Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại nhà máy dệt quân đội lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.75 KB, 67 trang )

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU
TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Nguyên vật liệu và nhiệm vụ kế toán nguyên vật liệu
1.1.1. Đặc điểm, vai trò của nguyên vật liệu trong sản xuất
kinh doanh
Nguyên vật liệu là một trong những điều kiện thiết yếu để tiến
hành sản xuất là đối tượng lao động. Nguyên vật liệu là những đối
tượng lao động đã được thể hiện dưới dạng vật hoá để sản xuất sản
phẩm mới, cung cấp dịch vụ hoặc phục vụ công tác lưu chuyển hàng
hoá, hoạt động bán hàng, quản lý doanh nghiệp và các hoạt động
khác trong đơn vị hạch toán cơ sở. Ví dụ: sắt thép trong doanh
nghiệp cơ khí chế tạo, sợi trong doanh nghiệp dệt, da trong doanh
nghiệp giày, vải trong doanh nghiệp may mặc.
Khác với tư liệu lao động, nguyên vật liệu chỉ tham gia vào
một chu kỳ sản xuất nhất định và khi tham gia vào quá trình sản
xuất, dưới tác động của công cụ lao động, chúng bị tiêu hao toàn bộ
hoặc thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo ra hình thái vật chất
của sản phẩm.
Mặt khác, nguyên vật liệu cũng là một bộ phận của hàng tồn
kho nên nguyên vật liệu cũng mang những đặc điểm của hàng tồn
kho nói chung. Thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản lưu
động của một doanh nghiệp nên những sai sót, gian lận trong khoản


mục này thường gây ra những sai phạm trọng yếu về chi phí và kết
quả kinh doanh, ảnh hưởng trực tiếp đến giá vốn hàng bán. Cũng
chí vì là một bộ phận quan trọng của hàng tồn kho,do đó, hiệu quả
sử dụng nguyên vật liệu cũng quyết định đến hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Đây là yếu tố luôn được các nhà
quản lý quan tâm hàng đầu. Bên cạnh đó, nguyên vật liệu thường đa


dạng về chủng loại, lưu chuyển nguyên vật liệu xảy ra thường
xuyên nên khối lượng công tác kế toán NVL thường lớn hơn khối
lượng công việc kế toán của các phần hành khác, đặc biệt trong
doanh nghiệp sản xuất. Giá cả nguyên vật liệu cũng thường xuyên
biến động, việc giảm giá do đặc điểm vật lý, do lạc hậu công nghệ,
điều kiện môi trường kinh doanh thay đổi… dẫn đến sự chênh lệch
giữa giá trị thực với giá trị ghi sổ kế toán.
Những đặc điểm trên là những xuất phát điểm quan trọng cho
công tác tổ chức hạch toán NVL từ khâu tính giá,hạch toán tổng hợp
và hạch toán chi tiết.
Toàn bộ hao phí NVL cho sản xuất sản phẩm của doanh
nghiệp trong một kỳ kinh doanh gọi là chi phí NVL. Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật
liệu phụ, nhiên liệu… được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản
phẩm. Chi phí nguyên vật liệu là một bộ phận quan trọng trong giá
thành sản phẩm.
1.1.2. Yêu cầu quản lý nguyên vật liệu trong doanh nghiệp


Nguyên vật liệu là một yếu tố không thể thiếu được trong quá
trình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp. Giá trị NVL thường
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất, kinh doanh. Vì
vậy, quản lý tốt khâu thu mua, dự trữ và sử dụng NVL là điều kiện
cần thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, giảm
giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để tránh nhầm lẫn trong công tác quản lý và hạch toán NVL,
trước hết các doanh nghiệp phải xây dựng được hệ thống danh điểm
và đánh số danh điểm cho NVL. Hệ thống danh điểm và số danh
điểm của NVL phải rõ ràng, chính xác tương ứng với quy cách,
chủng loại của NVL.

Để quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và sử dụng vốn tiết
kiệm thì doanh nghiệp phải dự trữ NVL ở một mức độ hợp lý. Do
vậy, các doanh nghiệp phải xây dựng định mức tồn kho tối đa và tối
thiểu cho từng danh điểm NVL, tránh việc dự trữ quá nhiều hoặc
quá ít một NVL nào đó. Định mức tồn kho của NVL còn là cơ sở để
xây dựng kế hoạch thu mua NVL và kế hoạch tài chính của doanh
nghiệp.
Để đảm bảo tốt NVL dự trữ, giảm thiểu hư hao, mất mát, các
doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống kho tàng, bến bãi đủ tiêu
chuẩn kỹ thuật, bố trí nhân viên thủ kho có đủ phẩm chất đạo đức và
trình độ chuyên môn để quản lý NVL tồn kho và thực hiện các
nghiệp vụ nhập, xuất kho, tránh việc bố trí kiểm nghiệm chức năng
thủ kho với tiết niệu và kế toán vật tư.


