Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của việt nam vào thị trường EU trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.77 KB, 124 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, cô giáo trường Đại
học kinh tế Quốc dân, Khoa sau đại học, Bộ môn Lịch sử kinh tế
Quốc dân đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và viết
luận văn.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo – GS.TS
Nguyễn Trí Dĩnh, người đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận
văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, do hạn chế về lý luận và
kinh nghiệm thu được cũng như thời gian nghiên cứu, luận văn
không tránh khổi những sai sót. Tôi rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy giáo, cô giáo và các
đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội. ngày

tháng

năm 2012

Tác giả
Nguyễn Xuân Hòa

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
EU
HTX
KXXK
KTTN


NK
SX
SP
XK
XHCN
XNK

: Liên minh Châu Âu
: Hợp tác xã
: Kim ngạch
: Kinh tế tư nhân
: Nhập khẩu
: Sản xuất
: Sản phẩm
: Xuất khẩu
: Xã hội chủ nghĩa
: Xuất nhập khẩu

2


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Lợi thế tuyệt đối............Error: Reference source not found
Bảng 2: Lợi thế so sánh (Lợi thế tương đối)........Error: Reference
source not found
Bảng 1.3 : Tăng trưởng GDP và đóng góp của xuất khẩu vào
GDP...............................................Error: Reference source not found
Bảng 1.4: Cơ cấu xuất khẩu các nước NICs thời kỳ 1965 - 1986
........................................................Error: Reference source not found
Bảng 1.5: Xuất khẩu so với GDP của Trung Quốc thời kỳ 1980 1998..........................................Error: Reference source not found

Bảng 1.6: Đóng góp của xuất khẩu vào GDP và cơ cấu xuất
khẩu của ASEAN-5......................Error: Reference source not found
Bảng 2.1. KNXK dệt may Việt Nam sang EU giai đoạn 2001 2011................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.2. So sánh kim ngạch xuất khẩu của một số nước trên
thị trường EU ..............................Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của VN vào một số
quốc gia trong EU........................Error: Reference source not found

3


MỤC LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển sang phát triển kinh tế thị trường và mở cửa kinh tế
quốc tế, hoạt động thương mại của Việt Nam đã có những bước
chuyển biến tích cực, thị trường xuất khẩu hàng hóa ngày càng đa
dạng. Bên cạnh thị trường truyền thống đã xuất hiện những thị
trường mới. Về hoạt động xuất khẩu, những năm qua có những
đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tạo thêm nhiều việc làm mới. Sự tăng trưởng của hoạt
động xuất khẩu trong những năm qua có sự đóng góp khá lớn của
ngành dệt may. Những năm gần đây, hàng dệt may của Việt Nam đã
được xuất khẩu vào thị trường Liên minh Châu Âu (EU). Đây là thị
trường lớn, mở ra nhiều triển vọng để ngành dệt may Việt Nam có
thể phát huy được tiềm năng và lợi thế của mình. Ngoài thị trường

EU còn có những nước khác như Trung Quốc, Ấn độ cũng mở ra
nhiều triển vọng cho hàng dệt may của nước ta…Mặt khác, hàng
hóa Việt Nam chất lượng, mẫu mã kiểu dáng còn nhiều hạn chế.
Sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam với một số nước xuất khẩu
hàng dệt may vào EU còn có nhiều hạn chế.
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và tự do hóa đầu tư khi
Việt Nam trở thành thành viên WTO (11/2006) thì nhiều vấn đề đặt
ra với Việt Nam khi xuất khẩu hàng dệt may vào EU; Hiệu quả sản
xuất kinh doanh mặt hàng này chưa cao Điều đó cho thấy Việt Nam
cần có các giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa vào

5


thị trường này. Đó là lý do học viên chọn đề tài “Hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU trong hội nhập
kinh tế quốc tế - Thực trạng kinh nghiệm và giải pháp”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường EU nhưng năm 2001 đến 2011; Thực trạng và
giải pháp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương
pháp logic, phương pháo so sánh, phương pháp phân tích, phương
pháp thống kê để nghiên cứu.
4. Những đóng góp của Luận văn
- Hệ thống hóa các lý thuyết về xuất khẩu
- Khảo sát thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị
trường EU trong thời gian 2001 đến 2011, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm.

