1
LỜI MỞ ĐẦU
i. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trên
giác độ kinh tế có nghĩa là mở rộng quan hệ thương mại của Việt
Nam với các nước trên thế giới. Khối lượng hàng hoá và dịch vụ
xuất nhập khẩu sẽ gia tăng không chỉ về quy mô mà còn đa dạng
hoá về chủng loại. Đây thực sự là những thách thức rất lớn đối với
ngành Hải quan nước ta trong việc hạn chế trốn lậu thuế xuất - nhập
khẩu. Nhận thức được điều đó, trong thời gian vừa qua, Hải quan
Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lức cố gắng và đạt được những thành
công rất đáng ghi nhận. Vừa thực hiện cải cách hành chính, đơn
giản hóa thủ tục thông quan song vẫn nâng cao hiệu quả quản lý,
kiểm tra, kiểm soát chống buôn lậu và và đảm bảo nguồn thu từ thuế
xuất nhập khẩu cho Ngân sách Nhà nước. Mặc dù vậy, so với những
yêu cầu về đổi mới và hiện đại hóa nhằm đáp ứng với nhiệm vụ
chính trị của ngành trong giai đoạn mới, Hải quan nước ta vẫn cần
phải được tiếp tục củng cố và hoàn thiện trên nhiều mặt hoạt động,
trong đó trọng tâm và cũng là khâu “xung yếu” nhất để hạn chế gian
lận thuế nhập khẩu được xác định là hoạt động kiểm tra sau thông
quan – hoạt động hậu kiểm, sẽ được chú trọng và ưu tiên đặc biệt.
Tại Cục Hải quan tỉnh Đồng Tháp, hoạt động kiểm tra sau
thông quan đã được triển khai thí điểm từ 2006 và đến nay đã chính
thức đi vào hoạt động với tên gọi là Chi cục kiểm tra sau thông quan
và được hoàn thiện không chỉ về mô hình tổ chức hoạt động mà còn
2
cả về quy trình nghiệp vụ. Thực tế hoạt động trong thời gian qua,
Chi cục kiểm tra sau thông quan tại Cục Hải quan Đồng tháp đã có
những đóng góp rất quan trọng vào việc đảm bảo thực hiện Luật Hải
quan cũng như phát hiện và xử lý nhiều vụ việc gian lận thuế nhập
khẩu qua các cửa khẩu trên địa bàn, góp phần tích cực bảo đảm
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, với những khó
khăn về điều kiện tự nhiên và tính chất phức tạp của các hành vi
buôn lậu trên địa bàn tỉnh, tình trạng trốn thuế trong hoạt động nhập
khẩu tại Đồng tháp tuy đã được hạn chế đáng kể nhưng vẫn còn là
vấn đề bức xúc, không chỉ gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước,
giảm hiệu lực quản lý Nhà nước về Hải quan, mà còn nảy sinh
những hiện tượng tiêu cực và tình trạng cạnh tranh không bình đẳng
giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước cần được
tiếp tục bảo trợ.
Xuất phát từ thực tế trên đây, đề tài: “Hoàn thiện hoạt động
kiểm tra sau thông quan nhằm chống thất thu thuế nhập khẩu
tại Cục Hải quan Đồng tháp” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
ii. Đối tượng và mục đính nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động kiểm
tra sau thông quan trên cơ sở nghiên cứu quy trình nghiệp vụ và nội
dung hoạt động kiểm tra sau thông quan của các nước và của Tổ
chức Hải quan Thế giới (WCO).
Thứ hai, nghiên cứu hành vi gian lận thương mại dưới hình
thức trốn lậu thuế nhập khẩu và trò và các biện pháp kiểm tra sau
thông quan đối với việc chống thất thu thuế nhập khẩu.
3
Thứ ba, phân tích thực trạng của hoạt động kiểm tra sau thông
quan đối với việc thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh
Đồng Tháp.
Thứ tư, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện hoạt
động kiểm tra sau thông quan theo hướng chuyên nghiệp, minh
bạch, hiệu quả góp phần chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải
quan tỉnh Đồng Tháp.
iii.Phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý luận: Có nhiều biện pháp để chống thất thu thuế
nhập khẩu, song luận văn đi sâu nghiên cứu về hoạt động kiểm tra
sau thông quan, trên cơ sở áp dụng mô hình được giới thiệu bởi Tổ
chức Hải quan thế giới (WCO) và học tập các mô hình đang được
áp dụng ở các nước tiên tiến trên thế giới như là cơ sở lý luận.
Về mặt thực tiễn: Luận văn chọn điển hình nghiên cứu là Cục
Hải quan Đồng Tháp và tình hình hoạt động kiểm tra sau thông
quan, tình hình gian lận thương mại nhập khẩu trên địa bàn tỉnh
trong giai đoạn 2008 - 2010 để nghiên cứu.
iv. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng trong
luận văn bao gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh và diễn dịch, phương pháp điển hình hoá, phương pháp
thống kê số liệu và phương pháp chuyên gia.
Sử dụng mô hình hoạt động kiểm tra sau thông quan của các
nước như những cơ sở so sánh và phân tích thực trạng, đánh giá
nhận xét cũng như nghiên cứu và đề xuất các giải pháp.