1.1.3. Nhiệm vụ kế toán nguyên vật liệu
Để cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin cho công
tác quản lý NVL trong các doanh nghiệp, kế toán NVL phải thực
hiện được các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời
số lượng, chất lượng và giá thành thực tế NVL nhập kho.
- Tập hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời số lượng và
giá trị NVL xuất kho, kiểm tra tình hình chấp hành các định mức
tiêu hao NVL.
- Phân bổ hợp lý giá trị NVL sử dụng vào các đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất kinh doanh.
- Tính toán và phản ánh chính xác số lượng, giá trị NVL tồn
kho, phát hiện kịp thời NVL thiếu, thừa, ứ đọng, kém phẩm chất để
doanh nghiệp có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế mức tối đa thiệt
hại có thể xảy ra.

1.2. Phân loại và tính giá nguyên vật liệu
1.2.1. Phân loại nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu sử dụng trong các doanh nghiệp có nhiều loại,
nhiều thứ có vai trò và công dụng khác nhau trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Trong điều kiện đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải
phân loại NVLthì mới tổ chức tốt việc quản lý và hạch toán NVL.
Trong thực tế của công tác quản lý và hạch toán ở các doanh
nghiệp, đặc trưng dùng để phân loại NVL thông dụng nhất là vai


trò, tác dụng của NVL trong quá trình sản xuất kinh doanh. Theo
đặc trưng này, NVL ở các doanh nghiệp được phân ra các loại sau:
- Nguyên liệu và vật liệu chính (NVLC): Là nguyên vật liệu
mà sau quá trình gia công chế biến sẽ cấu thành hình thái vật chất
của sản phẩm. Danh từ Nguyên liệu ở đây dùng để chỉ đối tượng lao
động chưa qua chế biến công nghiệp.
- Vật liệu phụ (VLP): Là những vật liệu có tác dụng phụ trong
quá trình sản xuất kinh doanh, được sử dụng kết hợp với NVLC để
hoàn thiện và nâng cao tính năng, chất lượng của sản phẩm hoặc
được sử dụng để đảm bảo cho công cụ lao động hoạt động bình
thường, hoặc dùng để phục vụ cho nhu cầu kỹ thuật, nhu cầu quản
lý.
- Nhiên liệu là những thư dùng để tạo nhiệt năng như than đá,
than bùn, củi, xăng dầu… Nhiên liệu trong các doanh nghiệp thực
chất là một loại VLP, tuy nhiên nó được tách ra thành một loại riêng
vì việc sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu chiếm một tỷ trọng lớn và
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhiên liệu cũng
có yêu cầu và kỹ thuật quản lý hoàn toàn khác với các loại VLP
thông thường.
- Phụ tùng thay thế: Là loại vật tư được sử dụng cho hoạt động

sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ.
- Thiết bị và vật liệu xây dựng cơ bản (XDCB): Là các loại
thiết bị, vật liệu phục vụ cho hoạt động xây lắp, XDCB.


- Vật liệu khác: Là các vật liệu đặc chủng của từng doanh
nghiệp hoặc phế liệu thu hồi.
Hạch toán theo cách phân loại nói trên đáp ứng yêu cầu phản
ánh tổng quát về giá trị đối với mỗi loại NVL. Để đảm bảo thuận
tiện, tránh nhầm lẫn cho công tác quản lý và hạch toán về số lượng
và giá trị đối với từng loại NVL, trên cơ sở phân loại theo vai trò và
công dụng của NVL, các doanh nghiệp phải tiếp tục chi tiết và hình
thành nên "Sổ danh điểm vật tư". Sổ này xác định thống nhất tên
gọi, số hiệu, mã, quy cách, đơn vị tính, giá hạch toán của từng danh
điểm NVL.
1.2.2. Tính giá nguyên vật liệu
NVL có nhiều hình thái vật chất và hình thái giá trị khác nhau,
chúng có thể là những loại NVL nhỏ bé cấu thành nên sản phẩm hay
cũng có thể là những tấm bê tông to, nặng hoặc là loại thực phẩm để
chế tạo sản phẩm ăn uống. Do đó, khi đánh giá NVL không thể sử
dụng duy nhất một phương pháp cho tất cả các đối tượng NVL khác
nhau về đặc tính, hình thái, giá trị mà cần xây dựng các phương
pháp tính giá khác nhau phù hợp với tính đa dạng của chúng.
Đặc tính bảo quản NVL cho thấy có những loại NVL có thể
dự trữ lâu mà không làm giảm chất lượng yêu cầu, nhưng cũng có
những loại có tính chất như thực phẩm, mỹ phẩm… thì không thể để
tồn kho ứ đọng lâu được. Từ đó hình thành yêu cầu xây dựng các
phương pháp tính giá sao cho phù hợp với đặc tính bảo quản riêng
của từng loại NVL.