- Đề xuất một số quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị
trường EU trong thời gian tới .
5. Kết cấu, nội dung của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liêu thảm khảo, Luận văn có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn xuất khẩu hàng
dệt may trong hội nhập kinh tế quốc tế

6


Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa dệt may của Việt Nam
vào thị trường EU trong thời kỳ 2001 – 2011 và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy hàng dệt may của
Việt Nam vào thị trường EU.

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, xuất khẩu là việc bán hàng
hóa hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài; gồm hai loại hình là xuất
khẩu hàng hóa (còn gọi là xuất khẩu hữu hình) và xuất khẩu dịch vụ

(còn gọi là xuất khẩu vô hình). Xuất khẩu hàng hóa được chia ra
thành xuất khẩu thuần túy và xuất khẩu chung. Xuất khẩu thuần túy
gồm hàng hóa sản xuất trong nước và hàng tái xuất sau khi được
chế biến trong nước. Xuất khẩu chung gồm tất cả hàng hóa xuất
khẩu kể cả hàng nhập khẩu tái xuất không qua chế biến trong nước
và hàng quá cảnh. Xuất khẩu vô hình là tổng số các khoản thu của
một nước về các dịch vụ: cho thuê tàu, bảo hiểm, chuyển giao công
nghệ, v..v... Ở nước ta hiện nay, xuất khẩu hữu hình vẫn chiếm một
tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị xuất khẩu (khoảng 98%), còn xuất
khẩu vô hình chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 2%). Như vậy,
xuất khẩu là việc một nước mang hàng hóa và dịch vụ của mình bán
ra thị trường ngoài nước. Về tổng thể, xuất khẩu là một hoạt động
thương mại quốc tế, những xuất khẩu không phải là hành vi buôn
bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ

8


chức bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản
xuất hàng hóa phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định và
từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Xét dưới góc độ các hình thức thương mại quốc tế thì xuất
khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào
lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp
sử dụng khả năng vượt trội hay những lợi thế của mình để giảm chi
phí cho một đơn vị sản phẩm do tăng quy mô sản xuất, đồng thời
giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận và giảm rủi ro nhờ tối thiểu
hóa sự dao động của nhu cầu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại những hiệu quả
to lớn nhưng cũng có thể gây thiệt hại lớn vì khi tham gia xuất khẩu,

các chủ thể phải đối đầu với hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà
họ không dễ dàng khống chế được.
Theo Điều 2, Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 của
Chính phủ thì: "hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động bán
hàng hóa của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài
theo các hợp đồng mua bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm
nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa".
Tóm lại, xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh nhưng phạm
vi kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia hay nói cách khác đo
là hoạt động bán hàng hóa và dịch vụ ra thị trường nước ngoài.
Thông qua hoạt động xuất khẩu các quốc gia tham gia vào hệ thống
phân công lao động quốc tế, chuyên môn hóa sản xuất trên cơ sở

9


phát huy các lợi thế của mình và nhờ đó có thể thu được những lợi
ích to lớn cho nền kinh tế trong nước.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu
* Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ
mà doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất
trong nước, xuất khẩu ra nước ngoài thông qua các tổ chức của
mình.
Ưu điểm của hình thức này là lợi nhuận thu được của các
doanh nghiệp thường là cao hơn các hình thức khác, có thể nâng cao
uy tín của mình, thông qua quy cách và phẩm chất hàng hóa, có thể
tiếp cận trực tiếp thị trường, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của
người tiêu dùng.
Bên cạnh đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng trước một

lượng vốn lớn để sản xuất hoặc thu mua và rủi ro kinh doanh là rất
lớn.
* Xuất khẩu gia công ủy thác:
Theo hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất
khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh
nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất khẩu cho bên
nước ngoài. Doanh nghiệp này sẽ được hưởng phí ủy thác theo thỏa
thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến.
Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh
doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được

