Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Bàn về việc xác định chủ thể vi phạm hành chính trên góc độ lý luận với các quy định của pháp luật hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.93 KB, 30 trang )

BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do các chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ.
Vi phạm pháp luật nói chung và các vi phạm pháp luật cụ thể nói riêng đã
được rất nhiều sách báo pháp lý nghiên cứu và đề cập đến. Đối với vấn đề xác định
chủ thể vi phạm thì trong một số ngành luật việc xác định đã được nghiên cứu,
phân tích khá chi tiết và rõ ràng. Tuy nhiên riêng việc xác định chủ thể trong vi
phạm pháp luật hành chính nhất là trường hợp chủ thể là cá nhân vẫn có những nội
dung chưa được sát với những quy định của pháp luật hiện hành vì vậy thực tế còn
có những tranh luận về nội dung này.
Để góp phần làm sáng rõ hơn về nội dung này tôi xin nêu quan điểm của
mình về vấn đề xác định chủ thể của vi phạm hành chính giữa lý luận thực tế với
những quy định hiện hành của pháp luật hành chính.
Trong góc độ lý luận chung chủ thể của vi phạm pháp luật được các nhà
nghiên cứu và sách báo pháp lý thống nhất hiểu như sau:
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, chủ thể của vi phạm pháp luật là những cá nhân, tổ chức đã thực
hiện hành vi vi phạm đến các quy định của pháp luật nói chung nhưng không phải
cá nhân, tổ chức nào khi thực hiện hành vi vi phạm đến các quy định của pháp luật
đều luôn bị coi là chủ thể của vi phạm pháp luật mà bên cạnh đó để là chủ thể vi
phạm cần phải có thêm một yếu tố rất quan trọng nữa đó là cá nhân, tổ chức đó
phải có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Vậy năng lực trách nhiệm pháp lý là gì? Nó được hiểu và xác định như thế
nào?
Xét về mặt lý luận chung, thì năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể được
hiểu là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý của các chủ thể do nhà nước quy
định, tức là khả năng chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chịu trách nhiệm
Page 1




BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
trước bên kia (nhà nước, tổ chức, cá nhân) về hành vi của mình cũng như những
hậu quả do hành vi của mình thực hiện đã gây ra.
Trong nội dung bài viết này tôi chỉ đặt vấn đề xém xét để xác định năng lực
trách nhiệm pháp lý của cá nhân.
Theo đó khi một cá nhân được coi là chủ thể của vi phạm pháp luật khi họ
đáp ứng được đầy đủ hai điều kiện, đó là:
Một. người đó có năng lực trách nhiệm pháp lý (cá nhân đó có khả năng
nhận thức và khả năng điều khiển hành vi). Tức là người đó phải có khả năng, điều
kiện để lựa chọn cách xử sự và được xử sự theo đúng cách mà họ đã lựa chọn. Hay
nói cách khác là họ có lý chí và tự do ý chí.
Hai. Người đó phải đạt tới một độ tuổi nhất định do pháp luật quy định. Ở
mỗi ngành luật khác nhau pháp luật quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý
khác nhau tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của các quan hệ xã hội mà
ngành luật đó bảo vệ.
Trên cơ sở cách hiểu đó trong các sách báo pháp lý đều xác định chủ thể
trong các vi phạm pháp luật cụ thể đều dựa trên hai điều kiện chính như đã nêu
trên.
Vi dụ: trong giáo trình Luật hình sự tập 1 của trường Đại học Luật Hà nội do
nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành năm 2008 cũng xác định: “chủ thể của
tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi do luật định và đã
thực hiện hành vi vi phạm tội cụ thể”.
Riêng đối với việc xác định cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính nhìn
chung sách báo pháp lý hiện nay cũng xác định dựa trên hai yếu tố trên. Tuy nhiên,
khi xác định độ tuổi của chủ thể vi phạm này hầu hết đều xác định độ tuổi để trở
thành chủ thể vi phạm theo khoản 1, điều 6 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002 là: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính

về vi phạm hành chính do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính
về mọi hành vi vi phạm hành chính do mình gây ra”.
Page 2


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Theo tôi thấy, việc xác định độ tuổi như vậy là chưa đầy đủ và chưa phù hợp
với các quy định của pháp luật hành chính có liên quan. Vì trong thực tế quy định
hiện nay tại khoản 2, điều 23 và khoản 2, điều 24 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính có quy định những đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường và
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng thì những đối tượng này có độ tuổi thấp hơn
đó là từ 12 tuổi.
Điều 23 quy định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại Khoản
2 nêu rõ đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự;
b) Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo
nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng;
...
Điều 24 quy định biện pháp đ ưa vào trường giáo dưỡng, tại khoản 2 có
nêu đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật
Hình sự;
b) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật
Hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định;
...

Xét về mặt thực tế những đối tượng này cũng đã thực hiện những hành vi
xâm phạm đến các quy định của pháp luật hành chính, và pháp luật hành chính
cũng đã có những quy định các biện pháp để xử lý đối với những hành vi này.
Ngoài ra, các đối tượng này cũng là những cá nhân có sự phát triển bình
thường về thể chất, và trí tuệ có nghĩa là họ hoàn toàn có khả năng nhận thức và
kiểm soát những hành vi của mình. Do đó, pháp luật hành chính khi xác định nội
Page 3


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
dung, tầm quan trọng của các quan hệ xã hội cần được bảo vệ nên khi quy định về
điều kiện độ tuổi của chủ thể vi phạm hành chính cũng đã xác định rõ cá nhân từ
đủ 12 tuổi trở lên là có thể được xác định là chủ thể của vi phạm hành chính, quy
định biện pháp chế tài đối với những cá nhân có hành vi vi phạm đó.
Tất nhiên trường hợp người từ đủ 12 tuổi trở lên chỉ được coi là chủ thể của
vi phạm hành chính khi họ thực hiện hành vi vi phạm hành chính và việc vi phạm
của họ thoả mãn các điều kiện do pháp luật hành chính quy định như: thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật
hình sự; nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật
tự công cộng; thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự v.v… Điều này cũng giống
với tinh thần nội dung quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 6 đó là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính khi họ thực hiện một hành vi vi phạm
và điều kiện là hành vi đó phải được thực hiện với lỗi cố ý.
Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác này cũng do những chủ
thể có thẩm quyền tiến hành đối với những chủ thể vi phạm hành chính theo những
trình tự, thủ tục do pháp luật hành chính quy định, kết quả cuối cùng của hoạt động
truy cứu trách nhiệm hành chính cũng được thể hiện dưới dạng văn bản áp dụng
quy phạm pháp luật (quyết định) và khi văn bản áp dụng quy phạm pháp luật được