4
v. Cấu trúc của Luận văn
Cấu trúc của luận văn, ngoài phần tóm tắt, mở đầu, mục lục,
danh mục bảng biểu, danh mục các thuật ngữ viết tắt, kết luận, tài
liệu tham khảo và phụ lục, được chia thành ba chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kiểm tra sau thông quan
tại Cơ quan Hải quan
- Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra sau thông quan tại
Cục Hải quan tỉnh Đồng Tháp
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau thông
quan tại Cục Hải quan tỉnh Đồng Tháp
5
Chương 1 :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN TẠI CƠ QUAN HẢI QUAN
1.1 Tổng quan về kiểm tra sau thông quan
1.1.1. Khái niệm về kiểm tra sau thông quan
Vào khoảng những năm 60 của thế kỷ 20, Hội đồng Hợp tác
Hải quan Quốc tế nay là Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) đã bắt
đầu nghiên cứu các biện pháp quản lý hải quan tiên tiến và hiệu quả
hơn, trong đó có biện pháp tiến hành kiểm tra sau khi hàng hóa nhập
khẩu đã được vận chuyển qua cửa biên giới hay còn gọi là sau thông
quan. Phương thức kiểm tra này sau đó đã trở nên rất phổ biến và
tên gọi được thống nhất trở thành một thuật ngữ chuyên ngành là
“kiểm tra sau thông quan” (Post Clearance Audit - PCA). Ở một số
nước khác trên thế giới, kiểm tra sau thông quan còn được gọi là
“kiểm toán hải quan” hay “kiểm toán của ngành hải quan” bởi lẽ cơ
sở để thực hiện kiểm tra sau thông quan là các chứng từ khai hải
quan về hàng hóa nhập khẩu, sổ sách kế toán và các loại giấy tờ
khác được lưu trữ tại cơ quan hải quan cũng như tại doanh nghiệp
và các bên liên quan khác về số lượng, chủng loại và giá cả hàng
hóa đã được nhập khẩu và vận chuyển qua cử khẩu, tức là đã được
thông quan.
Đối với nhiều nước đang phát triển, “kiểm tra sau thông quan”
vẫn còn là một vấn đề còn khá mới mẻ trong lĩnh vực nghiệp vụ
6
kiểm tra, giám sát hải quan, song ngay sau khi được hình thành,
kiểm tra sau thông quan đã được coi là một mắt xích quan trọng
trong quy trình các hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm
bắt buộc chủ thể kê khai hải quan tuân thủ các qui định của pháp
luật. Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan được hình thành và hoàn
thiện dần cùng với việc hình thành và hoàn thiện khoa học về quản
lý rủi ro trong hoạt động của các cơ quan hải quan trên thế giới
trong những năm 70 của thế kỷ 20. Cơ sở pháp lý đầu tiên, bao gồm
những quy định cơ bản của kiểm tra sau thông quan là Công ước
Kyoto về “đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan”, ngày
18/5/1973 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 25/9/1974. Tiếp theo, đến
những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20, cùng với quá trình nghiên
cứu áp dụng các biện pháp quản lý hải quan mới tại một số nước,
nghiệp vụ kiểm soát sau thông quan mới được Tổ chức Hải quan
Thế giới đưa vào chương trình hoạt động và đặc biệt đến tháng
9/1999, sau khi Công ước Kyoto được sửa đổi bổ sung thì kiểm tra
sau thông quan mới chính thức được ghi nhận và đưa vào Phần phụ
lục tổng quát, Chương VI. Từ đó, WCO đã khuyến nghị các nước
thành viên tham gia nhanh chóng hoàn chỉnh và tiến tới áp dụng
rộng rãi hệ thống kiểm tra hàng hóa sau khi thông quan nhằm tạo
thuận lợi nhất cho hoạt động thương mại, đồng thời nhấn mạnh rằng
kiểm tra sau thông quan là một bộ phận thuộc hệ thống tổng thể bao
gồm các biện pháp kiểm tra khác nhau như kiểm tra hải quan trước
thông quan, kiểm tra hải quan trong quá trình thông quan hàng hóa
nhập khẩu và kiểm tra sau thông quan.
7
Trên cơ sở đó, WCO thống nhất quan niệm về kiểm tra sau
thông quan là “quy trình công tác cho phép viên chức hải quan kiểm
tra tính chính xác của hoạt động kê khai hải quan bằng việc kiểm tra
các hồ sơ, tài liệu ghi chép về kế toán và thương mại liên quan đến
hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa và tất cả các số liệu, thông
tin, bằng chứng khác cho cơ quan hải quan mà hiện tại đang được
các đối tượng kiểm tra (cá nhân hoặc doanh nghiệp) trực tiếp hay
gián tiếp tham gia vào hoạt động buôn bán quốc tế nắm giữ” (WCO,
1999).
Quan niệm về kiểm tra sau thông quan nói trên cũng được cụ
thể hoá trong Công ước Kyoto sửa đổi và được bổ sung (tháng
9/1999): “kiểm tra sau thông quan là các biện pháp được cơ quan
hải quan tiến hành nhằm thỏa mãn các mục đích trong việc xác định
tính chính xác và trung thực của các tờ khai hải quan về hàng hóa
thông qua kiểm tra các chứng từ về nhập khẩu hàng hóa, hệ thống
định mức kinh tế và dữ liệu thương mại của các bên liên quan đến
quá trình xuất nhập khẩu và sử dụng hàng hóa”.