10


bảo đảm vì đầu ra chắc chắn. Bên cạnh đó nó đòi hỏi nhiều thủ tục
xuất và nhập khẩu do đó cần phải có những cán bộ kinh doanh có
kinh nghiệm và thông thạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
* Xuất khẩu ủy thác:
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất
khẩu đứng ra đóng vai trò trung gian xuất khẩu làm thay cho các
đơn vị sản xuất những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng
phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thỏa thuận.
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, ít trách
nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách
nhiệm cuối cùng. Đặc biệt là không cần bỏ vốn ra để mua hàng,
nhận tiền nhanh, ít thủ tục và tương đối tin cậy.
* Buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu
kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,
lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng đã

xuất.
Các loại hình buôn bán đối lưu gồm: hàng đổi hàng, trao đổi
bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ, mua lại sản phẩm.
* Xuất khẩu theo nghị định thư:
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa được ký kết theo nghị
định thư giữa hai chính phủ.

11


Ưu điểm của hình thức này là tiết kiệm được các khoản chi phí
trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, đảm bảo được
thanh toán.
* Xuất khẩu tại chỗ:
Đây là hình thức mà hàng hóa và dịch vụ có thể vượt ra ngoài
biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng giống như
hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho
các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế. Hoạt động này có thể
đạt hiệu quả kinh tế cao do giảm bớt chi phí bao bì, đóng gói, bảo
quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
* Gia công quốc tế:
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên
nhập nguồn nguyên liệu bán thành phẩm (bên nhận gia công) của
bên đặt gia công để chế biến thành phẩm giao lại cho bên đặt gia
công và qua đó thu được phí gia công.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công
ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ
tiên tiến để phát triển sản xuất. Hình thức này được áp dụng khá phổ
biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân công dồi dào với giá
rẻ, nguồn nguyên liệu sẵn có của các nước nhận gia công.

* Tạm nhập, tái xuất:
Đây là hình thức xuất khẩu đi những hàng hóa đã nhập khẩu
trước đây và cho tiến hành các hoạt động chế biến.

12


Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu về một
lượng ngoại tệ lớn hơn so với bỏ ra ban đầu, không phải tổ chức sản
xuất, đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn
cao.
1.2. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
Sự phân công lao động xã hội cùng với sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật là một trong những tiền đề xuất hiện sự trao đổi hàng
hóa. Khi thương mại quốc tế càng phát triển thì sự phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế giữa các nhà sản xuất riêng biệt của mỗi quốc gia
càng tăng. Điều đó được quy định bởi sự đa dạng về điều kiện sản
xuất và tiêu dùng của các nước.
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung cơ bản và hết sức quan
trọng của hoạt động thương mại quốc tế. Tuy cách thức tiếp cận và
nhìn nhận vai trò của hoạt động ngoại thương và xuất khẩu có khác
nhau, nhưng ngay từ rất sớm các nhà kinh tế học đã thừa nhận vai
trò của hoạt động ngoại thương trong đó có xuất khẩu đối với sự
phát triển của kinh tế.
- Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723 – 1790))
Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối do Adam Smith phát hiện,
một nước chỉ sản xuất các loại hàng hóa sử dụng tốt nhất cá loại tài
nguyên của quốc gia đó. Đây là cách giải thích đơn giản nhất về
nguyên nhân của thương mại quốc tế. Rõ ràng, việc tiến hành trao
đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nếu một


13


quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ từ chối tham gia
vào thương mại quốc tế.
Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản
xuất hai loại hàng hóa là A và B. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt
đối trong việc sản xuất hàng hóa A, còn quốc gia thứ hai có lợi thế
tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hóa B. Nếu mỗi quốc gia đều tiến
hành chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối, sau đ
tiến hành trao đổi thì cả hai bên đều có lợi. Trong quá trình này, các
nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả nhất, do đó tổng sản
phẩm của cả hai quốc gia sẽ tăng lên. Sự tăng thêm số sản phẩm này
là nhờ vào chuyên môn hóa và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia
theo tỷ lệ trao đổi ngoại thương.
Thực chất của lợi thế tuyệt đối có thể minh họa qua ví dụ sau:
Bảng 1: Lợi thế tuyệt đối
Gạo (kg/1 giờ công)
Thịt bò (kg/1 giờ

