệp vào hoạt động ngoại
thương, buôn bán tro đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Nhờ có công cụ
này nhà nước có thể điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế phù
hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia trong một
thời kỳ nhất định. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hoá nhập
khẩu. Loại thuế này được áp dụng khá phổ biến trên thế giới.



Bản chất của thuế nhập khẩu thể hiện trên hai phương diện.
Về mặt kinh tế: thuế nhập khẩu thực chất là một phần của cải xã
hội được tập trung vào ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của nhà nước. Nó là khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá
nhân có tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế
gián thu nên người chịu thuế là người tiêu dùng. Tuy nhiên khi nhà
nước tăng thuế suất thì ảnh hưởng đầu tiên là tới các tổ chức, cá nhân
nhập khẩu hàng hóa bởi hàng hoá của họ trở nên đắt đỏ hơn, kém sức
cạnh tranh hon. Do đó, việc động viên thuế nhập khẩuphải có giới hạn.
Mức thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho Ngân sách nhà nước
(NSNN) và kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển. Mức thuế suất
quá cao sẽ dẫn tới tình trạng trốn thuế, lậu thuế. Tìm được một mức
thuế suất thích hợp cho từng thời kỳ là một bài toán khó cho các nhà
hoạch định chính sách.
Về mặt xã hội : thuế nhập khẩu phản ánh mối quan hệ giữa nhà
nước và các pháp nhân, thể nhân tham gia vào hoạt đọng nhập khẩu
hàng hoá. Nó là một công cụđược nhà nước sử dụng để thực hiện chức
năng quản lý của mình đối với các họat động kinh tế đối ngoại, điều
chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại thu nhập xã hội giữa các tổ
chức, cá nhân và Nhà nước. Vì vậy, thuế nhập khẩu mang tính xã hội
cao. Nghiên cứu bản chất xã hội của thuế nhập khẩu giúp chúng ta quán
triệt đầy đủ và sâu sắc yêu cầu trong việc hoạch định chính sách thuế
nhập khẩu phải bảo đảm rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, mang tính phổ


thông, phù hợp với trình độ của cả người thu thuế và người nộp thuế.
Việc tổ chức quản lý thu thuế cũng phải bảo đảm tính minh bạch. Công
khai, dân chủ mới đem lại hiệu quả cao.
1.2


Chính sách thuế nhập khẩu

1.2.1 Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu
Tuy mỗi nước có một chính sách thuế nhập khẩu riêng nhưng về
cơ bản vẫn có một số nội dung được đề cập giống nhau. Những nội
dung đó là:
a) Đối tượng và phạm vi:
Đối tượng chịu thuế nhập khẩu là hàng hoá được phép nhập khẩu
qua cửa khẩu biên giới. Trong Luật thuế nhập khẩu mỗi nước đều có
quy định cụ thể về phạm vi đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Ngoài ra,
các nước cũng có quy định về đối tượng không chịu thuế nhập khẩu.
Thông thường đó là các hàng hóa sau:
- Hàng vân chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu biên
giới.
- Hàng chuyển khẩu bao gồm:
+ Hàng hóa được chuyển thẳng từ cẳng nước xuất khẩu đến cảng
nước nhập khẩu không đến cảng nội địa.
+ Hàng hoá đước chở đến cảng nội địa nhưng không làm thủ tục
nhập khẩu mà đi luôn tới cảng nước nhập khẩu.
+ Hàng viên trợ nhân đạo


Như vậy, đối tượng chịu thuế nhập khá đa dạng. Trừ một số mặt
hàng mà Nhà nước không cho phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu
vì có thể gây tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia và đời sống văn
hóa xã hội, còn lại mọi loại mặt hàng đều có thể là hàng hoá chịu thuế
nhập khẩu.
b) Giá thính thuế:
Giá tính thuế hay trị giá hải quan là trị giá của hàng hoá nhập
khẩu được xác định theo mục đích quản lý của cơ quan hải quan. Việc