Thống nhất với các quan niệm trên, Tổ chức Hải quan của
khối các nước Đông Nam Á (ASEAN) cũng cho rằng: “kiểm tra sau
thông quan là một biện pháp kiểm tra hải quan có hệ thống mà cơ
quan hải quan tự thoả mãn về độ chính xác và xác thực của khai báo
hải quan thông qua việc kiểm tra sổ sách, hồ sơ hệ thống kinh doanh
có liên quan và dữ liệu thương mại của các cá nhân và các công ty
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động thương mại quốc
tế”.
8
Ngoài sự khác biệt về một vài thuật ngữ chuyên môn sử dụng,
các quan niệm trên đề thống nhất về cách hiểu và bản chất của kiểm
tra sau thông quan. Những điểm quan trọng nhất cần được nhấn
mạnh bao gồm: (1) Kiểm tra sau thông quan là kiểm tra hải quan
sau khi hàng hóa nhập khẩu đã được nhập qua cửa khẩu hải quan,
có thể được chủ thể nhập khẩu phân phối hoặc sử dụng; (2) Cơ sở
của kiểm tra là chứng từ về nhập khẩu, phân phối và sử dụng hàng
hóa sau khi nhập khẩu, các định mức kinh tế kỹ thuật và các quy
định liên quan; (3) Kiểm tra thông quan vì vậy, giống như kiểm toán
– có thể quan niệm là kiểm toán của ngành Hải quan đối với các chủ
thể nhập khẩu nhằm ngăn ngừa và hạn chế gian lận thương mại, truy
thu những khoản tiền đã trốn, lậu thuế khi nhập khẩu hàng hóa và
góp phần tăng cường quản lý Nhà nước về Hải quan.
1.1.2 Mô hình tổ chức và chức năng của kiểm tra sau thông quan
Theo “Tài liệu hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan” của
ASEAN, Cơ quan Hải quan các nước nên tiến hành kiểm tra tính
khả thi của việc thành lập một đơn vị chuyên trách về kiểm tra sau
thông quan tại trung ương (Tổng cục Hải quan) hay các đơn vị trực
thuộc (Cục Hải quan). Tuỳ thuộc vào các điều kiện về nguồn nhân
lực và cơ sở vật chất hiện có, bao gồm: số lượng cán bộ đã được đào
tạo nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, sự phân bổ ngân sách, trang
thiết bị kỹ thuật, v.v... Tuy nhiên thông thường đơn vị kiểm tra sau
thông quan trước tiên sẽ được thành lập từ cấp trung ương (Tổng
cục Hải quan) và sau đó mở rộng xuống các đơn vị ở địa phương
9
(Cục Hải quan).
Mô hình sau sẽ minh hoạ cơ cấu tổ chức của một đơn vị kiểm
tra sau thông quan tại cơ quan Tổng cục hay Cục hải quan địa
phương:
TỔNG CỤC HẢI QUAN
Bộ phận
thông quan
Bộ phận
KTSTQ
Bộ phận
kiểm soát
Địa phương
Cấp trưởng kiểm tra sau thông quan dù ở bất kì đơn vị nào sẽ
có chức năng tương tự như các cấp trưởng khác, như đơn vị trị giá,
đơn vị kiểm tra hải quan, đơn vị thông quan hàng hóa,…Lý do
chính về chức năng của họ là tránh chồng chéo khi thực hiện kiểm
tra sau thông quan.
Để thực hiện tốt chức năng, Chi cục kiểm tra sau thông quan
được chia thành hai bộ phận: (1) Bộ phận thông tin với hoạt động
chủ yếu bao gồm thu thập, phân loại, xử lý và tập hợp thông tin cơ
bản về đối tượng kiểm tra sau thông quan; (2) Bộ phận kiểm tra tại
doanh nghiệp trực tiếp thực hiện nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan,
bao gồm kiểm tra hồ sơ, sổ sách và các chứng từ liên quan của đối
tượng hàng hoá nhập khẩu sau thông quan và các đơn vị hải quan
liên quan (Sơ đồ 1.2).
10
Tổng cục HQ
Cục trưởng Cục PCA
Cục trưởng HQ
địa phương
Đơn vị phối hợp
* Lập kế hoạch KTSTQ
Thực hiện KTSTQ
Liên lạc với các đơn vị
khác...
Đội kiểm tra
Đội thông tin
Đơn vị KTSTQ
địa phương
Đội kiểm tra
Đội thông tin
(Nguồn : Tổ chức hải quan thế
giới-WCO)
Như vậy có thể thấy tại cơ quan Tổng cục Hải quan cấp trung
ương hay tại cơ quan Cục Hải quan cấp địa phương, Chi cục kiểm
tra sau thông quan như được được mô tả trên (sơ đồ 1.2) đều có 02
Bộ phận trực thuộc phụ trách công việc thông tin và kiểm tra tại
doanh nghiệp. Trong đó, Bộ phận kiểm tra tại doanh nghiệp gồm
nhiều Đội nhỏ, số lượng các đội này phụ thuộc vào số lượng đối
tượng kiểm tra sau thông quan tiềm năng. Trong trường hợp có
nhiều Đội kiểm tra doanh nghiệp thì Bộ phận này còn có thêm một
Đội Phối hợp được thành lập và chịu trách nhiệm với những công
việc sau:
11
- Phối hợp lập kế hoạch kiểm tra sau thông quan trên toàn
quốc;
- Đánh giá hoạt động kiểm tra sau thông quan trên toàn quốc;
và liên hệ với các đơn vị/chuyên gia có liên quan trong các lĩnh vực
trị giá hải quan, phân loại hàng hoá và vi phạm hải quan.
