Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

CHUYÊN đề THỰC TRẠNG CÔNG tác lập QUY HOẠCH – kế HOẠCH sử DỤNG đất ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.83 KB, 5 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
BỘ MÔN: QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
CHUYÊN ĐỀ: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP QUY HOẠCH –
KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
Họ và tên: Tạ Thị Xuân
Lớp

:

ĐH1QĐ1


I. Đặt vấn đề
Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng đói ngèo, kém phát triển và đang trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nhằm mục đích đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp, tiến tới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện đước điều đó chúng ta cần thúc đẩy phát triển song song về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường… Để làm được điều đó cần rất nhiều yếu tố,
song yếu tố quan trọng, thiết thực nhất đó là vấn đề: “ Quy hoạch – kế hoạch sử dụng
đất”.
II. Nội dung
Sau khi công bố luật đất đai năm 1987, công tác quy hoạch đất đai đượcvận hành
một cách chính thức dựa trên những nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… quy
hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được áp dụng trên toàn quốc.
Việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của nước ta tới năm 2010 đã được thực hiện
dựa trên 2 nghị quyết: Nghị quyết số 29/2004/QH11 và Nghị quyết số 57/2006/QH11.
Toàn bộ 63 tỉnh thành trên cả nước đã tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và
đều được chính phủ phê duyệt.
Tính tới năm 2010: đã có 531 đơn vị hành chính cấp huyện trên tổng số 681 đơn vị
hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (78%), số còn lại là đang triển khai
(14%) hoặc chưa triển khai (8%).


Đã có 7.576 đơn vị cấp xã trong tổng số 11.074 đơn vị của cả nước hoàn thành việc
lập quy hoạch, kế họach sử dụng đất (đạt 68%). Tuy nhiên, mới chỉ có 7 tỉnh được xem là
đã cơ bản hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 ở cả 3 cấp
tỉnh - huyện – xã.
Quá trình triển khai công tác quy hoạch sử dụng đất các cấp đã hình thành được một
hệ thống quy trình và định mức trong hoạt động của lĩnh vực này, đảm bảo tiến hành một
cách thống nhất, liên thông với chi phí hợp lý, phù hợp với những điều kiện về nhân lực
và cơ sở hạ tầng hiện có.
Quy hoạch sử dụng đất đã tích cực hỗ trợ cho phát triển kinh tế được cân đối nhất là
trong quá trình phát triển các khu công nghiệp, khu dân cư mới, khu đô thị mới trên phạm
vi cả nước; có tác dụng tích cực trong việc điều tiết thịtrường, góp phần ổn định giá đất,
tạo cơ sở thực tế cho các cuộc giao dịch về đất đai và tổ chức các cuộc đấu giá quyền sử
dụng đất.


Chỉ tiêu đất nông nghiệp đến năm 2010 mà Quốc Hội đã duyệt là 26,22 triệu ha, ước
thực hiện là 25,8 triệu ha (đạt 98%), nhưng đất sản xuất nông nghiệp vượt 0,36 triệu ha
và đất trồng lúa ước đạt 3,882 triệu ha, cao hơn 21.000 ha so với mức Quốc Hội đã phê
duyệt. Đất phi nông nghiệp Quốc Hội duyệt cho đến năm 2010 là 4,02 triệu ha, ước thực
hiện được 3,64 triệu ha (đạt 90,06%), trong đó đất khu công nghiệp đạt 96,2%, đất giao
thông đạt 71,7%, đất thủy lợi đạt 66,7%, đất cơ sở y tế đạt 50,0%, đất cơ sở giáo dục đào
tạo đạt 93,3% chỉ tiêu kế hoạch mà Quốc Hội đã phê duyệt…
Quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch cũng là dịp sinh hoạt dân chủ ởcơ sở, nhờ đó
mà công dân tham gia cụ thể vào sự nghiệp chung có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích thiết
thân của mình, trật tự xã hội được đảm bảo, củng cốlòng tin của nhân dân vào chính
quyền, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh.
Bên cạnh những mặt tích cực còn tồn đọng những mặt tiêu cực như:
- Nhận thức chưa đồng đều, độ đồng thuận chưa cao, còn có ý kiến cho 77 rằng
không có khái niệm về quy hoạch sử dụng đất mà chỉ có khái niệm về quy hoạch kiến
trúc, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn.v.v... do đó, sự phối