xác định đúng trị giá hàng hóa không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp tới
quan hệ thương mại, ngoại giao giữa các nước. Có hai trường phái
chính trong việc xác định trị giá hàng hoá:
- Trường phái áp dụng phương pháp xác định trị giá hàng nhập
khẩu theo trị giá GATT. Những nước theo trường phái này quy định trị
giá để tính thuế hàng nhập khẩu là trị giá thực. Trị giá thực được hiểu là
trị giá ghi trong hoá đơn thương mại ( giá thoả thuận trong điều kiện
cạnh tranh lành mạnh ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương ) cộng
thêm các khoản chi phí hợp lý, hợp pháp chưa được tính vào trị giá, ví
dụ: chi phí hoa hồng và môi giới, chi phí thuê công-ten-nợ…Những
nước áp dụng trị giá GATT thường quy định rõ trong luật pháp của
minh phương pháp xác định trị giá thực. Căn cứ pháp lý cơ bản để xem
xét trị giá thực là hợp đồng mua bán ngoại thương. Đơn vị kinh doanh
hàng hóa nhập khẩu phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực
của mức giá ghi trên hợp đồng. Mọi gian lận nếu bị phát hiện đều bị xử


phạt rất năng. Thông thường những nước áp dụng trị giá này là những
nước phát triển, nơi mà hệ thống luật pháp tương đối ổn định, người
dân có ý thức pháp luật cao, hệ thống thanh toán hiện đại. Ưu điểm của
hình thức này là hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực của thương mại
tự do, được luật pháp quốc tế hoá bằng việc Tổ chức GATT ban hành
Hiệp định vì chị giá hải quan theo GATT. áp dụng hình thức này, đơn
vị nhập khẩu sẽ dự tính trước được số thuế phải nộp, qua đó chủ động
trong khâu tính toán, lập kế hoạch kinh doanh. Tuy nhiên, việc áp dụng
hình thức này cũng đòi hỏi đội ngũ cán bộ hải quan phải được đào tạo
kỹ càng, chi phí quản lý thuế cao vì việc quản lý sẽ phức tap. Nếu quản
lý không tốt, đơn vị nhập khẩu có thể thông đồng với nhau khai thấp trị
giá tính thuế, gây thất thu cho NSNN và dẫn đến hiện tượng gian lận
thương mại qua giá.

- Trường phái áp dụng bảng giá tối thiểu. Khác với trị giá thực là trị giá
thực tế thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán theo mức giá được thoả
thuận trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh và được ghi trong hợp đồng
mua bán ngoại thương, giá tối thiểu được xác định căn cứ vào giá trị
hàng hoá được sản xuất trong nước nhập khẩu hoặc trị giá hư cấu, áp
đặt. Những nước áp dụng giá tối thiểu thường quy định nếu mức giá ghi
trên hợp đồng mà thấp hơn mức giá trong bảng giá tối thiểu được nhà
nước quy định thì phải áp dụng giá ghi trong bảng giá tối thiểu. Việc áp
dụng hình thức này thường diễn ra ở những nước đang phát triển, hệ
thống luật pháp chưa ổn định. í thức luật pháp của người dân chưa cao,


thường trốn thuế bằng cách ghi thấp giá trị trong hợp đồng. áp dụng
hình thức này chính là một biện pháp phi thuế quan giúp các nước này
tăng số thu nhưng không phải tăng thuế suất – một biện pháp dễ bị trả
đũa. Nhưng việc áp dụng hình thức này khiến chính sách thuế không
minh bạch, rõ ràng, không thể dự đoán được. Ngoài ra, nếu việc định
giá giá tối thiểu không được cập nhật thường xuyên dựa trên các thông
tin điều tra về thị trường sẽ dẫn đến hiện tượng dịnh gía tối thiểu quá
cao hoặc quá thấp so với giá thực tế, gây khó khăn cho người nhập
khẩu hoặc thất thu NSNN.
1.2.2- Vị trí của Chính sách thuế nhập khẩu
Chính sách thuế nhập khẩu là một hệ thống các quan điểm, mục
tiêu và các công cụ, biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để can
thiệp, điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hoá của một quốc gia trong
một thời kỳ nhất định phù hợp với định hướng, mục đích đã định trong
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó. Chính sách thuế
nhập khẩu cũng nhằm xây dựng hành lang pháp lý giúp cho các cá
nhân, đơn vị có hoạt động nhập khẩu hàng hoá có khả năng dự đoán
trước và điều chỉnh hành vi kinh doanh của mình.