1.1.3 Quy trình nghiệp vụ của kiểm tra sau thông quan
Kiểm tra sau thông quan bao gồm các bước được thực hiện
một cách lô-gích, có cấu trúc và tổ chức chặt chẽ. Kiểm tra sau
thông quan là phương pháp quản lý rủi ro trong các bước về lựa
chọn đối tượng kiểm tra, khảo sát trước khi kiểm tra, và kiểm tra tại
doanh nghiệp và tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ kiểm tra và rà soát
sổ sách, chứng từ của đối tượng Kiểm tra sau thông quan. Ngay từ
khi bắt đầu liên lạc với đối tượng kiểm tra đến khi kết thúc quá trình
kiểm tra, cần phải duy trì thông tin liên lạc và phối hợp với đối
tượng kiểm tra và với các đơn vị hải quan chức năng khác. Khi kết
thúc, phải làm báo cáo để đảm bảo rằng mọi dấu hiệu và các vấn đề
liên quan khác được chia sẻ và thảo luận đầy đủ giữa đối tượng
kiểm tra và cán bộ Kiểm tra sau thông quan. Bản báo cáo sau đó sẽ
được gửi đến đối tượng kiểm tra và cán bộ giám sát việc Kiểm tra
sau thông quan. Thêm vào đó, việc phối hợp bằng cách chia sẻ
thông tin với các cơ quan khác như cơ quan Thuế nội địa, Kho bạc,
Ngân hàng sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện Kiểm tra sau
thông quan có hịêu quả và hoàn thiện hơn, đặc biệt là trong bước
lựa chọn đối tượng Kiểm tra sau thông quan.
Sau đây là nội dung chi tiết của từng bước trong hoạt động
12
chuẩn mực của ASIAN:
Bước 1: Lựa chọn đối tưọng kiểm tra là bước xác định đối
tượng kiểm tra (hàng hoá xuất - nhập khẩu của doanh nghiệp) dựa
trên cơ sở hoạt động của Bộ phận thu thập thông tin của Chi cục
kiểm tra sau thông quan. Các tác nghiệp cụ thể trong bước này bao
gồm:
- Lập hồ sơ về đối tượng kiểm tra
- Đánh giá rủi ro
- Lựa chọn đối tượng kiểm tra
Để thực hiện tốt công việc của bước 1, thông tin liên quan đến
toàn bộ đối tượng kiểm tra phải được thu thập và xử lý một cách kịp
thời chính xác và hiệu quả và chỉ có như vậy thì đối tượng kiểm tra
được lựa chọn mới xác đáng.
Bước 2: Tiến hành kiểm tra là công việc của Bộ phận kiểm
tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Tại bước 2, các nghiệp vụ chủ yếu
bao gồm:
- Khảo sát trước khi kiểm tra
- Liên lạc ban đầu với đối tượng kiểm tra
- Kiểm tra tại doanh nghiệp
- Rà soát và đánh giá kết quả kiểm tra
- Lập biên bản kiểm tra
Bước 3: Đánh giá kết quả kiểm tra và đề xuất biện pháp
xử lý
- Đánh giá nội bộ về quá trình kiểm tra
- Đề xuất các biện pháp xử lý kết quả kiểm tra
13
Như vậy có thể thấy quy trình kiểm tra sau thông quan là một
hệ thống các tác nghiệp với sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ phận
trong Chi cục kiểm tra sau thông quan để đảm bảo rằng quá trình
kiểm tra đúng đối tượng, đúng trong tâm trọng điểm, minh bạch
công khai từ khâu lựa chọn, trong quá trình kiểm tra và đến khâu xử
lý kết quả kiểm tra. Quy trình như vậy cũng chính là điều kiện để
hạn chế rủi ro trong hoạt động “tiền kiểm” và nâng cao hiệu quả quản lý
Nhà nước của Hải quan.
1.2 Hoạt động kiểm tra sau thông quan
1.2.1. Bộ hồ sơ hải quan
Đối với hàng hóa xuất khẩu, bộ hồ sơ hải quan bao gồm:
- Tờ khai hải quan
- Hợp đồng mua bán hàng hóa
Ngoài ra, tùy trường hợp cụ thể dưới đây, người khai hải quan
phải nộp thêm các chứng từ như sau:
- Bản kê chi tiết hàng hoá đối với trường hợp hàng hoá có
nhiều chủng loại hoặc đóng gói không đồng nhất
- Giấy phép xuất khẩu đối với hàng hóa phải có giấy phép xuất
khẩu theo quy định của pháp luật
- Trường hợp hàng hoá thuộc đối tượng được miễn thuế xuất
khẩu, ngoài các giấy tờ nêu trên, phải có thêm:Giấy báo trúng thầu
hoặc giấy chỉ định thầu kèm theo hợp đồng cung cấp hàng hoá,
trong đó có quy định giá trúng thầu hoặc giá cung cấp hàng hoá
không bao gồm thuế xuất khẩu; Giấy tờ khác chứng minh hàng hóa
14
xuất khẩu thuộc đối tượng miễn thuế; Bảng kê danh mục, tài liệu
của hồ sơ đề nghị miễn thuế.