Việt Nam
6
4

Đài Loan
1
5

công)

Bảng 1 cho thấy, giả sử cứ 1 giờ công ở Việt Nam sản xuất
được 6kg gạo hoặc 4kg thịt bò, trong khi đó ở Đài Loan được 1kg
gạo hoặc 5kg thịt bò. Như vậy, Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong
việc sản xuất gạo còn Đài Loan có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất
thị bò. Việt Nam sẽ chuyên môn hóa trồng lúa còn Đài Loan sẽ
chuyên môn hóa nuôi bò, sau đó 2 quốc gia này trao đổi một phần
sản phẩm cho nhau.
14


Nếu tỷ lệ trao đổi là 6kg gạo của Việt Nam lấy 6kg thịt bò của
Đài Loan thì Việt Nam sẽ lãi được 2kg thịt bò hay tiết kiệm được
1/2 giờ công lao động, vì mỗi giờ công ở Việt Nam chỉ sản xuất
được 4kg thịt bò. Tương tự, bằng việc trao đổi 6kg thịt bò lấy 6kg
gạo thì Đài Loan lợi được 24kg thịt bò hoặc tiết kiệm được 5 giờ
công. Đài Loan có lợi nhiều hơn Việt Nam và nếu thay đổi tỷ lệ trao
đổi thì lợi ích đó sẽ thay đổi. Điều đáng chú ý là cả 2 quốc gia đều
có lợi. Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ ở khoảng giữa của các tỷ lệ trao đổi
nội địa:
6/4 > Tỷ lệ trao đổi quốc tế (gạo/thịt bò) > 1/5
Tuy vậy, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ
của thương mại quốc tế là thương mại giữa các nước đang phát triển
và các nước phát triển. Phần lớn thương mại quốc tế, đặc biệt là
giữa các nước phát triển với nhau không thể giải thích được bằng lý
thuyết lợi thế tuyệt đối. Trong số những cố gắng để giải thích các cơ
sở của thương mại quốc tế, lợi thế tuyệt đối chỉ là một trường hợp
của lợi thế so sánh.
- Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo (1772 - 1823)
Theo quy luật lợi thế so sánh do David Ricardo phát hiện, nếu
một quốc gia có hiệu quả thấp so với các quốc gia khác trong việc

sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia
vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào thương
mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu
các loại hàng hóa mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là

15


những hàng hóa có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng
hóa mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất (đó là hàng hóa không có
lợi thế tương đối).
Ví dụ về lợi thế so sánh của David Ricardo được minh họa ở
bảng 2
Bảng 2: Lợi thế so sánh (Lợi thế tương đối)
Thép
công)
Vải

(kg/giờ

Việt Nam
1

Đài Loan
6

(m/giờ

2


4

công)
Bảng 2 cho thấy: Đài Loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt
Nam về cả hai loại hàng hóa. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành
thép của Đài Loan gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động ở
ngành dệt chỉ gấp 2 lần. Như vậy, giữa hai hàng hóa thép và vải,
Việt Nam có lợi thế so sánh trong sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế
so sánh, cả 2 quốc gia sẽ cùng có lợi nếu Việt Nam chuyên môn hóa
sản xuất vải còn Đài Loan chuyên môn hóa sản xuất thép, sau đó cả
2 quốc gia đem trao đổi một phần sản phẩm cho nhau.
Bảng 2 cho thấy, nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế bằng với tỷ lệ trao
đổi nội địa của mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ từ chối
trao đổi. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế phải ở khoảng giữa, tức là:
6/4 > tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/vải) > 1/2
Giả sử tỷ lệ trao đổi là 6kg thép lấy 6m vải, Đài Loan sẽ lợi
dụng được 2m vải, tức là tiết kiệm được 1/2 giờ công. Trong khi đó,
16