Chính sách thuế nhập khẩu là một bộ phận của chính sách kinh tế
chung của quốc gia, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ phát triển kinh tế.
Nó tác động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất. Phân phối, chuyển
dịch cơ cấu kinh tê của đất nước đến quy mô và phương thức tham gia
của nền kinh tế mỗi nước vào phân công lao động quốc tế và thương


mại quốc tế. Chính sách thuế nhập khẩu cũng là một bộ phần của chính
sách thương mại quốc tế của Nhà nước. Mức độ can thiệp của nó vào
nền kinh tế nhiều hay ít phụ thuộc vào chính sách thương mại quốc tế là
tự do hay bảo hộ. Khi hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia
ngày càng phong phú thì chính sách thuế nhập khẩu của một nước còn
có thể có những tác động nhất định đến nền kinh tế của một nước khác.
Đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh
trong nước xác lập lợi ích kinh tế của họ ở nước ngoài trên các lĩnh vực
tiêu thụ hàng hóa, đầu tư…
Chính sách thuế nhập khẩu có thể tạo nên các tác động tích cực
khi nó có cơ sở khoa học và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối
cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới, chú ý đến đặc điểm và trình
độ phát triển của nền kinh tế trong nước, tuân theo các quy luật khách
quan trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế và thường
xuyên được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với những biến đỏi mau lẹ
của thực tiễn.
Mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn
có những nét khác biệt, cho nên chính sách thuế nhập khẩu cũng thay
đổi để đạt được những mục tiêu cụ thể của chính sách kinh tế. Nhưng
nhìn chung chính sách thuế nhập khẩu phải có tác dụng bảo vệ sản xuất
trong nước, chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy
sản xuất trong nước phát triển và hướng ra bên ngoài.



1.3 - Tác động của chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động kinh
tế
Hoạt động kinh tế luôn giữ vị trí trung tâm và là cơ sở cho mọi
hoạt động khác trong xã hội loại người. Sản xuất của cải vật chất là cơ
sở của đời sống xã hội và là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt
động của con người. Xã hội sẽ không thể tồn tại nếu ngừng hoạt động
sản xuất.
Xã hội loài người càng phát triển, các ngành sản xuất phi vật chất
không hề suy giảm. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là cốt lõi của
hoạt động kinh tế. Để xem xét sự tác động của thuế đến hoạt động kinh
tế, cần phải nghiên cứu đến các yếu tố cơ bản của quá trình lao động
sản xuất và sự tác động của thuế đến các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá
trình sản xuất kinh doanh.
- Chính sách thuế tác động đến hoạt động kinh tế:
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất.
Mọi quá trình sản xuất được lập lại thường xuyên và phục hồi không
ngừng. Đó là quá trình tái sản xuất, bao gồm các khâu: Sản xuất – phân
phói – trao đổi – tiêu dùng, gọi chung là hoạt động kinh tế. Trong đó,
sản xuất là gốc, là cơ sở, là tiền đề đóng vai trò quyết định; tiêu dùng là
động lực, là mục đích của sản xuất; phân phối và trao đổi là những khâu
trung gian tác động mạnh mẽ đến sản xuất và tiêu dùng.
Như đã trình bày trên, chính sách thuế đã tác động vào giá cả
hàng hoá, dịch vụ làm chuyển dịch quan hệ cung – cầu trên thị trường


là tác động chính và bao hàm nhất trong hoạt động kinh tế. Giá cả của
hàng hoá, dịch vụ đầu vào, đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh
khi gánh thêm tiền thuế gián thu sẽ làm giá cả trên thị trường tăng lên.
Thu nhập của doanh nghiệp, của cá nhân cũng phải chịu diều tiết bởi

các loại thuế trực thu đã làm giảm đi thu nhập khả dụng và hạn chế đến
khả năng thanh toán trong tiêu dùng và tiết kiệm đầu tư của các thành
phần kinh tế hộ gia đình. Thuế còn điều tiết của phần giá trị tăng thêm ở
khâu trung gian phân phối, trao đổi. Nói chung, mọi hoạt động kinh tế
phát sinh đều phải chịu sự điều tiết của thuế. Giả sử, nếu Nhà nước chỉ
đề ra một loại thuế với một mức thuế suất, thì về lý thuyết: mọi họat
động kinh tế phải nộp cho Nhà nước một khoản tiền giống nhau. Và
như vây mức cân bằng cung – cầu trên thị trường sẽ được xác lập ửo
điểm giá cả hàng hoá dịch vụ đều có thuế như nhau. Và, sự tăng trưởng
kinh tế sẽ tự phát theo thị trường, sẽ làm cho nền kinh tế phát triển
không được hoàn thiện do mặt trái của cơ chế thị trường.
Lợi nhuận luôn luôn là mục đích cơ bản của hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường. Giả sử, các điều kiện sản xuất kinh doanh
như nhau; giá cả hàng hoá dịch vụ đầu ra - đầu vào như nhau, thì mức
thuế tăng cao hay giảm thập sẽ tạo sự chuyển dịch đầu tư sản xuất kinh
doanh theo hướng có lợi nhất cho doanh nghiệp. Đây là điểm mấu chốt
của việc gắn kết tác động của thuế với cơ chế thị trường để điều chỉnh
vĩ mô nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước định hướng sự tăng trưởng và
phát triền nền kinh tế trong cơ chế thị trường bằng cách sử dụng công