Đối với hàng hóa nhập khẩu, bộ hồ sơ hải quan bao gồm:
- Tờ khai hải quan;
- Hợp đồng mua bán hàng hóa
- Hóa đơn thương mại
- Vận đơn hoặc các chứng từ vận tải khác có giá trị tương
đương theo quy định của pháp luật
Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể dưới đây, người khai hải
quan nộp thêm, xuất trình các chứng từ sau:
- Bản kê chi tiết hàng hoá đối với hàng hoá có nhiều chủng
loại hoặc đóng gói không đồng nhất
- Giấy đăng ký kiểm tra hoặc giấy thông báo miễn kiểm tra
hoặc giấy thông báo kết quả kiểm tra của tổ chức kỹ thuật được chỉ
định kiểm tra chất lượng, của cơ quan kiểm tra an toàn thực phẩm,
cơ quan kiểm dịch (sau đây gọi tắt là cơ quan kiểm tra) đối với hàng
hóa nhập khẩu thuộc danh mục sản phẩm, hàng hoá phải kiểm tra về
chất lượng, về an toàn thực phẩm; về kiểm dịch động vật, kiểm dịch
thực vật
- Chứng thư giám định đối với hàng hoá được thông quan trên
cơ sở kết quả giám định;
- Giấy phép nhập khẩu đối với hàng hóa phải có giấy phép
nhập khẩu theo quy định của pháp luật
- Nộp 01 bản gốc giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O)
trong các trường hợp:Hàng hoá có xuất xứ từ nước hoặc nhóm nước
15
có thoả thuận về áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt với quốc gia
nghiên cứu; Hàng hoá nhập khẩu được quốc gia nghiên cứu và các
tổ chức quốc tế thông báo đang ở trong thời điểm có nguy cơ gây
hại đến an toàn xã hội, sức khoẻ của cộng đồng hoặc vệ sinh môi
trường cần được kiểm soát;
- Trường hợp hàng hoá thuộc đối tượng được miễn thuế nhập
khẩu phải có: Danh mục hàng hóa miễn thuế kèm theo phiếu theo
dõi trừ lùi đã được đăng ký tại cơ quan hải quan; Giấy báo trúng
thầu hoặc giấy chỉ định thầu; Giấy tờ chuyển nhượng hàng hoá
thuộc đối tượng miễn thuế; Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh cửa hàng miễn thuế đối với hàng hoá nhập khẩu để bán tại
cửa hàng miễn thuế; Giấy tờ khác chứng minh hàng hóa nhập khẩu
thuộc đối tượng miễn thuế; Bảng kê danh mục, tài liệu của hồ sơ đề
nghị miễn thuế.
Bên cạnh đó còn một số danh mục các chứng từ khác theo
quy định của pháp luật từng nước.
1.2.2. Hoạt động kiểm tra sau thông quan
Hoạt động kiểm tra sau thông quan được tiến hành tại trụ sở
cơ quan hải quan hoặc tại doanh nghiệp.
Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan là hoạt
động thường xuyên của cơ quan hải quan nhằm đánh giá việc chấp
hành pháp luật về thuế và pháp luật về hải quan của doanh nghiệp.
Khi kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan, cơ quan hải
quan không ban hành quyết định kiểm tra.
16
Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan được thực
hiện theo kế hoạch đã được xác định cho từng giai đoạn, của từng
đơn vị hoặc khi có thông tin, dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan,
pháp luật về thuế liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu. Hoạt động
này được thực hiện bằng việc thu thập, tổng hợp, phân tích, xử lý
thông tin từ các cơ sở dữ liệu của ngành về doanh nghiệp, mặt hàng,
loại hình xuất nhập khẩu được kiểm tra. Nếu chưa đủ cơ sở để đánh
giá, kết luận thì sẽ thực hiện: Kiểm tra hồ sơ hải quan và các chứng
từ, tài liệu liên quan đang lưu giữ tại các đơn vị hải quan làm thủ tục
cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã thông quan; Yêu cầu doanh
nghiệp giải trình để làm rõ các vấn đề chưa rõ hoặc nghi vấn; Xác
minh tại các tổ chức, cá nhân liên quan để làm rõ các vấn đề chưa rõ
hoặc nghi vấn; Giám định các chứng từ nghi vấn, giám định hàng
hóa nếu cần thiết và còn điều kiện.
Đối với những trường hợp có yêu cầu chuyên môn, kỹ thuật
chuyên ngành, tự mình không đủ khả năng, điều kiện kết luận thì
đơn vị thực hiện việc kiểm tra sau thông quan quyết định trưng cầu
giám định tại các cơ quan, tổ chức giám định chuyên ngành. Kết
luận của cơ quan, tổ chức giám định là căn cứ để kiểm tra sau thông
quan kết luận vụ việc;
Kết thúc quá trình kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan, công
chức, nhóm công chức thực hiện kiểm tra sau thông quan có trách
nhiệm báo cáo về phạm vi, nội dung, quá trình kiểm tra, kết quả
kiểm tra và đề xuất nội dung kết luận, biện pháp xử lý kết quả kiểm
tra để người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Cụ thể như sau:
17
- Trường hợp cơ quan hải quan thấy có đủ căn cứ để kết luận
doanh nghiệp nộp thiếu thuế, gian lận thuế, trốn thuế... thì thông báo
kết luận đó cho doanh nghiệp: Nếu doanh nghiệp giải trình và bổ
sung thông tin, tài liệu chứng minh việc xuất nhập khẩu và số tiền
thuế đã nộp là đúng thì hồ sơ hải quan được chấp nhận; Nếu doanh
nghiệp đồng ý với kết luận của cơ quan hải quan thì cơ quan hải
quan ban hành các quyết định ấn định số tiền thuế phải nộp, xử lý vi
phạm hành chính (nếu có); Nếu doanh nghiệp không giải trình hoặc
giải trình không được thì cơ quan hải quan quyết định ấn định số
tiền thuế phải nộp và xử lý vi phạm hành chính (nếu có) hoặc quyết
định kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp.