Mỗi doanh nghiệp có phương thức kiểm kê, quản lý tình hình
nhập, xuất, NVL khác nhau. Có doanh nghiệp tiến hành quản lý,
theo dõi một cách thường xuyên tình hình hiện có, biến động tăng
giảm NVL, nhưng cũng có doanh nghiệp chỉ tiến hành quản lý, theo
dõi giá trị NVL vào đầu kỳ và cuối kỳ trên cơ sở kiểm kê một lần
vào thời điểm cuối kỳ bằng cách cân đo đong đếm, ước lượng số
lượng và giá trị NVLtồn cuối kỳ. Do đó, cần phải hình thành các
phương pháp tính giá xuất NVL phù hợp với các phương thức tổ
chức quản lý NVL khác nhau ở các doanh nghiệp.
1.2.2.1. Tính giá nguyên vật liệu nhập kho
Nguyên vật liệu nhập kho được tính theo giá thực tế. Giá thực
tế của NVL là loại giá được hình thành trên cơ sở chứng từ hợp lệ
chứng minh các khoản chi phí hợp pháp của doanh nghiệp để tạo ra
NVL. Giá thực tế của NVL nhập kho được xác định tùy theo nguồn
nhập.
- Với NVL mua ngoài thì các yếu tố để hình thành nên giá
thực tế của NVL nhập kho là:
+ Giá hóa đơn kể cả thuế nhập khẩu (nếu có)
Đối với những doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp
khấu trừ thì VAT không được tính vào giá thực tế của NVL.
Đối với những doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực
tiếp thì thuế VAT được tính vào giá thực tế của NVL.


+ Chi phí thu mua: Là chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt
trong định mức… cũng được xác định trên cơ sở phương pháp tính
thuế VAT mà doanh nghiệp lựa chọn.
- Với NVL gia công chế biến nhập kho: Giá thực tế bao gồm
giá xuất và chi phí gia công chế biến, chi phí vận chuyển bốc dỡ…

- Đối với NVL nhận vốn góp liên doanh hoặc cổ phần thì giá
thực tế của NVL là giá được các bên tham gia góp vốn thừa nhận.
- Đối với NVL vay, mượn tạm thời của đơn vị khác: Giá thực
tế được tính theo giá trị hiện tại của số NVL đó.
-Đối với NVL thu hồi thừa quá trình sản xuất: Giá thực tế
được tính theo đánh giá thực tế hoặc theo giá bán trên thị trường.
1.2.2.2. Tính giá nguyên vật liệu xuất kho
Tính giá NVL xuất kho theo phương pháp kê khai thường
xuyên (KKTX):
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi,
phản ánh thường xuyên liên tục, có hệ thống tình hình nhập, xuất,
tồn kho vật tư trên sổ kế toán sau mỗi lần phát sinh nghiệp vụ nhập
hoặc xuất. Mối quan hệ nhập, xuất NVL theo phương pháp KKTX
thể hiện qua công thức sau:
+ - =
Theo phương pháp này, giá xuất NVL có thể được tính theo
các phương pháp sau:
• Phương pháp giá thực tế đích danh


Theo phương pháp này, NVL được xác định theo đơn chiếc
hay từng lô hàng được giữ nguyên từ lúc mau vào cho đến lúc xuất
kho. Khi xuất loại NVL nào sẽ tính theo giá thực tế của số hàng đó.
Đây là phương pháp lý tưởng nhất, tuân thủ theo nguyên tắc
phù hợp của hạch toán kế toán: chi phí thực tế phù hợp với doanh
thu thực tế. Giá trị của vật tư xuất dùng cho sản xuất phù hợp với
giá trị của thành phẩm mà nó tạo ra. Hơn nữa, giá trị NVL được
phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều
kiện khắt khe chỉ có thể áp dụng được cho NVL có thể phân biệt

chia tách ra thành từng loại, từng thứ riêng rẽ, đối với những doanh
nghiệp có nhiều loại vật tư thì không thể áp dụng được phương pháp
này.
• Phương pháp giá bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế NVL xuất kho được tính
theo giá đơn vị bình quân, có ba phương pháp giá đơn vị bình quân
có thể áp dụng:
- Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ:
Căn cứ vào giá thực tế của NVL tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ,
kế toán xác định được giá bình quân của một đơn vị NVL. Căn cứ
vào lượng NVL xuất trong kỳ và giá đơn vị bình quân để xác định
giá thực tế trong kỳ. Công thức tính được xác định như sau:
Giá đơn vị bình quân
cả kỳ dự trữ