hợp giữa các cấp, các ngành, các đơn vị còn bị hạn chế, thiếu đồng bộ và có trường hợp
ảnh hưởng xấu đến chất lượng quy hoạch, chưa thực chất, còn thiên về hình thức và chạy
theo các thủ tục hành chính, tiến hành thống kê, phân bố về số lượng mà thiếu những tính
toán về hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường... nên tính khả thi của các phương án quy
hoạch không cao; các giải pháp tổ chức thực hiện thiếu đồng bộ, không kịp thời; công tác
kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện quy hoạch chưa được coi trọng.
- Quy hoạch sử dụng đất chưa thực sự được coi là cơ sở pháp lý quan trọng trong
việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất... Nhiều địa
phương do buông lỏng quản lý đã để tự phát chuyển mục đích sửdụng đất tạo ra tình hình
rối loạn trong sử dụng đất và tác động xấu đến môi trường. Một số nơi nôn nóng trong
phát triển công nghiệp, muốn tranh thủ các nhà đầu tư nên đã cho phép thu hồi, san lấp
mặt bằng một lượng lớn đất nông nghiệp để lập khu công nghiệp, sau đó do thiếu vốn nên
các dự án thực hiện cầm chừng, đất đai lại bị bỏ hoang trở thành “dự án treo”, người bị
thu hồi đất mất việc làm dẫn đến lãng phí nguồn lao động và tài nguyên đất đai... Việc
chấp hành các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các địa phương chưa nghiêm,
vẫn còn tình trạng giao đất, cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất không đúng với quy
hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt. Quy hoạch sử dụng đất chưa trởthành “Bản hiến
pháp của đời sống”, tính phổ cập chưa cao, có khi lại bị lợi dụng việc điều chỉnh quy
hoạch để làm lợi cho cá nhân hay một nhóm người, quy trình điều chỉnh quy hoạch chưa
thật hợp lý để đảm bảo tính kịp thời, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.


- Việc chuyển đổi số lượng lớn đất trồng lúa sang mục đích phi nông nghiệp trong
một thời gian ngắn, nhất là tại các vùng trồng lúa có điều kiện canh tác tốt, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật hoàn thiện mà thiếu cân nhắc đến hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội - môi
trường lâu dài đã tác động tiêu cực sản xuất và đời sống của một bộ phân nông dân và đe
doạ mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
- Mặc dù việc “dồn điền đổi thửa” đã thực hiện thành công ở nhiều địa phương
nhưng chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch chỉnh trang đồng ruộng nên đất sản xuất vẫn
còn bị phân bố manh mún trên 70 triệu thửa đất gây trở ngại lớn cho quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Diện tích rừng tuy có tăng nhưng rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị tàn phá, suy giảm
cả về chất lượng và số lượng; việc quản lý rừng còn nhiều bất cập, tác động của sản xuất
lâm nghiệp đối với quá trình xoá đói giảm nghèo còn nhiều hạn chế, đa số người dân ở
miền núi chưa thể sống ổn định với nghề rừng, do đó công tác trồng rừng, bảo vệ rừng và
phát triển rừng còn rất nhiều khó khăn.
- Đất giao thông còn thiếu so với nhu cầu phát triển, mật độ đường bộ đạt mức trung
bình trong khu vực nhưng mật độ quốc lộ còn ở mức rất thấp (0,053km/km2) nếu so sánh
với Trung Quốc (0,2 km/km2) hay Thái Lan (0,11 km/km2). Việc bố trí các khu công
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, khu dân cư 78bám sát các trục đường chính đã ảnh
hưởng đến an toàn giao thông, gây lãng phí trong đầu tư và hạn chế khả năng nâng cấp,
mở rộng.
- Diện tích cho phát triển đô thị tăng nhanh, cơ cấu sử dụng đất chưa hợp lý: đất ở
chiếm tỷ lệ cao và chủ yếu là nhà ở theo hộ gia đình độc lập (Hà Nội 80%, thành phố Hồ
Chí Minh 72%), đất giao thông đô thị còn thiếu, chỉ khoảng 4 - 5 km/km2 (Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà Nẵng...), tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa đến 13%
trong khi yêu cầu trung bình là 20 - 25%, đất giao thông tĩnh chỉ đạt chưa đầy 1% trong
khi yêu cầu phải là 3 - 3,5%, hệ số sửdụng đất thấp, chủ yếu là đường 1 tầng.
- Diện tích đất công nghiệp tuy tăng nhanh (bình quân tăng 7.000 ha/năm) nhưng
việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp còn dàn trải, thiếu sựthống nhất trên
quy mô liên vùng, liên tỉnh; chưa xem xét đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu
dân cư, hạ tầng kinh tế - xã hội. Nhiều khu, cụm công nghiệp không phù hợp với điều
kiện và khả năng thực tế dẫn đến tình trạng triển khai chậm tiến độ, tỷ lệ lấp đầy thấp, để
hoang hóa trong nhiều năm.


- Các lại đất công trình hạ tầng xã hội như văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao
tuy luôn được bố trí tăng cường về diện tích đất, nhưng so với nhu cầu vẫn chưa đáp ứng
được đầy đủ.
- Phần lớn đất bãi thải và xử lý chất thải là lộ thiên hoặc đổ tự nhiên tại các bãi rác

tạm, hầu hết các khu vực nông thôn chưa có quy hoạch khu vực thu gom rác thải; chưa có
các khu bãi chôn lấp và xử lý chất thải nguy hại một cách triệt để và lâu dài...



×