ban hành nó đều được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Vì vậy, chủ thể vi phạm hành chính về mặt lý luận khi xác định điều kiện về
độ tuổi chúng ta cần phải xác định là cá nhân là chủ thể vi phạm hành chính là từ
đủ 12 tuổi trở lên chứ không phải từ đủ 14 tuổi trở lên như các sách báo pháp lý đã
xác định nữa. Có như vậy mới đầy đủ và chính xác hơn, từ đó mới có thể có căn cứ
để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với chủ thể vi phạm cũng như việc xác
định các chế định pháp lý khác có liên quan như: vấn đề tái phạm, việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, cũng như căn cứ để xử lý hình sự ...

Page 4


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY

- Năng lực trách nhiệm pháp lý trong góc độ lý luận chung.
Năng lực trách nhiệm pháp lý thường được hiểu đó là khả năng của cá nhân,
tổ chức Để xác định năng lực trách nhiệm pháp lý
- Quan điểm lý luận về năng lực trách nhiệm hành chính trong một số
sách báo pháp lý hiện nay.
(Trích giáo trình LHC T45) - Chủ thể của vi phạm hành chính.
Chủ thể của vi phạm hành chính là những cá nhân, cơ quan, tổ chức có
năng lực trách nhiệm hành chính và thực hiện hành vi vi phạm hành chính.
Như vậy chủ thể của vi phạm hành chính có 2 loại: chủ thể là cá nhân (con
người) và chủ thể là tổ chức, cơ quan gọi chung là tổ chức.

Page 5


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN

GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
+ Cá nhân trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có đủ 2 điều kiện
sau:
Một là: Cá nhân đó có năng lực trách nhiệm hành chính.
Đây là cơ sở chủ yếu bên trong để xác định lỗi của chủ thể vi phạm. Năng
lực trách nhiệm hành chính thể hiện ở khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của người đó khi họ thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Tức là cá nhân khi thực
hiện hành vi vi phạm đó thì họ có khả năng hiểu được hành vi đó hay không và họ
có đủ khả năng để điều khiển những hành vi của mình hay không. Để xác định khả
năng nhận thức và khả năng điều kiện hành vi phải dựa vào các tiêu chuẩn về tâm
lý, về y học.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân là chủ thể của vi phạm
hành chính phải là những người không mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Như vậy, người
không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì không được coi là
chủ thể của vi phạm hành chính. Ví dụ: Những người mắc bệnh tâm thần, đần độn,
si ngốc … hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi thì không được coi là chủ thể của vi phạm hành chính.
Trường hợp người sử dụng bia, rượu hoặc các chất kích thích khác dẫn đến
làm mất khả năng nhận thức điều khiển hành vi của mình thực hiện hành vi vi
phạm hành chính thì vẫn phải chịu trách nhiệm hành chính. Vì trong trường hợp đó
họ có lỗi trong việc để bản thân mình rơi vào tình trạng đó, họ hoàn toàn có thể
nhận thức được sự nguy hiểm sẽ xảy ra cho xã hội khi họ ở trong tình trạng đó.
Hai là: cá nhân đạt độ tuổi theo luật quy định.
Chỉ khi con người phát triển đến độ nhất định mới hoàn thiện về thể chất và
trí tuệ, khi ấy họ mới phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành vi của mình.
Luật Hành chính không quy định cụ thể chủ thể đạt bao nhiêu tuổi thì là chủ
thể của vi phạm hành chính mà nêu một cách gián tiếp tại khoản 2 các Điều 23, 24
và Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Page 6



BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Theo khoản 2 Điều 23, có quy định Đối tượng bị áp dụng biện pháp Giáo
dục tại xã phường như sau: “Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành
vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự;
Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh
bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng; …” và khoản 2 Điều 24 quy định Đối tượng bị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng như sau: “Người từ đủ 12 tuổi đến
dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự; Người từ đủ 12 tuổi đến dưới
16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội
phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này những
không có nơi cư trú nhất định; …” và Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hành chính như sau: “Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16
tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”.
Như vậy, qua các điều khoản nêu trên chúng ta có thể hiểu rằng các cá nhân
chỉ từ đủ 12 tuổi trở lên thì mới bắt đầu xem xét là chủ thể của vi phạm hành chính
khi họ thực hiện hành vi xâm phạm quy tắc quản lý hành chính. Theo quy định đó
thì trường hợp một cá nhân từ đủ 12 tuổi sẽ được coi là chủ thể của vi phạm hành
chính khi họ thực hiện hành vi vi phạm hành chính và việc vi phạm của họ thoả
mãn các điều kiện do Luật Hành chính quy định như: .thực hiện hành vi có dấu
hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự; nhiều lần
có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng; thực
hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại Bộ luật hình sự …
Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi sẽ chỉ được coi là chủ thể của vi phạm

hành chính khi họ thực hiện hành vi vi phạm với lỗi cố ý. Do vậy những trường
hợp họ thực hiện với lỗi vô ý thì sẽ không bị xử phạt hành chính, nói cách khác là
họ sẽ không phải là chủ thể của vi phạm hành chính.
Page 7


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Những người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ luôn được xác định là chủ thể của vi
phạm hành chính khi họ thực hiện một hành vi vi phạm hành chính không kể họ
thực hiện hành vi đó với lỗi cố ý hay vô ý.