=

Giá thực tế NVL đầu kỳ và nhập trong
kỳ


Số lượng NVL đầu kỳ và nhập trong kỳ
= x
Phương pháp này có ưu điểm là giảm nhẹ khối lượng kế toán
chi tiết, không phụ thuộc số lần nhập, xuất của từng danh điểm. Tuy
nhiên, phương pháp này lại dồn về công việc tính giá NVL xuất kho
vào cuối kỳ kế toán nên ảnh hưởng đến tiến độ công việc của các
khâu kế toán khác, đồng thời sử dụng phương pháp này cũng phải
tính theo từng danh điểm NVL.
- Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập:

Theo phương pháp này thì sau mỗi lần nhập, kế toán lại xác
định lại giá đơn vị bình quân, cần căn cứ vào giá đơn vị bình quân
và lượng NVL giữa hai lần nhập kế tiếp để kế toán xác định giá thực
tế NVL xuất kho. Công thức tính giá đơn vị bình quân như sau:
=
Phương pháp này có độ chính xác cao, cho phép NVL xuất
kho kịp thời. Tuy nhiên, khối lượng công việc tính toán nhiều và
phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm NVL. Phương pháp này
được sử dụng ở những doanh nghiệp có ít danh điểm NVL và số lần
nhập của mỗi loại không nhiều.
- Phương pháp giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước:
Theo phương pháp này, kế toán xác định giá đơn vị bình quân
dựa trên giá thực tế và NVL tồn kho cuối kỳ trước. Dựa vào giá đơn
vị bình quân nói trên và lượng NVL xuất kho trong kỳ kế toán xác
định giá thực tế NVL xuất kho theo từng danh điểm. Phương pháp


này cho phép giảm nhẹ khối lượng tính toán của kế toán nhưng độ
chính xác của công việc tính giá phụ thuộc vào tình hình biến động
giá cả NVL. Trường hợp giá cả thị trường NVL có sự biến động lớn
thì việc tính giá NVL xuất kho theo phương pháp này trở nên thiếu
chính xác và có trường hợp gây ra bất hợp lý (tồn kho âm).
Phương pháp đơn giá bình quân đơn giản, dễ làm, không
mang tính áp đặt chi phí cho từng đối tượng cụ thể như một số
phương pháp kế toán NVL khác. Hơn nữa, thực tế là các doanh
nghiệp thường không thể đo lường một cách chính xác về quá trình
luân chuyển của hàng nhập, xuất trong doanh nghiệp và do vậy, xác
định giá trị thực tế NVL xuất kho theo phương pháp bình quân.
• Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này, việc tính giá thực tế xuất kho NVL

được dựa trên cơ sở giả định là lô NVL nhập vào kho trước sẽ được
xuất dùng trước, vì vậy lượng NVL xuất kho thuộc lần nhập nào thì
tính theo giá thực tế của lần nhập đó, và giá thực tế của số NVL tồn
cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số NVL mua vào sau chúng.
Ưu điểm của phương pháp này là nó gần đúng với luồng nhập,
xuất trong thực tế. Trong trường hợp vật tư được quản lý theo đúng
hình thức nhập trước xuất trước, phương pháp này sẽ gần với
phương pháp giá thực tế đích danh và do đó sẽ phản ánh tương đối
chính xác giá trị vật tư xuất kho và tồn kho. Hơn nữa, giá trị tồn kho
của NVL được phản ánh gần sát với giá thị trường. Bởi vì theo


phương pháp này giá trị NVL sẽ bao gồm giá trị của vật tư được
mua ở những lần mua sau cùng.
Nhược điểm của phương pháp này là làm cho doanh thu hiện
tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. Doanh thu hiện
tại được tạo ra bởi giá trị của NVL đã được mua vào từ cách đó rất
lâu, điều này có thể dẫn tới việc thiếu chính xác của lãi gộp và
doanh thu thuần.
Phương pháp này phù hợp với doanh nghiệp có NVL luân
chuyển nhanh và với những doanh nghiệp có ít danh điểm NVL, số
lần nhập kho của mỗi danh điểm không nhiều.
• Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO):
Theo phương pháp này, việc tính giá NVL thực tế xuất kho
được dựa trên cơ sở giả định là lô NVL nào nhập nào kho sau sẽ
được xuất dùng trước, vì vậy, lượng NVL xuất kho thuộc lần nhập
nào thì tính theo giá thực tế của lần nhập đó, và các loại NVL còn
lại trong kho là những NVL được nhập vào thời điểm đầu kỳ hoặc
tồn cuối kỳ.
Phương pháp này có các ưu điểm sau:

- Phương pháp LIFO đặc biệt đúng trong điều kiện lạm phát.
Khi mức giá NVL tăng và số lượng hàng không đổi thì dẫn đến giá
vốn hàng bán tăng. Điều này đồng nghĩa với lãi ròng giảm đi và
cuối kỳ là thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp giảm xuống. Mặc
dù trong tương lai giá cả của NVL có giảm đi thì doanh nghiệp đã


giảm đi được một phần nào đó thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
(trong một hoặc nhiều kỳ).
- Phương pháp LIFO cho phép cải thiện dòng tiền luân
chuyển. Do số thuế phải nộp ít hơn và thời hạn nộp có thể được trì
hoãn nên doanh nghiệp có thể sử dụng khoản tiền dùng để nộp thuế
cho các mục tiêu đầu tư khác.
Nhưng bên cạnh đó, phương pháp LIFO có một số nhược
điểm:
- Phương pháp này dẫn đến thu nhập thuần của doanh nghiệp
giảm trong điều kiện lạm phát. Các nhà quản lý trong doanh nghiệp
dường như thích việc báo cáo lãi thuần tăng hơn là thấy việc thuế
phải nộp giảm đi. Các nhà quản lý trong doanh nghiệp sợ rằng các
nhà đầu tư sẽ hiểu lầm về khả năng sinh lãi, khả năng thu hồi vốn
đầu tư của họ, có thể dẫn đến giá cổ phiếu của công ty trên thị
trường bị giảm sút.
- Theo phương pháp LIFO giá trị NVL có thể bị đánh giá giảm
trên bảng cân đối kế toán.Việc đánh giá NVL để lập báo cáo kế toán
thông thường không được cập nhật bởi NVL vào kho trước vẫn còn
nằm lưu kho, làm cho vốn lưu động của doanh nghiệp giảm xuống
thấp hơn so với thực tế NVL.
• Phương pháp hệ số giá:
Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại NVL, giá cả thường
xuyên biến động, nghiệp vụ nhập, xuất NVL diễn ra thường xuyên

thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp, tốn nhiều công


sức và khó thực hiện được. Do đó, việc hạch toán hàng ngày nên sử
dụng giá hạch toán.
Giá hạch toán là giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử dụng giá
kế hoạch hoặc giá mua NVL ở một thời điểm nào đó hay giá NVL
bình quân tháng trước để làm giá hạch toán. Cuối tháng kế toán phải
tính chuyển giá kế toán của NVL xuất tồn kho theo giá thực tế. Việc
tính chuyển dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán.
Hệ số giá NVL =
Giá thực tế NVL xuất kho = Hệ số giá NVL x Giá hạch toán
NVL xuất kho
Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ kế toán chi
tiết và kế toán tổng hợp NVL trong công tác tính giá, nên công việc
tính giá được tiến hành nhanh chóng và không bị phụ thuộc vào số
lượng danh điểm NVL, số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.
Phương pháp này thích hợp với doanh nghiệp có nhiều chủng loại
NVL và đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.
Tính giá NVL xuất kho theo phương pháp kê khai thường
xuyên (KKĐK):
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp mà trong kỳ kế
toán chỉ tổ chức theo dõi các nghiệp vụ nhập vào, cuối kỳ tiến hành
kiểm kê tình hình tồn kho định giá rồi từ đó mới xác định giá trị
NVL đã xuất trong kỳ. Do xuất phát từ đặc điểm trên nếu mối quan
hệ giữa trị giá nhập, xuất, tồn NVL được thể hiện qua công thức
sau:


+ -=

Phương pháp KKĐK áp dụng các phương pháp tính giá xuất
như sau:
• Phương pháp giá thực tế đích danh:
Để xác định trị giá NVL xuất trong tháng, kế toán cần xác
định được NVL cuối tháng thuộc lần nhập nào để xác định giá NVL
tồn kho cuối tháng và từ đó tính được trị giá xuất của NVL. Khi
thực hiện phương pháp này, kế toán phải kết hợp với thủ kho theo
dõi riêng tình hình nhập, tồn của từng loại danh điểm NVL.
Về cơ bản, việc áp dụng phương pháp giá thực tế đích danh
trong điều kiện áp dụng KKĐK hay KKTX đều cho một kết quả vì
vẫn đảm bảo dòng luân chuyển tự nhiên của NVL, mà chỉ khác
nhau về thời điểm xác định được giá xuất kho.
• Phương pháp đơn giá bình quân:
Theo phương pháp bình quân này thì NVL còn lại cuối tháng
được tính theo đơn giá bình quân được xác định một lần vào cuối
tháng. Đơn giá bình quân ở đây chỉ có thể tính theo phương pháp
bình quân cuối kỳ trước hoặc phương pháp bình quân cuối kỳ dự trữ
trên cơ sở giá trị và số lượng NVL tồn đầu kỳ và các lần nhập trong
kỳ, mà không thể áp dụng phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập
vì không cần tính ra trị giá xuất bán tại bất kỳ một thời điểm nào
trong kỳ tính giá.
Phương pháp này cũng cho kết quả tương tự khi áp dụng các
phương pháp quản lý NVL khác nhau, vì số lượng tồn và đơn giá


nhập là không thay đổi khi áp dụng bất kỳ phương pháp quản lý
nào.
• Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO):
NVL còn lại cuối tháng được tính theo giá của lần nhập cuối
cùng của tháng và lần lượt tính ngược lên. Như vậy, số NVL cuối

kỳ sẽ mang giá trị của những NVL được nhập vào sau cùng. Do đó,
theo phương trình.
+ -=
Ta có thể thấy phương pháp nhập trước - xuất trước trong
KKĐK và trong KKTX có cách tính như nhau.Vì giá trị tồn qua cả
hai phương pháp đều là giá trị của số hàng nhập vào sau cùng, nên
giá trị xuất trong cả hai trường hợp là như nhau.
• Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO) :
NVL còn lại cuối tháng được tính theo thứ tự từ số NVL có
mặt tại kho trước nhất trở đi. Theo đó, NVL tồn kho cuối kỳ sẽ chỉ
mang giá trị của những NVL nhập vào từ trước. Việc xác định này
sẽ khác với cách tính trong trường hợp sử dụng KKTX, vì theo
phương pháp KKTX giá trị NVL tồn cuối kỳ có thể bao gồm cả giá
trị của số NVL nhập vào mới nhất mà chưa được xuất đi.
Như vậy, trừ phương pháp nhập sau, xuất trước thì hệ thống
các phương pháp xác định giá trị NVL dù trong trường hợp KKĐK


hay KKTX đều cho một kết quả như nhau, không làm thay đổi giá
trị xuất kho NVL.
1.3. Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu:
Nguyên vật liệu trong doanh nghiệp thường có nhiều chủng
loại khác nhau, mỗi NVL lại có một vai trò nhất định đối với quá
trình sản xuất kinh doanh thậm chí chỉ cần thiếu một loại NVL nào
đó cũng có thể dẫn đến gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Do
đó, kế toán nguyên vật liệu phải theo dõi chặt chẽ sự biến động của
từng chủng loại, danh điểm NVL. Để thực hiện được điều này, kế
toán phải tiến hành theo dõi chi tiết NVL theo các phương pháp phù
hợp với đặc điểm của NVL tại đơn vị. Trong thực tế công tác kế
toán hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp thường áp dụng một

trong ba phương pháp kế toán chi tiết NVL: phương pháp thẻ song
song, phương pháp đối chiếu luân chuyển, phương pháp sổ số dư.
1.3.1. Phương pháp thẻ song song
Theo phương pháp này thủ kho căn cứ vào các chứng từ nhập,
xuất NVL để ghi "thẻ kho", thẻ này được mở theo từng danh điểm
NVL, theo tưng kho. Kế toán NVL cũng dựa trên chứng từ nhập,
xuất NVL để ghi số lượng và tính giá, thành tiền NVL nhập, xuất
kho vào "Sổ kế toán chi tiết nguyên vật liệu", số này được mở tương
ứng với thẻ kho. Cuối kỳ, kế toán tiến hành đối chiếu số liệu trên
"Sổ kế toán chi tiết nguyên vật liệu" với "Thẻ kho" tương ứng do
thủ kho chuyển lên, đồng thời, từ "sổ chi tiết nguyên vật liệu", kế
toán lấy số liệu ghi vào "bảng tổng hợp nhập - xuất - tồn" nguyên


vật liệu theo từng danh điểm, từng loại NVL để đối chiếu với số liệu
kế toán tổng hợp nhập, xuất nguyên vật liệu.