Việt Nam có lợi 6m vải hay tiết kiệm 3 giờ công. Nếu tỷ lệ trao đổi
gần với tỷ lệ trao đổi của Đài Loan thì Việt Nam càng có lợi và
ngược lại. Tóm lại, nếu tiến hành trao đổi theo tỷ lệ ở khoảng giữa
thì cả 2 quốc gia đều có lợi. Khoảng giao động của tỷ lệ trao đổi
quốc tế là:
4m vải < 6kg thép < 12m vải
Trong trường hợp 6kg thép đổi láy 6m vải thì Việt Nam được
lợi 6m vải còn Đài Loan được lợi 2m vải. Nếu trao đổi 6kg thép lấy
8m vải thì Đài Loan được lợi 4m vải và Việt Nam lợi 4m vải.
Lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo chỉ ra rằng bất

cứ một quốc gia nào cũng có lợi khi tham gia thương mại quốc tế và
có tác dụng cổ vũ cho sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản trong thế
kỷ XIX. Song lý thuyết của David Ricardo chủ yếu dựa vào lý luận
giá trị lao động và cho rằng lao động là yếu tố đầu vào duy nhất. Vì
thế mô hình của David Ricardo chưa giải quyết được một cách rõ
ràng nguồn gốc của thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại.
- Lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố
Các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế đều có chung một
hạn chế khi cho rằng thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở có sự
chênh lệch năng suất lao động giữa các quốc gia. Vào đầu thế kỷ 20,
hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Hecksher và Bertil Ohlin
đã nhận thấy rằng chính mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất ở các
quốc gia khác nhau và mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất để làm
ra các mặt hàng khác nhau mới là những nhân tố quan trọng quy

17


định thương mại quốc tế. Lý thuyết mà các ông xây dựng thường
được gọi là lý thuyết Heckscher - Ohlin (viết tắt là lý thuyết H - O)
hay lý thuyết Tân cổ điển về thương mại quốc tế.
Lý thuyết H - O được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản
là hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào các yếu tố. Một mặt
hàng được coi là sử dụng nhiều (một cách tương đối) lao động nếu
tỷ lệ giữa lao động và các yếu tố khác (như vốn, đất đai) sử dụng để
sản xuất ra một đơn vị hàng hóa đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu
tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai.
Xuất phát từ các khái niệm trên thì nội dung của mô hình H O được hiểu như sau: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng
mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố
sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Tức là, mỗi quốc gia, chẳng hạn

có nguồn nhân lực dồi dào, sẽ chuyển sản xuất và xuất khẩu loại
hàng hóa sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu các hàng hóa sử
dụng các yếu tố sản xuất mà trong nước khan hiếm. Kết quả là
thương mại quốc tế sẽ làm lợi nhuận tương đối cũng như tuyệt đối
của cùng một loại yếu tố sản xuất trở nên đồng đều nhau giữa các
nước.
- Lý thuyết thương mại quốc tế dựa trên quy mô
Một trong những lý do quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế
là tính hiệu quả của sản xuất tăng dần theo quy mô. Sản xuất được
coi là có hiệu quả khi được tổ chức trên quy mô lớn. Lúc đó một sự
gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn tới sự gia tăng đầu ra với

18


một tỷ lệ cao hơn. Đây là điểm khác biệt với giá định trong các mô
hình thương mại Ricardo và H - O, các lý thuyết này đều giả định
hiệu suất không đổi theo quy mô.
Trong lý thuyết thương mại quốc tế dựa trên quy mô thì việc
mức giá hàng hóa tương quan giống nhau không cản trở việc hai
nước buôn bán một cách có lợi với nhau. Thậm chí cả khi tỷ lệ trao
đổi quốc tế đúng bằng giá tương quan giữa các mặt hàng trước khi
có thương mại thì các nước vẫn có thể tiến hành chuyên môn hóa
sản xuất hoàn toàn nhưng với hướng chuyên môn hóa là không xác
định. Những điểm này chính là sự khác biệt giữa thương mại quốc
tế dựa trên quy mô và thương mại quốc tế dựa trên lợi thế so sánh.
- Lý thuyết về khoảng cách công nghệ
Năm 1961, Posner đã đưa ra lý thuyết về khoảng cách công
nghệ. Lý thuyết này cho rằng công nghệ luôn luôn thay đổi và cho
ra đời các phát minh và sáng chế mới, điều này tác động đến xuất