- Những bất cập trong lý luận về năng lực trách nhiệm hành chính.
- Quan điểm kiến nghị cá nhân về việc xác định năng lực trách nhiệm
hành chính giữa lý luận với thực tiễn quy định của pháp luật.
d. Chủ thể vi phạm pháp luật (trích sách LLNNPL)
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu chủ
thể hành vi trái pháp luật là cá nhân phải xác định người đó có năng lực trách
nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay không, muốn vậy phải xem họ đã đủ độ
tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó
hay chưa? Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi trong trường hợp đó như thế
nào? Còn đối với chủ thể là tổ chức phải chú ý tới tư cách pháp nhân hoặc địa vị
pháp lý của tổ chức đó.
Ở mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng ta sẽ xem
xét tỷ mỷ trong từng ngành khoa học pháp lý cụ thể.
/>3. Vi phạm pháp luật phải là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý, vì hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng của chủ thể không có năng lực trách
nhiệm pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể là khả năng mà pháp luật quy định cho

chủ thể phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Theo quy định của pháp luật, chủ thể là cá nhân sẽ có năng lực này khi đạt đến một
độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển bình thường. Đó là độ tuổi mà sự phát triển
về trí lực và thể lực đã cho phép chủ thể nhận thức được hành vi của mình và hậu
quả của hành vi đó gây ra cho xã hội nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình. Chủ thể là tổ chức sẽ có khả năng này khi được thành lập hoặc được công
nhận.
CHƯƠNG VIII. TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH
I - Khái niệm và mục đích của trách nhiệm hành chính
1. Khái niệm trách nhiệm hành chính
Page 8


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Trách nhiệm hành chính là một loại trách nhiệm pháp lý. Nó có những nét chung,
đồng thời cũng có những điểm khác biệt với các loại trách nhiệm pháp lý khác như
trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm kỷ luật.
Về khái niệm trách nhiệm hành chính, trong giới khoa học pháp lý có những quan
điểm khác nhau. Quan điểm truyền thống hiểu trách nhiệm hành chính là sự đánh
giá phủ nhận của nhà nước và xã hội đối với những vi phạm pháp luật chưa đến
mức là tội phạm xâm hại đến trật tự quản lý. Hậu quả là người vi phạm pháp luật
phải chịu các biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền thực hiện. Đó là trách nhiệm hành chính "tiêu cực" hay trách nhiệm
đối với hành vi đã xảy ra trong quá khứ.
Một quan điểm khác cho rằng, trách nhiệm hành chính là quan hệ có trách nhiệm
của chủ thể pháp luật đối với các nghĩa vụ, bổn phận được giao phó trong lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước. Trách nhiệm hành chính theo quan điểm này được
gọi là trách nhiệm hành chính theo nghĩa tích cực.
Những năm gần đây xuất hiện quan điểm xem xét trách nhiệm hành chính trên một

bình diện xã hội rộng lớn bao gồm cả hai loại trách nhiệm tiêu cực và tích cực nói
trên. Đáng chú ý là có ý kiến theo quan điểm thứ ba này xem xét trách nhiệm pháp
lý nói chung và trách nhiệm hành chính nói riêng dưới dạng một quan hệ pháp luật.
Trong quản lý hành chính nhà nước, quan hệ pháp luật ấy được thể hiện ở hai khía
cạnh:
1. Nhà nước ấn định cho các chủ thể những quyền và nghĩa vụ nhất định và các
chủ thể trách nhiệm ý thức được nghĩa vụ, bổn phận của mình cũng như sự cần
thiết phải thực hiện chúng. Đó là quan hệ pháp luật hiện tại;
2. Sự áp dụng bởi Nhà nước thông qua các cơ quan, người có thẩm quyền chế tài
pháp lý đối với người có lỗi trong trường hợp người đó vi phạm pháp luật hay
thiếu trách nhiệm tích cực. Đây là quan hệ pháp luật - trách nhiệm đối với hành vi
đã xảy ra trong quá khứ.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ xem trách nhiệm hành chính theo quan điểm truyền
thống hay trách nhiệm hành chính theo nghĩa tiêu cực. Trách nhiệm hành chính
theo nghĩa tiêu cực có một số đặc điểm sau:
a) Cơ sở trách nhiệm hành chính mang đặc thù được quy định trong Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính (ban hành ngày 02-7-2002). Các vi phạm pháp luật trong xã
hội rất đa dạng về khách thể bị xâm hại, về mức độ nguy hiểm v.v... từ đó dẫn đến
những hậu quả pháp lý khác nhau. Trách nhiệm hình sự phát sinh do có hành vi vi
phạm pháp luật được Bộ luật Hình sự coi là tội phạm, còn trách nhiệm dân sự xuất
hiện khi có hành vi gây thiệt hại về mặt tài sản cho Nhà nước và công dân. Trách
nhiệm kỷ luật được ấn định đối với người có hành vi vi phạm nội quy, điều lệ kỷ
luật. Trách nhiệm hành chính được áp dụng đối với các hành vi được pháp luật xử
phạt hành chính coi là vi phạm hành chính.
Page 9


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
b) Trách nhiệm hành chính cũng như tất cả các biện pháp cưỡng chế hành chính

được áp dụng ngoài trình tự xét xử của toà án. Việc áp dụng các chế tài xử phạt
hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực hiện. Ví dụ:
Uỷ ban nhân dân xử phạt các vi phạm quy tắc xây dựng, sử dụng đất. Sự áp dụng
các chế tài hình sự và dân sự thì nhất thiết phải theo trình tự xét xử của toà án. Mặc
dù, toà án nhân dân cũng có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với các hành vi
gây rối trước phiên toà, nhưng trong trường hợp ấy toà án đóng vai trò là cơ quan
xử phạt hành chính thông thường và không theo trình tự xét xử.
c) Trách nhiệm hành chính được thể hiện ở chỗ: cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền ấn định đối với người vi phạm pháp luật các biện pháp xử phạt hành
chính tương ứng với hành vi vi phạm mà người đó đã gây ra. Phạt hành chính khác
với phạt hình sự, kỷ luật và trách nhiệm dân sự ở mục đích cụ thể, đặc điểm và
mức độ tác động.
d) Khái niệm trách nhiệm hành chính hẹp hơn khái niệm cưỡng chế hành chính.
Không phải vì bất kỳ biện pháp cưỡng chế hành chính nào cũng là trách nhiệm
hành chính. Sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính trong các trường hợp
khẩn cấp như thiên tai địch hoạ, dịch bệnh không phải là trách nhiệm hành chính.
Trách nhiệm hành chính cũng khác biệt với chế tài hành chính. Chế tài hành chính
là một bộ phận của quy phạm pháp luật hành chính trong đó dự liệu các biện pháp
xử lý đối với người có hành vi vi phạm quy định của quy phạm ấy hoặc vi phạm
những quy định của một số ngành luật khác. Còn trách nhiệm hành chính là sự áp
dụng chế tài đó.
Tóm lại, trách nhiệm hành chính là một loại trách nhiệm pháp lý, là quan hệ pháp
luật đặc thù xuất hiện trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, trong đó thể
hiện sự đánh giá phủ nhận về pháp lý và đạo đức đối với hành vi vi phạm hành
chính và người vi phạm (cá nhân hay tổ chức) phải chịu những hậu quả bất lợi,
những sự tước đoạt về vật chất hay tinh thần tương ứng với vi phạm đã gây ra.
Tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình áp dụng trách nhiệm
hành chính tạo thành chế định pháp luật trách nhiệm hành chính. Những quy phạm
pháp luật về xử phạt hành chính nằm trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như:
Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các Nghị định của Chính phủ. Đóng

vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật về xử lý hành chính là Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày (2-7-2002). Đây là văn
bản quy phạm pháp luật tổng hợp có tính cơ sở trong lĩnh vực xử phạt vi phạm
hành chính.
2. Mục đích của trách nhiệm hành chính
Khi xem xét bản chất của trách nhiệm hành chính, cần làm sáng tỏ mục đích của
nó. Xuất phát từ vấn đề có tính cương lĩnh về sự loại trừ dần những biểu hiện
chống đối xã hội, có thể nói, mục đích chung của trách nhiệm hành chính là loại
Page 10


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
trừ những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ
trật tự pháp luật. C.Mác đã chỉ rõ: Một hình phạt bất kỳ, không gì khác là phương
tiện tự vệ của xã hội chống lại những vi phạm đối với điều kiện tồn tại của chúng,
bất luận đó là như thế nào. ở Nhà nước ta, trách nhiệm hành chính là phương tiện
bảo vệ những quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa trước hành vi chống đối pháp luật,
ngăn chặn những việc phạm pháp, gây trở ngại cho trật tự xã hội, trật tự quản lý,
góp phần bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý hành chính nhà nước.
Xuất phát từ mục đích chung, trách nhiệm hành chính có mục đích trực tiếp là:
giáo dục người vi phạm và phòng ngừa các vi phạm pháp luật.
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính không phải là mục đích tự thân
của biện pháp trách nhiệm đó, mà nó là phương tiện giáo dục con người ý thức tôn
trọng pháp luật. Nhà nước ta khi thực hiện cuộc đấu tranh với những vi phạm pháp
luật, không xuất phát từ mục đích đàn áp mà nhằm khôi phục những giá trị đạo đức
tốt đẹp của cá nhân, tạo ra thói quen thực hiện ý thức và tự giác những quyền và
nghĩa vụ của mình.
Mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật của trách nhiệm hành chính bao gồm
phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. ở đây, phòng ngừa riêng được hiểu là

phòng ngừa sự tái phạm và thực hiện vi phạm pháp luật mới từ phía người vi phạm
hành chính và bị xử phạt hành chính, còn phòng ngừa chung là phòng ngừa các vi
phạm pháp luật từ những cá nhân khác.
II - Vi phạm hành chính
1. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính
Cơ sở của trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. (Xem Điều 1. Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính).
Như vậy, các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính gồm: tính trái pháp
luật của hành vi; tính có lỗi của hành vi; hành vi đó bị xử phạt hành chính.
Dựa vào các dấu hiệu pháp lý đó để xác định một hành vi nào đó là vi phạm hành
chính.
+ Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện ngược
lại với quy định của pháp luật. Đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm thực
hiện, hoặc không thực hiện hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực
hiện.
+ Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi. Những người bình thường đạt tới độ
tuổi nhất định đều có khả năng điều khiển, nhận thức được tính chất nguy hại cho
xã hội của hành vi, hậu quả của hành vi. Vì vậy, lỗi là trạng thái tâm lý, thái độ của
Page 11


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
người vi phạm đối với hành vi, hậu quả của hành vi đó, tại thời điểm thực hiện
hành vi, không có lỗi thì không coi là vi phạm hành chính.
+ Vi phạm hành chính là hành vi bị xử phạt hành chính. Đây là dấu hiệu có tính
quy kết, vì nhà làm luật quy định những hành vi nào là vi phạm hành chính và định

ra biện pháp, mức phạt đối với hành vi đó. Một hành vi không bị xử phạt hành
chính thì không phải là vi phạm hành chính. Điều đó không có nghĩa là có vi phạm
hành chính thì đều áp dụng biện pháp xử phạt, mà cần cân nhắc kỹ lưỡng mọi tình
tiết, để có thể áp dụng biện pháp tác động khác.
2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính
Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính gồm:
- Mặt khách quan;
- Khách thể;
- Chủ thể;
- Mặt chủ quan.
a) Mặt khách quan của vi phạm hành chính
Bất kỳ một hiện tượng nào cũng có hình thức biểu hiện của nó. Vi phạm hành
chính có hình thức biểu hiện là hành vi. Không có vi phạm thì không có vi phạm
pháp luật nói chung, vi phạm hành chính nói riêng. C.Mác chỉ rõ: "Ngoài hành vi
của mình thì con người không tồn tại đối với pháp luật"(1).
Những suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng xấu chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi
thì chưa phải là vi phạm pháp luật. Con người chỉ chịu trách nhiệm về những hành
vi của mình và việc đánh giá con người phải thông qua hành vi của họ.
Hành vi có thể biểu hiện dưới hình thức hành động, ví dụ: hành vi làm hàng giả,
kinh doanh trái phép, đi xe máy vào đường cấm... hoặc dưới hình thức không hành
động như: đi xe mô tô không có bằng lái; không có phương tiện phòng cháy, chữa
cháy tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Chỉ cần có hành động hoặc không hành động
nêu trên cũng có thể truy cứu trách nhiệm hành chính, bất luận là hậu quả của hành
vi đã xảy ra hay chưa. Khi vi phạm hành chính đã gây ra hậu quả, cần xác định mối
liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi. Ngoài ra, khi xem
xét mặt khách quan của vi phạm hành chính trong những vụ việc cụ thể cần tính
đến một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.
b) Khách thể của vi phạm hành chính
Bất kỳ hành vi trái pháp luật nào cũng đều xâm phạm tới quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ, làm tổn hại, rối loạn, đe doạ sự phát triển bình thường các quan hệ đó.