Sơ đồ 1: Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương
pháp thẻ song song

Phiếu
nhập kho
Thẻ kho

Sổ chi tiết
NVL

Bảng tổng hợp
Nhập - xuất - tồn


Sổ kế toán
tổng hợp

Phiếu xuất
kho

Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối kỳ
Đối chiếu
Ưu, nhược điểm và điều kiện áp dụng của phương pháp này
như sau:
Ưu điểm: Phương pháp thẻ song song đơn giản trong khâu ghi
chép. Đồng thời, đối chiếu số liệu, phát hiện sai sót cung cấp thông
tin nhập, xuất, tồn kho của từng danh điểm NVL kịp thời chính xác.
Nhược điểm: Phương pháp này chỉ áp dụng hiệu quả nếu
doanh nghiệp có ít danh điểm nguyên vật liệu.


Điều kiện áp dụng: Phương pháp này thích hợp với doanh
nghiệp thực hiện kế toán trên máy, và các doanh nghiệp thực hiện
kế toán bằng tay trong điều kiện đơn vị có danh điểm nguyên vật
liệu.
1.3.2. Phương pháp đối chiếu luân chuyển
Theo phương pháp này, kế toán chỉ mở "Sổ đối chiếu luân
chuyển nguyên vật liệu" theo từng kho, cuối kỳ trên cơ sở phân loại
chứng từ nhập, xuất theo từng danh điểm nguyên vật liệu và theo
từng kho, kế toán lập "Bảng kê nhập vật liệu", "Bảng kê xuất vật
liệu" và dựa vào các bảng kê này để ghi vào "Sổ luân chuyển

nguyên vật liệu". Khi nhận được thẻ kho, kế toán tiến hành đối
chiếu tổng lượng nhập, xuất, của từng thẻ kho với "Sổ luân chuyển
nguyên vật liệu", đồng thời từ "Sổ đối chiếu luân chuyển nguyên vật
liệu" lập "Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn" kho nguyên vật liệu để đối
chiếu với số liệu kế toán tổng hợp. Phương pháp này có ưu, nhược
điểm và điều kiện áp dụng như sau:
Ưu điểm: Phương pháp giảm nhẹ khối lượng công việc ghi chép
của kế toán.
Nhược điểm: Dồn công việc ghi sổ, kiểm tra đối chiếu vào
cuối kỳ, nên trong trường hợp số lượng chứng từ nhập, xuất của
từng danh điểm NVL khá nhiều làm công việc kiểm tra, đối chiếu sẽ
gặp nhiều khó khăn và hơn nữa làm ảnh hưởng đến tiến độ thực
hiện các khâu kế toán khác.


Điều kiện áp dụng: Phương pháp này thích hợp với doanh
nghiệp có nhiều danh điểm nguyên vật liệu nhưng số lượng chứng
từ nhập, xuất NVL không nhiều.
Sơ đồ 1.2. Hạch toán chi tiết NVL theo phương pháp đối
chiếu
luân chuyển
Phiếu nhập
kho

Bảng kê nhập
vật liệu

Thẻ kho

Sổ đối chiếu

luân chuyển

Phiếu xuất
kho

Bảng kê xuất
vật liệu

Bảng

Sổ kế

tổng hợp

toán tổng

nhập xuất

hợp về vật

tồn kho

liệu

vật liệu

Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối kỳ
Đối chiếu

1.3.3. Phương pháp sổ số dư:
Theo phương pháp này, thủ kho ngoài việc ghi "Thẻ kho" như
các phương pháp kế toán chi tiết khác, thì cuối kỳ còn phải ghi
lượng NVL tồn kho từ "Thẻ kho" vào "Sổ số dư". Kế toán dựa vào
số lượng nhập, xuất mà kế toán nhận được (định kỳ 3,5,10 ngày một
lần) kèm theo "Phiếu giao nhận chứng từ" và giá kế toán để trị giá
thành tiền NVL nhập, xuất theo từng danh điểm, từ đó, ghi vào:


Bảng lũy kế nhập - xuất - tồn" (được mở theo từng kho). Cuối kỳ,
tiến hành tính tiền trên "Sổ số dư" do thủ kho chuyển đến và đối
chiếu tồn kho từng danh điểm NVL trên "Sổ số dư" với tồn kho trên
"Bảng lũy kế nhập - xuất - tồn". Từ "Bảng lũy kế nhập xuất tồn" kế
toán lập "Bảng tổng hợp nhập - xuất - tồn" nguyên vật liệu để đối
chiếu với sổ kế toán tổng hợp về vật liệu. Phương pháp này có ưu
nhược điểm, và điều kiện áp dụng như sau:
Ưu điểm: Tiết kiệm công sức kế toán, tránh được việc ghi
chép trùng lặp và dàn đều công việc ghi sổ trong kỳ, nên không bị
dồn việc vào cuối kỳ.
Nhược điểm: Khó khăn trong kiểm tra, đối chiếu và phát hiện
sai sót, đòi hỏi nhân viên kế toán và thủ kho phải có trình độ chuyên
môn cao.
Điều kiện áp dụng: Phương pháp này thích hợp với doanh nghiệp
có nhiều danh điểm NVL, có số lượng chứng từ nhập, xuất của mỗi
loại khá nhiều.
Sơ đồ 13. Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp
sổ số dư
Phiếu nhập
kho
Thẻ kho


Bảng kê nhập
vật liệu
Sổ số dư

Sổ đối chiếu
luân chuyển

Sổ kế
toán tổng
hợp về vật
liệu

Phiếu xuất
kho

Bảng kê xuất
vật liệu


Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối kỳ
Đối chiếu
1.4. Hạch toán tổng hợp NVL
1.4.1. Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu theo phương pháp
kê khai thường xuyên
• Nội dung phương pháp: Phương pháp kê khai thường xuyên
là phương pháp theo dõi thường xuyên liên tục sự biến động nhập
xuất vật tư trên sổ kế toán tổng hợp. Do đó, có thể tính được trị giá

vật tư nhập, xuất, tồn kho tại bất cứ thời điểm nào trên sổ tổng hợp.
Phương pháp này sử dụng các tài khoản hàng tồn kho, được phản
ánh theo đúng nội dung của các tài khoản tài sản. Phạm vi áp dụng
phương pháp này là các đơn vị sản xuất và các đơn vị kinh doanh
thương mại có giá trị vật tư lớn, các nghiệp vụ nhập xuất vật tư diễn
ra thường xuyên.
• Chứng từ và tài khoản sử dụng:
Chứng từ sử dụng để phản ánh tình hình luân chuyển NVL
theo phương pháp kê khai thường xuyên: Phiếu nhập kho, phiếu
xuất kho, biên bản kiểm nghiệm, thẻ kho, phiếu báo vật tư còn lại
cuối kỳ, biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hóa. Tùy theo đặc
điểm riêng của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp sẽ
có những quy định về chứng từ sử dụng phù hợp. Tuy nhiên, các


chứng từ yêu cầu vẫn phải đảm bảo đúng quy định của chế độ kế
toán hiện hành, và các quy định khác có liên quan.
Tài khoản sử dụng:
+ TK 152 - "Nguyên liệu, vật liệu": Tài khoản này dùng để ghi
chép số hiện có và tình hình tăng giảm NVL theo giá thực tế
Kết cấu của TK 152:
Bên Nợ: - Giá thực tế của NVL nhập kho do mua ngoài, tự
chế, thuê ngoài gia công, nhận góp vốn liên doanh được cấp hoặc
nhận từ các nguồn khác.
- Trị giá nguyên vật liệu thừa phát hiện khi kiểm kê
Bên Có: - Giá thực tế NVL xuất kho để sản xuất, để bán, thuê
ngoài gia công chế biến hoặc góp vốn liên doanh
- Trị giá NVL được giảm giá hoặc trả lại người bán
- Trị giá NVL thiếu hụt phát hiện khi kiểm kê.
Dư nợ: Giá thực tế NVL tồn kho.

TK 152 có thể mở thành các TK cấp 2 như sau:
1521 "Nguyên vật liệu chính"
1522 "Vật liệu phụ"
1523 "Nhiên liệu"
+ TK 151 - "Hàng mua đang đi đường". Tài khoản này dùng
để phản ánh giá trị các loại vật tư mà doanh nghiệp đã mua, đã chấp
nhận thanh toán với người bán nhưng chưa về nhập kho. TK 151 có
kết cấu như sau:
Bên Nợ: Giá trị vật tư đang đi đường


Bên Có: Giá trị vật tư đang đi đường đã về nhập kho, hoặc
chuyển giao cho các đối tượng sử dụng hay khách hàng.
Dư Nợ: Giá trị hàng đi đường chưa về nhập kho.
• Trình tự hạch toán tổng hợp tình hình luân chuyển NVL theo
phương pháp kê khai thường xuyên được thể hiện như sau:


×