- Trường hợp không phát hiện vi phạm thì kết thúc kiểm tra,
đưa hồ sơ vào lưu trữ theo quy định.
Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp
Các trường hợp kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh
nghiệp gồm:
Thứ nhất, kiểm tra theo kế hoạch: đó là việc cơ quan hải quan
thực hiện kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp theo kế hoạch xác định
cho từng năm. Mỗi năm có một số lượng nhất định doanh nghiệp
được kiểm tra.
Thứ hai, kiểm tra chọn mẫu: đó là việc cơ quan hải quan căn
cứ vào diễn biến của tình hình trốn thuế, gian lận thương mại nổi
lên trong từng giai đoạn để lựa chọn những doanh nghiệp, loại hình,
18
loại mặt hàng xuất nhập khẩu điển hình để thực hiện kiểm tra tại trụ
sở doanh nghiệp.
Thứ ba, kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp khi
có dấu hiệu doanh nghiệp vi phạm pháp luật hoặc có khả năng vi
phạm pháp luật về thuế, pháp luật về hải quan.
Nội dung kiểm tra sau thông quan bao gồm:
- Kiểm tra tính đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ hải quan;
- Kiểm tra tính chính xác của các căn cứ tính thuế, tính chính
xác của việc khai các khoản thuế phải nộp, được miễn, không thu,
được hoàn;
- Kiểm tra việc thực hiện các quy định khác của pháp luật về
thuế;
- Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về hải quan
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm tra sau thông quan
1.3.1 Nhân tố chủ quan
Cơ quan hải quan chỉ ra năm nhân tố chủ quan cơ bản ảnh
hưởng đến công tác kiểm tra sau thông quan:
- Về môi trường kiểm tra, kiểm soát được xây dựng trong toàn
bộ hoạt động của doanh nghiệp và được lãnh đạo cấp cao nhất ủng
hộ (doanh nghiệp xuất nhập khẩu chân chính);
- Sự đánh giá có hiệu quả về rủi ro không tuân thủ trong nội
bộ doanh nghiệp và các đơn vị kinh doanh có liên quan, thông qua
hoạt động và trong tất cả các bộ phận;
19
- Những chính sách và quy trình rõ ràng bằng văn bản, trong
đó mô tả và chức đựng những hoạt động kiểm soát có hiệu quả;
- Những thủ tục đảm bảo sự thu thập và lưu chuyển thông tin
phù hợp trong toàn bộ tổ chức của doanh nghiệp;
- Sự kiểm tra thường xuyên nhằm đảm bảo hoạt động liên tục
của hệ thống tuân thủ.
Đối với cơ quan hải quan, việc xem xét thiếu bất kỳ một trong
năm nhân tố trên đây là một « nguy cơ tai nạn sắp xảy ra ». Như thế
sự đánh giá là nhằm xác nhận sự tồn tại và hoạt động hiệu quả của
cả năm nhân tố trong kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, việc chuẩn bị cho một cuộc kiểm tra
sau thông quan cũng tựa như phải đối mặt với một kỳ thi Tốt nghiệp
Đại học. Sau khi nhận được thông báo của cơ quan hải quan về việc
sẽ tổ chức gặp mặt « đánh gia sơ bộ » trước khi tiến hành kiểm tra
sau thông quan, doanh nghiệp sẽ phải tìm hiểu kỹ về những giấy tờ,
sổ sách, báo cáo tài chính có liên quan mà cơ quan hải quan sẽ xem
xét. Tiếp đó là xem và tự trả lời những câu hỏi liên quan đến kiểm
soát nội bộ và các quy trình xử lý dữ liệu.
Một nhân tố cũng quan trọng là đánh giá mức độ ảnh hưởng
của từng bộ phận, phòng ban của doanh nghiệp đến các hoạt động
xuất nhập khẩu (chẳng hạn như phòng phụ trách xuất nhập khẩu,
phòng kế toán, bộ phận trợ lý giám đốc, bộ phận văn thư lưu trữ, bộ
phận kho quỹ,...). Lý tưởng nhất là doanh nghiệp có thể xác định
các vấn đề và chủ động chỉnh sửa tất cả trước khi cuộc kiểm tra bắt
đầu.