Do vậy, vi phạm hành chính - hành vi trái pháp luật cũng xâm phạm tới các quan
hệ xã hội được các quy tắc quản lý hành chính nhà nước bảo vệ. Khách thể của vi
phạm hành chính là quan hệ xã hội bị vi phạm hành chính xâm hại. Khách thể là
Page 12


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
yếu tố đặc biệt quan trọng ấn định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi trái pháp luật.
Tính chất của khách thể (quan hệ xã hội) bị xâm hại là tiêu chí đầu tiên mà Nhà
nước sử dụng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có nghĩa là
để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm, với các vi phạm khác. Ví dụ: Hành
vi giết người - tội phạm, còn lái xe mô tô không có bằng là vi phạm hành chính.
Nhưng khi một khách thể bị nhiều hành vi xâm hại, thì tiêu thức để phân biệt
chúng là hậu quả trực tiếp của hành vi hoặc hành vi đó đã bị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý hành chính hay chưa. Ví dụ, đối với hành vi kinh doanh trái
phép, lừa dối khách hàng, buôn bán thuốc lá trái phép... Với khối lượng nhỏ chưa
gây hậu quả nghiêm trọng, nếu đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng cũng những hành vi đó tuy chưa bị xử lý hành
chính nhưng gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoặc
đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác
dưới 11% mà không thuộc các trường hợp: dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng
thủ đoạn gây nguy hiểm cho nhiều người; gây thương tật nhẹ cho nạn nhân; phạm
tội nhiều lần; phạm tội có tổ chức; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do
công vụ của nạn nhân thì không truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ truy cứu trách
nhiệm hành chính.
Khách thể cụ thể của những vi phạm hành chính rất đa dạng. Đó là: sở hữu Nhà
nước; sở hữu công dân; quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân; trật tự an toàn
nơi công cộng; an toàn giao thông; trật tự quản lý hành chính nhà nước trong các

lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, y tế, văn hoá - xã hội v.v...
Như vậy, khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội trong lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước được bảo vệ bởi các quy phạm luật hành chính, bằng
các biện pháp trách nhiệm hành chính.
c) Chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm
hành chính.
Pháp luật hành chính quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những
cá nhân có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi pháp
luật hành chính là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội
của hành vi, hậu quả hành vi, điều khiển được hành vi đó. Những người hành động
trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự kiện bất ngờ, hoặc không có
khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm
hành chính, nghĩa là, không bị xử phạt vi phạm hành chính (chẳng hạn: những
người mắc bệnh tâm thần và các bệnh thần kinh khác, không có khả năng, hoặc
hạn chế khả năng nhận thức).
Các chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính gồm:
Page 13


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
- Công dân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm
hành chính do mình gây ra.
- Người có đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm
hành chính do cố ý.
Người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo. Người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành
chính, khi phạt tiền đối với họ thì người có thẩm quyền áp dụng mức phạt không

được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên. Nếu người chưa thành
niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó phải nộp
thay.
- Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và
những người thuộc lực lượng Công an nhân dân nếu thực hiện vi phạm hành chính
thì bị xử lý như đối với công dân khác; trong trường hợp cần áp dụng hình thức
phạt tước quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì mục đích an ninh, quốc
phòng thì người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề nghị cơ quan, đơn vị quân
đội, công an có thẩm quyền xử lý theo điều lệnh kỷ luật.
- Cán bộ, công chức nhà nước nói chung, những người có chức vụ nói riêng chịu
trách nhiệm hành chính đối với những vi phạm hành chính liên quan đến việc thi
hành công vụ nhà nước, có nghĩa là liên quan đến việc thực hiện quyền hạn, nhiệm
vụ được trao. Nếu không liên quan tới việc thực hiện công vụ thì xử lý họ như đối
với công dân bình thường. ở đây, có yếu tố liên quan tới hoạt động công vụ, nên họ
bị xử phạt nặng hơn. Cũng có trường hợp, tuy không có yếu tố công vụ, nhưng là
cán bộ, công chức vi phạm vẫn bị xử lý nặng hơn, chẳng hạn như khi có hành vi
mua, bán dâm.
- Pháp luật nhà nước ta quy định tổ chức cũng là chủ thể của vi phạm hành chính.
Tổ chức có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế nếu thực hiện
vi phạm hành chính thì cũng bị phạt cảnh cáo hay phạt tiền, tước quyền sử dụng
giấy phép, tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm.
Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, pháp luật hành chính nước ta quy định
khi tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính thì tổ chức đó phải tiến hành xác định
cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý của
người đó theo quy định của pháp luật.
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị
xử phạt theo quy định của pháp luật Việt Nam về xử phạt vi phạm hành chính, trừ
trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Đồng thời lại không áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác quy định tại

Page 14


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Điều 23, 24, 25, 26 và 27 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đối với người
nước ngoài, như áp dụng biện pháp trục xuất.
d) Mặt chủ quan của vi phạm hành chính
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi
là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của vi phạm hành chính. Cần phân biệt hành vi trái
pháp luật với vi phạm pháp luật, nếu chưa xác định yếu tố chủ quan: thái độ, động
cơ, ý chí của người vi phạm đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi.
Có hai hình thức là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi vi
phạm hành chính nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi của
mình nhưng vẫn thực hiện, hoặc để mặc cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý
thể hiện ở chỗ người vi phạm hành chính không biết hoặc không nhận thức được
hành vi của mình là trái pháp luật mặc dù cần phải biết và nhận thức được, hoặc
nhận thức được nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả của hành vi trái
pháp luật đó.
Khi xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật có phải là vi phạm hành chính hay
không cần phải nghiên cứu khách quan, đầy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu thành pháp
lý của vi phạm. Dựa vào các yếu tố cấu thành của vi phạm nhằm xác định vi phạm
đó là vi phạm gì, để chọn đề tài xử phạt cho đúng.
III - Các cơ quan có thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính và chế
độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác
Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì chỉ có Chính phủ là cơ quan có thẩm
quyền quy định hành vi vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính khác. Việc quy định này nhằm mục đích đảm bảo sự thống nhất của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi toàn quốc.
Điều 2 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: Chính phủ quy định hành vi

vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng
hành vi vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; quy định chế độ
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào các cơ sở
giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
IV - Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
Những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính là những tư tưởng chỉ đạo, định
hướng cho toàn bộ quá trình xử lý các vi phạm hành chính. Có những nguyên tắc
cơ bản sau:
1. Nguyên tắc pháp chế
Pháp chế là nguyên tắc hiến định được quán triệt trong tổ chức, hoạt động của mọi
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong hành vi, xử sự của công dân. Trong lĩnh
vực xử lý vi phạm hành chính, nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: không một
cá nhân, tổ chức nào bị xử lý hành chính ngoài những căn cứ và thủ tục do pháp
Page 15