khẩu của quốc gia. Sau khi một phát minh ra đời, một sản phẩm mới
xuất hiện và trở thành mặt hàng mà quốc gia phát minh ra có lợi thế
tuyệt đối tạm thời. Ban đầu hãng phát minh sản phẩm giữ vị trí độc
quyền và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Sau một
thời gian nhu cầu từ phía nước ngoài xuất hiện và sản phẩm bắt đầu
được xuất khẩu: Dần dần công nghệ sẽ được chuyển giao cho các
nhà sản xuất nước ngoài theo nhiều con đường khác nhau. Khi đó,
sản phẩm được sản xuất ngay tại nước ngoài bằng công nghệ mới,
với những điều kiện và môi trường khác, có thể đem lại hiệu quả

19


cao hơn. Khi đó lợi thế so sánh về sản phẩm sản xuất này lại thuộc
về các quốc gia khác. Nhưng ở quốc gia phát minh ra một sản phẩm
mới khác có thể ra đời và quá trình mô tả ở trên lại lặp đi lặp lại.
Lưu ý mô hình này sản phẩm chỉ được xuất khẩu nếu như thời gian
cần thiết để sản phẩm được bắt chước ở nước ngoài phải dài hơn
thời gian để xuất hiện nhu cầu về sản phẩm từ thị trường nước
ngoài.
- Lý thuyêt về vòng đời sản phẩm
Lý thuyết này là sự tiếp nối, mở rộng lý thuyết về khoảng cách
công nghệ. Nhà kinh tế học Raymon Vemon đã khái quát vòng đời
sản phẩm thành bốn giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu: là giai đoạn sáng tạo và phát triển sản phẩm
ở trong nước phát minh ra sản phẩm.
+ Giai đoạn 2: Thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng,
tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất, hạ chi phí.
+ Giai đoạn 3: Sản phẩm thành thục, thị trường tiêu thụ càng
mở rộng, các nước phát triển khác bắt đầu nhập khẩu, tạo điều kiện

cho sản xuất với quy mô lớn và chi phí thấp, lợi thế so sánh chuyển
từ nước phát minh sang các nước phát triển khác và đến thời điểm
này, các nước đó bắt đầu xuất khẩu, nước có phát minh giảm xuất
khẩu.
+ Giai đoạn 4: Sản phẩm đã tiêu chuẩn hóa, công nghệ trở
thành phổ biến, các nước đang phát triển có thể "bắt chước" để sản
xuất với những lợi thế của mình.

20


Nhìn chung, các lý thuyết về thương mại quốc tế và xuất
khẩu rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên trong thực tế, tùy điều
kiện, hoàn cảnh và lợi thế cụ thể của mỗi quốc gia và bối cảnh quốc
tế trong từng thời kỳ phát triển khác nhau mà các lý thuyết đó được
vận dụng một cách khác nhau.
Các nước có trình độ phát triển thấp tham gia vào hoạt động
thương mại quốc tế thường chủ yếu dựa vào các lợi thế so sánh
"tĩnh" bao gồm các nguồn lực sẵn có như tài nguyên thiên nhiên,
nguồn lao động dồi dào, giá lao động thấp... Ngược lại, các nước
phát triển rất tích cực hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế
lại chủ yếu dựa vào các lợi thế "động" như tiến bộ khoa học công
nghệ hiện đại, đội ngũ lao động lành nghề và cả "ưu thế độc quyền"
của các nước lớn.
Tuy nhiên, việc phân chia lợi thế "động" và "tĩnh" chỉ mang
tính tương đối trên thực tế nếu vận dụng tốt các cơ hội của thị
trường quốc tế có thể biến các lợi thế "tĩnh" thành lợi thế "động".
Việt Nam sẵn có những lợi thế "tĩnh", chúng ta cần khai thác triệt để
và có hiệu quả nhất các lợi thế của mình trong từng điều kiện cụ thể
của thị trường quốc tế.