20
Chắc chắn rằng cuộc kiểm tra sau thông quan (tại trụ sở hải
quan hay tại trụ sở doanh nghiệp) sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dù ít hay nhiều. Những kiểm
tra viên hải quan có thể sẽ yêu cầu cung cấp nhiều thứ theo qui định
hiện hành. Một trong những điều quan trọng là phải đạt được sự
thống nhất giữa hai bên (doanh nghiệp và hải quan) về lộ trình dự
kiến của cuộc kểm tra. Việc kiểm tra nhanh hay chậm sẽ phụ thuộc
vào qui mô hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, mức độ chuẩn
bị của công ty cho việc đánh giá, mức độ hợp tác và năng lực của
các bên, và tất nhiên cả những yếu tố khách quan khác để đạt tới sự
kiểm soát tốt hơn.
Về phía doanh nghiệp, với sự chuẩn bị tốt trong và sau quá
trình kiểm tra sau thông quan, doanh nghiệp sẽ thu được những lợi
ích « nhìn thấy » rất thiết thực:
- Là cơ hội tự đánh giá nhằm tối ưu hóa công tác quản lý
doanh nghiệp;
- Là cơ hội để liên kết những quy trình, những bộ phận, cá
nhân và cả thông tin trong nội bộ doanh nghiệp (để thỏa mãn những
yệu cầu xuất trình, chứng minh của cơ quan hải quan);
- Tự nhận biết và giảm thiểu những rủi ro trong việc tuân thủ
pháp luật, từ đó tránh những nguy cơ phải nhận những hậu quả pháp
lý tiêu cực;
- Vận dụng những biểu mẫu đánh giá của cơ quan hải quan
(một cách sáng tạo) vào viêc đánh giá nội bộ của chính doanh
nghiệp;
21
- Là cơ hội đánh giá hoạt động xuất nhập khẩu như là một
khâu của chuỗi sản xuất kinh doanh; thiêt lập mối quan hệ hiểu biết
và là đối tác tốt của cơ quan hải quan;
- Trong trường hợp kết quả kiểm tra sau thông quan cho thấy
doanh nghiệp hoàn toàn tuân thủ tốt pháp luật về xuất nhập khẩu,
doanh nghiệp có những quy trình và tổ chức hiệu quả,... thì việc
công bố kết luận kiểm tra sau thông quan rộng rãi lại là một hình
thức quãng bá, « PR » rất hiệu quả cho bản thân doanh nghiệp
(tương tự như kiểm toán thông thường), và điều kiện để được công
nhận doanh nnghiệp ưu tiên đặc biệt theo qui định hiện hành.
1.3.2 Nhân tố khách quan
Trốn lậu thuế xuất nhập khẩu là hình thức gian lận thương mại
theo đó chủ thể tham gia thương mại quốc tế - doanh nghiệp xuất
nhập khẩu hàng hoá - không nộp đúng, nộp đủ số tiền thuế áp dụng
đối khối lượng và chủng loại hàng hoá xuất nhập khẩu theo quy
định của pháp luật. Điều đáng lưu ý là cơ sở để thực hiện các hành
vi trốn lậu thuế xuất nhập khẩu lại chính là căn cứ xác định và
phương pháp tính thuế. Nói cách khác, nghiên cứu các hình thức
trốn lậu thuế cần xuất phát từ việc nghiên cứu về căn cứ xác định và
phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu.
Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói chung là số
lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong
tờ khai hải quan, giá tính thuế, thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%).
Đối với các mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là
22
số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế nhập khẩu ghi trong tờ khai
hải quan và mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hóa
nhập khẩu.
Phương pháp tính thuế nhập khẩu được áp dụng ở hầu khắp
các nước trên thế giới như sau:
Số thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với giá tính
thuế và thuế suất của từng mặt hàng ghi trong Biểu thuế tại thời
điểm tính thuế.
Trong trường hợp các mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì số
thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng thực
tế nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với mức thuế tuyệt đối
quy định trên một đơn vị hàng hoá tại thời điểm tính thuế.
Tương ứng với những căn cứ xác định và phương pháp tính
thuế theo qui định cụ thể về quản lý xuất nhập khẩu của từng nước
theo từng thời kỳ, các biện pháp trốn lậu thuế nảy sinh dưới một số
hình thức cơ bản như sau :
Thứ nhất, gian lận về số lượng, trị giá hàng hóa nhập khẩu:
Lợi dụng việc kiểm tra trên thực tế mang tính xác suất đối với lượng
hàng hóa, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp đã khai báo số
lượng hàng hoá xuất, nhập khẩu thấp hơn so với số lượng thực tế để
giảm số tiền thuế phải nộp. Thí dụ: Doanh nghiệp nhập khẩu 10
con’t quần áo, khai báo số lượng 2.500bộ/con’t; Thực tế khi chuyển
23
luồng tờ khai từ miễn kiểm sang kiểm tra thực tế đã phát hiện số
lượng hàng là 3.000bộ/con’t. Hoặc Doanh nghiệp khai giảm thấp về
giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu thông quan nhằm giảm số tiền thuế
phải nộp. Các Quốc gia từng bước thực hiện việc xác định trị giá
theo Hiệp định trị giá GAT/WTO đối với hàng hóa nhập khẩu đến
từ các nước có ký hiệp định thương mại song phương v.v. Chủ hàng
luôn khai báo thấp trị giá hàng nhập khẩu và có xu hướng giảm dần,
tập trung chủ yếu ở những Quốc gia còn yếu trong khâu quản lý lưu
thông tiền tệ, tiền mặt sử dụng nhiều. Thí dụ : Doanh nghiệp nhập
khẩu lô hàng Gạo tấm khai báo đơn giá 300USD/tấn nhưng thực tế
thanh toán cho đối tác là 400USD/tấn.