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
luật quy định. Chỉ những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý hành chính mới
được xử lý. Mọi chủ thể thực hiện, tham gia quan hệ trong lĩnh vực này phải tuân
thủ, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về xử lý hành chính. Quá trình xử lý vi
phạm hành chính chịu sự kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội và công dân. Vì
vậy, một số địa phương trao cho đội quy tắc xử phạt hành chính là trái pháp luật.
2. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời, xử lý công minh,
nhanh chóng theo đúng pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải phản ứng mau lẹ
với các vi phạm hành chính, tuân thủ nghiêm ngặt những quy định về thời hiệu xử
phạt và thực hiện quyết định xử phạt, xử lý một cách khách quan với sự tính toán
đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, các yếu tố nhân thân người vi phạm và
các yếu tố khác. Trong xử lý vi phạm hành chính chỉ được chọn các chế tài, biện

pháp xử lý đã được pháp luật quy định.
3. Nguyên tắc bình đẳng, công khai, nhân đạo trong xử lý vi phạm hành chính
Nguyên tắc này có nhiều nội dung: trước hết, phải xử lý đúng người, đúng hành vi
vi phạm, có vi phạm là bị xử lý không phân biệt người vi phạm là ai; mọi quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, quá trình xử lý vi phạm được công khai
để mọi người biết để thực hiện và kiểm tra; khi xử lý vi phạm, tính đến các tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ, không áp dụng những biện pháp hạ thấp danh dự, nhân
phẩm của con người.
Ngoài những nguyên tắc nêu trên, còn có những nguyên tắc mang tính kỹ thuật
trong xử lý vi phạm hành chính gồm: một hành vi vi phạm hành chính chỉ xử phạt
một lần; một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về
từng hành vi vi phạm; nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính
thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.
V- Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp xử lý hành
chính khác
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành ngày 2-7-2002 quy định hai hình
thức xử phạt chính gồm: cảnh cáo, phạt tiền và các biện pháp xử phạt bổ sung như
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật phương tiện
được sử dụng để vi phạm hành chính.
Đối với cá nhân, tổ chức vi phạm chỉ áp dụng một trong hai hình thức phạt cảnh
cáo hoặc phạt tiền. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính còn bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung:
- Tước quyền sử dụng giấy phép (tước bằng lái các phương tiện giao thông, vận
tải, giấy phép kinh doanh hoặc các loại giấy phép khác);
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp:
Page 16


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN

GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống,
lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương
tiện;
d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng,
văn hoá phẩm độc hại.
e) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
1. Các hình thức xử phạt hành chính
a) Cảnh cáo: là một hình thức xử phạt chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ và chưa gây thiệt hại
về vật chất. Quyết định xử phạt cảnh cáo bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác
(ghi lỗi và cắt ô phiếu kiểm tra đối với người điều hành phương tiện cơ giới) được
quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Cảnh cáo
trong xử phạt hành chính phân biệt với cáo trong Luật Hình sự, cảnh cáo trong kỷ
luật theo căn cứ áp dụng, theo thẩm quyền, phương thức áp dụng và theo hậu quả
pháp lý.
b) Phạt tiền: một biện pháp xử phạt hành chính được áp dụng phổ biến đối với
những vi phạm hành chính lớn, đã gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản khi
xét thấy hình thức xử phạt cảnh cáo không hiệu quả. Như vậy, phạt tiền được áp
dụng đối với những hành vi có tính nghiêm trọng hơn hành vi bị xử phạt cảnh cáo.
Nhiều trường hợp không gây thiệt hại về vật chất nhưng hành vi có tính chất nguy
hại cho xã hội, vẫn bị xử phạt tiền.
Các văn bản pháp luật về xử phạt hành chính thường định ra mức phạt tối thiểu và
tối đa với hành vi xác định. Do vậy, khi xử phạt cần tính toán một cách đầy đủ tất
cả các tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính, nhân thân của người vi phạm, xem
xét, đánh giá khách quan đối với vụ việc, lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng,
làm sáng tỏ nội dung của nó từ đó ấn định mức phạt hợp lý. Thực tế giữa mức phạt

tối thiểu và tối đa quá lớn cũng dẫn đến tình trạng phạt tuỳ tiện hiện nay ở nhiều
nơi.
Hình thức xử phạt hành chính cũng khác biệt với phạt tiền trong Luật Hình sự về
căn cứ áp dụng, về thẩm quyền, phương thức áp dụng và hậu quả pháp lý. Phạt tiền
trong xử phạt hành chính là hình thức phạt chính, còn phạt tiền trong Luật Hình sự
có thể là hình phạt hành chính, có thể là hình phạt bổ sung.
Mức phạt tiền được quy định chung như sau:

Page 17


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
- Mức phạt tiền trong xử lý vi phạm hành chính từ 5.000 đồng đến 500.000.000
(năm trăm triệu đồng). Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định như sau:
a) Phạt tiền tối đa đến 20.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: Trật tự, an toàn xã hội; quản lý và bảo vệ công trình
giao thông; quản lý và bảo vệ công trình thuỷ lợi; lao động; đo lường và chất lượng
hàng hoá; kế toán; thống kê; tư pháp; bảo hiểm xã hội;
b) Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ;
văn hoá - thông tin; du lịch; phòng chống tệ nạn xã hội; đất đai; đê điều và chống
lụt, bão; y tế; giá điện lực; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản; thú y; quản lý, bảo vệ rừng, lâm sản; quốc phòng; an ninh;
c) Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: thương mại; hải quan; bảo vệ môi trường; an toàn
và kiểm soát bức xạ, an toàn giao thông đường sắt; xây dựng; bưu chính, viễn
thông và tần số vô tuyến điện; chứng khoán; ngân hàng; chuyển giao công nghệ;
d) Phạt tiền đến 100.000.000 đồng áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính

trong lĩnh vực: khai thác khoáng sản; sở hữu trí tuệ; hàng hải; hàng không dân
dụng; thuế (trừ trường hợp luật định về thuế có quy định khác);
e) Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi xâm phạm
vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
nhằm nghiên cứu, thăm dò, khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí, các tài nguyên
thiên nhiên khác.
2. Các hình thức xử phạt bổ sung
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức phạt bổ sung,
không áp dụng độc lập mà áp dụng kèm với hình thức chính. Đó là thu hồi có thời
hạn hoặc không có thời hạn các giấy phép, chứng chỉ hành nghề khi các cá nhân, tổ
chức sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề vi phạm quy tắc sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề đó.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức xử phạt nghiêm
khắc gắn với sự hạn chế, hay tước đoạt quyền nhất định, làm cho người vi phạm
không còn khả năng tiếp tục vi phạm hành chính, nhờ đó tạo ra bảo đảm thực tế
cho việc tuân thủ nghĩa vụ pháp lý. Theo nghĩa này, tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề là biện pháp sau cùng để đấu tranh phòng chống vi phạm
hành chính, khi nhận thấy áp dụng các hình thức phạt khác chưa đủ để ngăn ngừa.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề đối với cá nhân, tổ chức
trong nhiều trường hợp hậu quả kinh tế còn lớn hơn phạt tiền.