1.3. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế các nước
trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Vào những thập niên cuối của thế kỷ thứ XX, xu thế toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển ngày càng mạnh mẽ,

21


thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực,
nhiều học giả của mọi quốc gia trên thế giới.
Khái niệm hội nhập (Intergration) xuất phát từ phương Tây, ở
Việt Nam, hội nhập còn là một khái niệm khá mới mẻ, được sử
dụng từ giữa thập niên 1990 trở lại đây. Cũng như các thuật ngữ liên
kết và nhất thể hóa, thuật ngữ hội nhập có chung gốc tiếng anh là
integration. Các thuật ngữ này có sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là
cách dùng với hàm ý chính trị, lịch sử khác nhau. Thuật ngữ nhất
thể hóa được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các nước
xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV)
trước đây. Thuật ngữ liên kết được sử dụng khá nhiều khi nói về
hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu
dịch giữa các nước không phải là xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong
khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng kinh tế Châu
âu (EC), hiệp hội mậu dịch tự do Châu âu (EFTA) ... trong những
thập niên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thuật ngữ hội nhập xuất
hiện và được sử dụng phổ biến trong bối cảnh chúng ta xúc tiến
mạnh mẽ chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế,
tích cực triển khai để gia nhập vào các định chế, tổ chức kinh tế thế
giới và khu vực.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết

nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế
giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn
phương, song phương và đa phương.

22


Thực tế hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan với
các nước trong phát triển ngày nay. Do vậy, Đại hội IX của Đảng ta
đã nêu rõ: "Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các
nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng
cường sức ép cạnh tranh và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế". Trong bối cảnh đó, Đảng ta khẳng định cần phải: "Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường".
1.3.2. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế các nước
trong hội nhập kinh tế quốc tế
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi
thế so sánh của mình
Sức cạnh tranh của hàng hóa được nâng cao, tăng trưởng kinh
tế trở nên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ
một cách hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất
cả các nước, nhất là những nước đang phát triển, đẩy mạnh công
nghiệp hóa trên cơ sở ứng dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ.
- Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối với một nước nghèo và chậm phát triển thì việc chọn bước

đi công nghiệp hóa là con đường thích hợp nhất. Để thực hiện công

23


nghiệp hóa đất nước trong thời gian đòi hỏi phải có một số vốn rất
lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào
các nguồn chủ yếu như: viện trợ, vay nợ, đầu tư nước ngoài... Tất cả
các nguồn đó đều phải hoàn trả lại dưói các hình thức khác nhau,
còn phát triển xuất khẩu là sự bảo đảm, quyết định quy mô và tốc độ
tăng của nhập khẩu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển
Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Đồng thời sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo
và chế biến hàng xuất khẩu được áp dụng kỹ thuật tiên tiến, sản xuất
ra hàng hóa có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới, tạo
nguồn lực công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi
phí lao động xã hội. Bên cạnh đó tạo khả năng mở rộng thị trường,
tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào. Thông qua xuất
khẩu, hàng hóa của một nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên
thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi
hỏi phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích
ứng được với những thay đổi của thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi
các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị
sản xuất và kinh doanh, góp phần cho sản xuất phát triển kinh tế ổn
định.

24



- Xuất khẩu có tác động tích cực giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu
sẽ thu hút rất nhiều lao động vào làm việc, với mức sống ổn định.
Ngoài ra xuất khẩu còn tạo ra nguồn vồn để nhập khẩu vật phẩm
tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu
dùng của con người.
- Xuất khẩu là nền tảng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế
đối ngoại
Xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các
nước, nâng cao vai trò của nhà nước trên trường quốc tế. Nhờ có
những hàng xuất khẩu mà đã có nhiều nước đã, đang và sẽ thiết lập
quan hệ buôn bán và đầu tư với nhau.
- Xuất khẩu góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn
đề sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Việc các nguồn tài nguyên thiên nhiên tham gia vào sự phân
công lao động quốc tế, thông qua việc phát triển các ngành chế biến,
xuất khẩu đã góp phần nâng cao giá trị hàng hóa, giảm bớt những
thiên tai do điều kiện thiên nhiên ngày càng trở nên bất lợi cho hàng
hóa và nguyên liệu cho xuất khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu hàng
hóa trong hội nhập kinh tế quốc tế
- Yếu tố kinh tế

25



×