Thứ hai, gian lận về xuất xứ hàng hóa: Lợi dụng việc ưu đãi
thuế quan theo hiệp định song phương hoặc đa phương giữa một
Quốc gia này với một Quốc gia khác hoặc một vùng lãnh thổ.
Doanh nghiệp khai sai về xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng thuế suất
ưu đãi, giảm số tiền thuế phải nộp.Thí dụ: Doanh nghiệp Trung
Quốc xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU đã mượn đường
qua Việt Nam xuất vào Châu Âu để hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi
mà EU giành cho Việt Nam.
Thứ ba, gian lận trong kê khai về chủng loại hàng hóa, dẫn
đến thay đổi thuế suất áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu. Có thể nói rằng đây là hình thức gian lận “tinh vi” nhất, doanh
nghiệp phải rất am hiểu tính chất của hàng hóa nhập khẩu cũng như
cơ sở xác định và phương pháp tính thuế nhưng luôn khai báo
không đúng chủng loại để trốn lậu thuế. Thí dụ : Tại Philippines do
24
có sự chênh lệch thuế suất thuế nhập khẩu mặt hàng “ Thép lá mạ
kẽm bằng phương pháp điện phân” và “Thép lá mạ kẽm bằng
phương pháp nhúng nóng” nên doanh nghiệp khi nhập khẩu đã khai
báo hàng là “Thép lá mạ kẽm bằng phương pháp nhúng nóng” để
giảm số thuế phải nộp, gây thất thu thuế cho Chính phủ.
Thứ tư, Gian lận về chính sách mặt hàng hay chính sách ưu
đãi thuế, do việc khuyến khích đầu tư hoặc ưu đãi đối với một số
ngành nghề nên Chính phủ qui định ưu đãi về thuế nhập khẩu, thậm
chí có thể là miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu. Tương tự, trong một số
trường hợp đặc biệt khuyến khích xuất khẩu, một số hàng hoá khi
xuất khẩu cũng được miễn giảm thuế. Lợi dụng các chính sách miễn
giảm thuế đối với một số loại hàng hoá nhập khẩu, doanh nghiệp lợi
dụng để “đưa” hàng hoá không đúng chủng loại vào “diện ưu đãi”
để được miễn giảm tức là gian lận thuế nhập khẩu. Thí dụ : Tại một
số nước đang phát triển, Chính phủ ưu đãi thuế nhập khẩu cho một
mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, nhưng khi nhập khẩu
doanh nghiệp đã đưa cả hàng trong nước đã sản xuất được để không
phải nộp thuế.
Thứ năm, gian lận thông qua chuyển đổi mục đích sử dụng
của hàng hoá nhập khẩu dựa trên cơ sở chính sách ưu đãi thuế nhập
khẩu của các loại hàng hóa với mục đích sử dụng khác nhau. Doanh
nghiệp nhập khẩu hàng hoá đã thực hiện hành vi gian lận thuế thông
qua việc tự “chuyển đổi” mục đích hàng hoá nhập khẩu khi kê khai
tờ khai hải quan nhằm giảm thiểu số tiền phải nộp thuế vào Ngân
sách Nhà nước. Tuy vậy, gian lận loại này chiếm tỷ trọng không cao
25
và rất dễ bị phát hiện do mỗi loại hàng hoá với những mục địch sử
dụng khác nhau đều có những đặc điểm mang tính chất đặc thù. Ví
dụ : Mỗi Quốc gia đều có những nghành công nghiệp trọng điểm
của mình nên thường có số thuế suất thuế nhập khẩu rất thấp hoặc
bằng không, nhưng do xu hướng các nhà sản xuất trên thế giới
thường sản xuất một mặt hàng thường sử dụng cho nhiều loại mục
đích khác nhau nên Doanh nghiệp lợi dụng khai sai mục đích sử
dụng để trốn thuế.
Gian lận thương mại và chống gian lận thương mại là một
trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý hải quan trên
toàn thế giới. Theo tổng kết của WCO tại Sổ tay về các biện pháp
chống gian lận thương mại thì gian lận thương mại trong lĩnh vực
hải quan là tất cả những hành vi vi phạm pháp luật nhằm trốn thuế,
vận chuyển trái phép hàng hóa, hoàn thuế không đúng đối tượng
hay tạo lợi thế cạnh tranh không bình đẳng. Nhằm giúp các nước
thành viên tiếp cận tốt hơn với các biện pháp chống gian lận thương
mại mang tính toàn cầu và học tập, trao đổi kinh nghiệm chống gian
lận thương mại với nhau, hàng năm WCO thường xuyên tổ chức các
chương trình hội thảo trong các khu vực. Đối với khu vực Châu Á Thái Bình Dương, hội thảo về Gian lận thương mại và Chống gian
lận thương mại năm 2008 được tổ chức tại Học viện Hải quan, Thuế
và Ma túy ở thành phố Faridabad- Ấn Độ. Đại diện WCO mang đến
hội thảo bản tổng kết chung về tình hình gian lận thương mại trên
thế giới và trong khu vực trong thời gian qua, các biện pháp chống
gian lận thương mại hiện đang được triển khai và áp dụng có hiệu