Page 18


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
Do tính chất nghiêm khắc của biện pháp xử phạt này, pháp luật quy định cụ thể
những vi phạm nào mới tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và
thủ tục áp dụng chúng.
Thu hồi có thời hạn giấy phép, chứng chỉ hành nghề đối với cá nhân, tổ chức vi

phạm hành chính, là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của họ
trong một thời gian nhất định nhằm để điều tra, xác minh làm rõ tính chất, mức độ
vi phạm để ra quyết định xử phạt. Thu hồi không có thời hạn giấy phép, chứng chỉ
hành nghề được áp dụng trong các trường hợp: giấy phép, chứng chỉ hành nghề
được cấp không đúng thẩm quyền; giấy phép, chứng chỉ hành nghề có nội dung
trái pháp luật; người vi phạm hành chính đã vi phạm quy tắc sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề đó và xét thấy không thể cho họ tiếp tục sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề.
b) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
Hình thức xử phạt hành chính này thể hiện ở chỗ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tước đoạt quyền sở hữu về tài sản của người vi phạm, chuyển vào sở hữu Nhà
nước. Những cá nhân bị tịch thu không có quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Đối tượng tài sản bị tịch thu là vật, tiền, phương tiện mà cá nhân, tổ chức đã sử
dụng để vi phạm hành chính. Hình thức xử phạt này hạn chế quyền sở hữu về tài
sản của người vi phạm, tạo ra những trở ngại thực tế cho việc thực hiện tiếp theo
các vi phạm hành chính.
Không tịch thu vật, tiền, phương tiện bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
chiếm đoạt, sử dụng trái phép, mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp. Tịch thu tài sản không thuộc sở hữu cá nhân của người vi phạm là vi phạm
các nguyên tắc trách nhiệm hành chính. Khi áp dụng biện pháp này cần phải xác
định chính xác vật, tiền, phương tiện đó thuộc về ai, và đó là phương tiện vi phạm
hay không.
c) Ngoài những hình thức xử phạt nói trên, cá nhân hoặc tổ chức còn có thể bị áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
- Buộc bồi thường thiệt hại trực tiếp do vi phạm hành chính gây ra;
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây
lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương

tiện;
- Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng,
văn hoá phẩm đồi truỵ.
Page 19


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
3. Các biện pháp hành chính khác
Các biện pháp hành chính khác gồm:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Đưa vào trường giáo dưỡng;
- Đưa vào trung tâm giáo dục, chữa bệnh;
- Quản chế hành chính.
Những biện pháp này không phải là biện pháp xử phạt hành chính, được áp dụng
đối với những người có hành vi vi phạm hành chính nhiều lần, nhưng chưa tới mức
truy cứu trách nhiệm hình sự, nhằm hạn chế và trong một chừng mực nhất định
cách ly họ với đời sống cộng đồng xã hội, vì vậy việc áp dụng biện pháp này phải
được tiến hành theo một thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ để tránh những hiện tượng
vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Về bản chất pháp lý, xã hội, các biện pháp trên là các biện pháp ngăn chặn hành
chính nhằm ngăn ngừa tới mức tối đa khả năng tiếp tục tái phạm hành chính, đồng
thời khắc phục triệt để hậu quả do vi phạm hành chính trực tiếp gây ra, phục hồi
những quan hệ xã hội bị vi phạm hành chính xâm hại.
VI- Các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính thường xảy ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác
nhau, để phản ứng mau lẹ với các vi phạm, loại trừ và phòng ngừa chúng, để bảo
vệ trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ quyền tự do và lợi
ích hợp pháp của công dân, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định
nhiều cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, chủ yếu là

những cơ quan đơn vị, cơ sở, gồm:
1. Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền rộng lớn trong xem xét và xử lý các vi
phạm hành chính trong mọi lĩnh vực xảy ra trên địa bàn địa phương, trong phạm vi
thẩm quyền của mình.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có quyền:
+ Phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 500.000 đồng.
+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị
đến 500.000 đồng.
+ Buộc khôi phục lại tình tạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra;
+ Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
Page 20


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
+ Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng,
văn hoá phẩm độc hại;
+ Quyết định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có quyền:
+ Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 20.000.000 đồng, và các biện pháp xử phạt bổ sung.
+ áp dụng các biện pháp như: buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi
do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây
lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra; buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho
sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng, văn hoá phẩm độc hại.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) có quyền:

+ Phạt cảnh cáo; phạt tiền đến mức tối đa quy định tại khoản 2 và 3 Điều 14 Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính.
+ Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền;
+ Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
+ áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 12 của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính;
+ Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; quyết định áp dụng biện
pháp quản chế hành chính.
2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các lực lượng công an nhân
dân
- Chiến sĩ công an nhân dân khi thi hành công vụ có quyền: phạt cảnh cáo; phạt
tiền đến 100.000 đồng;
- Trạm trưởng cảnh sát, đội trưởng cảnh sát có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
200.000 đồng;
- Trưởng công an cấp xã được áp dụng các hình thức xử lý vi phạm hành chính
tương tự như Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trừ quyết định việc giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.
- Trưởng công an cấp huyện có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 10.000.000
đồng; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền; tịch
thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp
như buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; buộc thực hiện các biện
pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh do vi phạm