cụ thuế, thông qua chức năng phân phối và phân phối lại của thuế để
can thiệp vào nền kinh tế. Nhà nước sử dụng các biện pháp như sau:
+ Một là, xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế
gián thu trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế nhằm khai thác
tác động đặc trưng của từng loại thuế để điều chỉnh nền kinh tế. Sử
dụng thuế gián thu để tác động đến nhu cầu tiêu dùng của xã hội, qua
đó tác động đến hoạt động sản xuất – kinh doanh. Sử dụng thuế thu
nhập để điều tiết thu nhập của dân cư, sẽ tác động tới sự tích luỹ tư bản
sử dụng vào đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ gĩưa

thuế trực thu và thuế gián thu theo một tỷ lệ tương quan giữa chúng
trong chính sách thuế sẽ đáp ứng những mục tiêu, yêu cầu nhất định của
Nhà nước trong hoạt động quản lý nền kinh tế.
+ Hai là, thay đổi thuế suất. Đây là một phương pháp quan trọng
trong quá trình Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế,
thông qua việc quy định đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các
ngành nghề, các vùng kinh tế. Thuế sẽ tác động đến quá trình phân phối
và phân phối lại thu nhập được tạo ra giữa các chủ thể kinh tế, giữa các
ngành, các vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội, là thay đểi lợi ích
kinh tế của họ. Và, tất yếu sẽ làm thay đổi mối quan hệ giữa cung, cầu
trên thị trường nhằm góp phần thực hiện diều tiết vĩ mô nền kinh tế
quốc gia theo định hướng của Nhà nước.
+ Ba là, áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế. Nhà nước áp dụng
chính sách miễn, giảm thuế của một số ngành nghề, vùng lãnh thổ mà


Nhà nước cần đầu tư phát triển nhanh hơn. Thông qua thực hiện ưu đãi
thuế, Nhà nước đã điều tiết nền kinh tế một cách linh họat, tuỳ thuộc
vào diều kiện cụ thể của cục diện nền kinh tế để đạt những mục tiêu đặt
ra.
+ Bốn là, Nhà nước sử dụng tiền thuế đã nộp vào Ngân sách Nhà
nước (NSNN) để thực hiện phân phối lại nhằm điều hoà thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư, nhám đầu tư vào hạ tầng kinh tế – xã hội và các
lĩnh vực đời sống xã hội. Sự phân phối lại tiền thuế của Nhà nước đã
tạo ra một nguồn lực kinh tế vừa có tính đột phá ở các mắt xích trọng
yếu của nền kinh tế vừa có tính tiềm tàng trong xã hội và có khả năng
tác động mạnh mẽ đến hoạt động của nền kinh tế quốc gia.
1.3.1 - Thuế tác động đến tăng trưởng kinh tế
Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế CHDCND Lào có tốc độ tăng
trưởng khá. Đồng thời với đổi mới kinh tế, Nhà nước đẩy mạnh cải

cách thuế, chính sách thuế phù hợp đã tác động mạnh mẽ đến sự tăng
trưởng và định hướng phát triển kinh tế thị trường. Thuế tham gia tích
cực vào điều hành kinh tế vĩ mô, chuyển dịch nhuồn lực đầu tư kinh tế
vào các lĩnh vực then chốt; chuyển dịch đầu tư vào khai thác lựi thuế
của các vùng kinh tế ở khắp miền đất nước; thúc đẩy hình thành cơ cấu
kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá…
Về tăng trưởng kinh tế, có thể đánh giá chung là, trong những
năm qua sản xuất phát triển, lưu thông hàng hoá thông thoáng, giá cả ổn
định dần. Nền kinh tế tăng trưởng tương đối cao, cơ cấu chuyển dịch


×