Page 21


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
hành chính gây ra; buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật

nuôi, cây trồng; buộc tiêu huỷ văn hoá phẩm độc hại.
- Trưởng phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, trưởng phòng cảnh
sát giao thông trật tự, trưởng phòng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, trưởng phòng
cảnh sát kinh tế, trưởng phòng cảnh sát hình sự, trưởng phòng cảnh sát phòng
chống tội phạm ma tuý, trưởng phòng xuất cảnh, nhập cảnh, thủ trưởng đơn vị
cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên hoạt động có tính chất độc lập, chỉ huy trạm
công an cửa khẩu, khu chế xuất có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 10.000.000
đồng; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong các lĩnh vực,
phạm vi thuộc thẩm quyền, tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành
chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b
khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
- Giám đốc công an cấp tỉnh có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 20.000.000
đồng; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền, tịch
thu tang vật phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và d khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính.
- Cục trưởng Cục Cảnh sát biển có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến mức tối đa
với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc quyền quản lý của mình quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều 14 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền; tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và d khoản 3 Điều 12 của pháp lệnh này.
3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Hải quan
Đội trưởng Đội nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan có quyền: phạt cảnh cáo, phạt
tiền đến 500.000 đồng. Chi Cục trưởng Hải quan, đội trưởng đội hải quan kiểm
soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là Cục Hải quan), đội trưởng đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội
trưởng kiểm soát trên biển thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan
có quyền:
- Thủ trưởng trực tiếp của nhân viên Hải quan có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền

đến 200.000 đồng.
- Đội trưởng đội kiểm soát Hải quan cấp tỉnh, trưởng Hải quan cửa khẩu có quyền:
phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 2.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện được
sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 20.000.000 đồng.
- Giám đốc Hải quan cấp tỉnh có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 20.000.000
đồng; tước quyền sử dụng giấy phép thuộc thẩm quyền, tịch thu tang vật, phương
tiện được sử dụng để vi phạm và tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con
người, văn hoá phẩm độc hại.
Page 22


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Kiểm lâm
- Kiểm lâm viên đang thi hành công vụ có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
100.000 đồng;
- Trạm trưởng Trạm kiểm lâm có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 2.000.000
đồng; tịch thu tang vật phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị
đến 10.000.000 đồng.
- Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm lâm có quyền: phạt cảnh
cáo; phạt tiền đến 10.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
vi phạm hành chính có giá trị đến 20.000.000 đồng; buộc phục hồi lại tình trạng
ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra.
- Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
20.000.000 đồng; tước quyền sử dụng giấy phép chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm a, b và d khoản 3 Điều 14
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
- Cục trưởng Cục kiểm lâm có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến mức tối đa đối
với lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng, lâm sản quy định tại điểm b khoản 2 Điều 14

của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề thuộc thẩm quyền; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính; áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm
a, b và d khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thuế
Nhân viên thuế vụ đang thi hành công vụ có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
100.000 đồng.
Trạm trưởng Trạm thuế, Đội trưởng Đội thuế có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền
đến 2.000.000 đồng.
Cục trưởng Chi cục thuế có quyền: phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 10.000.000 đồng,
tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Cục trưởng Cục thuế có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh
vực thuế quy định tại điểm d khoản 2 Điều 14 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Quản lý thị trường
- Kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ có quyền: phạt cảnh cáo; phạt
tiền đến 200.000 đồng;
- Đội trưởng Đội quản lý thị trường có quyền: phạt tiền đến 5.000.000 đồng; tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến
Page 23


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
30.000.000 đồng; buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi
và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại.
- Chi Cục trưởng Chi cục quản lý thị trường có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
20.000.000 đồng; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền; tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính, buộc tiêu
huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng, văn hoá phẩm

độc hại.
- Cục trưởng Cục quản lý thị trường có quyền phạt: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
mức tối đa đối với lĩnh vực thương mại quy định tại điểm c khoản 2 Điều 14 của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề thuộc thẩm quyền; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính; tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi cây
trồng, văn hoá phẩm độc hại.
7. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Thanh tra chuyên
ngành
- Thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền
đến 200.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính có giá trị đến 2.000.000 đồng và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
quy định tại điểm a, b và d khoản 13 Điều 12 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính.
- Chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
20.000.000 đồng; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và d khoản 3
Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
- Chánh thanh tra chuyên ngành Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực thuộc quyền
quản lý của mình quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 và khoản 3 Điều 14
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề thuộc thẩm quyền; áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định
tại các điểm a, b và d khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
8. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Giám đốc Cảng vụ hàng hải,
Giám đốc Cảng vụ Thuỷ nội địa, Giám đốc Cảng vụ hàng không
- Phạt tiền cảnh cáo; phạt tiền đến 10.000.000 đồng; tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính; áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm

a, b, và d khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.

Page 24


BÀN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRÊN
GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY
9. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Toà án nhân dân và Cơ quan
thi hành án dân sự
- Thẩm phán chủ toạ phiên toà có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 1.000.000
đồng;
- Chấp hành viên thi hành án dân sự đang thi hành công vụ có quyền: phạt cảnh
cáo; phạt tiền đến 200.000 đồng;
- Đội trưởng Đội thi hành án dân sự có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 500.000
đồng. Trưởng phòng thi hành án dân sự cấp tỉnh, Trưởng phòng thi hành án cấp
quân khu và cấp trung ương có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 1.000.000 đồng.
VII - Phân định thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
hành chính
1. Phân định thẩm quyền xử phạt
Việc quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhằm để
giải quyết nhanh chóng, kịp thời mọi vi phạm hành chính xảy ra trong tất cả các
ngành, lĩnh vực, mọi cấp quản lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh việc quy định thẩm quyền của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn quy định quy tắc
phân định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Theo Điều 42 của Pháp lệnh này
thì:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương. Người ở lĩnh vực quản lý nào
thì chỉ có thẩm quyền xử phạt hành chính thuộc lĩnh vực ngành mình quản lý.
Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người,

thì việc xử phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện.
Do có nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt đòi hỏi phải có sự phân định thẩm
quyền xử phạt để tránh chồng chéo chức năng và bảo đảm pháp chế.
Những cơ quan, cá nhân không được pháp luật trao thẩm quyền xử phạt hành chính
thì không được xử phạt. Xử phạt đúng thẩm quyền là một yêu cầu của nguyên tắc
pháp chế trong xử lý các vi phạm hành chính.
2. Các biện pháp ngăn chặn hành chính
Để đảm bảo cho quyết định xử phạt được thực hiện nghiêm chỉnh, ngăn chặn kịp
thời vi phạm hành chính, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền có thể áp dụng
các biện pháp ngăn chặn gồm:
- Tạm giữ người;
- Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm;
- Khám người;
Page 25


×