Tải bản đầy đủ (.ppt) (23 trang)

BÁO CÁO BỘ MÕM XÓI,HOA MÔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.75 KB, 23 trang )


2.7.4 Bộ Hoa môi (Lamiales)
Bộ Hoa môi liên hệ chặt chẽ với bộ Khoai lang đặc
biệt với họ Vòi voi. Bộ hoa môi cũng rất gần với bộ hoa
mõm sói ở cấu tạo hoa, nhưng bộ hoa môi tiến xa hơn
với lối cấu tạo hoa thích nghi thụ phấn nhờ sâu bọ và có
số lượng noãn giảm đi rõ rệt.
Bộ gồm 3 họ trong đó có hai họ gặp đại diện ở ta là
họ Cỏ roi ngựa và họ hoa môi
-Tràng hoa có năm thùy không bằng nhau. Bầu bốn ô:
….Họ Cỏ roi ngựa ..
-Tràng hoa luôn luôn hai môi. Bầu có bốn thùy rõ rệt: …
Họ hoa môi


Ta chỉ xét một họ:
Họ hoa môi (Lamiaceae) là cây thân cỏ, ít khi cây
nửa bụi hay cây bụi. Thân và cành vuông 4 cạnh. Lá
mọc đối, đính vào các cạnh của cạnh chứ không đính
vào góc. Trong thân và lá có tế bào tiết dầu thơm, do đó
những cây trong họ này thường có mùi rất thơm, và
nhiều cây được dùng làm rau gia vị.
Hoa nhỏ, mọc thành cụm hoa hình xim ở nách lá
hoặc nách những lá bắc dạng lá, nhiều khi các đôi xim
hai ngả mọc đối nhau nên trông như mọc vòng quanh
cành. Hoa luôn luôn không đều, theo mẫu 5 hoặc 4. Đài
có các thùy hoặc các răng không đều nhau, có khi hai
môi, tồn tại trên quả và bao lấy quả.
Tràng luôn luôn hai môi với nhiều hình dạng khác nhau
có khi hai thùy của môi trên dính nhau làm cho tràng trở
thành 4 thùy.




Bộ nhụy còn 4 nhị mà 2 cái dài 2 cái ngắn, hoặc 2
nhị với 2 nhị lép. Trong hoa có đĩa mật 2 hoặc 4 thùy.
Bầu trên, đầu tiên gồm hai ô với hai noãn trong mỗi ô,
về sau xuất hiện vách ngăn giả mọc ra từ phía trong chia
bầu thành 4 ô.
Cùng với sự sinh trưởng của noãn thì vách bầu cũng
phát triển dần, lấn ra phía ngoài và kết quả bầu trở thành
có 4 thùy, mỗi thùy chứa 1 noãn, đồng thời gốc vòi nhụy
bị chìm trong hốc giữa 4 thùy của bầu.
Hoa môi là một họ lớn, có tầm quan trọng lớn vì có
nhiều loài cho loại tinh dầu khác nhau, được dùng trong
kĩ nghệ hương phẩm và dùng làm thuốc, hạt của một vài
loài chứa dầu béo rất quý.


Húng chanh (Coleus amboinicus Lour.) có thân, lá mọng
nước, có lông, mùi thơm, cây trồng làm thuốc chữa ho.
Tía tô cảnh hay tía tô tây (C.scutellaroides (L.) Benth) có
lá màu tía, mép viền màu vàng lục, trông rất đẹp . Cây
trồng để làm cảnh.


Húng Chanh
cảnh

Tía tô



Kinh giới (Elsholtzia ciliata ( Thunb.) Hyland) là cây
rau gia vị quen thuộc, còn dùng nấu nước xông chữa
cảm, và có tác dụng lọc máu.
Ích mẫu (Leonurus sibiricus L.) có hoa màu đỏ tím hay
tím nhạt. Cây dùng làm thuốc bổ cho hụ nữ sau khi sinh
đẻ.


Kinh giới

Ích mẫu


Húng quế ( Ocimum basilicum L.): có thân và cành màu
tím thẫm, hoa màu tím hay tía. Cây thơm, dùng làm gia vị,
còn để chũa cảm sốt, đau bụng, nấu nước súc miệng và ngậm
chữa sâu răng, hạt dùng uống cho mát.
Hương nhu tía ( O.tenuiflorum L.) có thân và cành màu
tía,có lông. Cây rất thơm , dùng làm thuốc chữa cảm nắng,
nấu nước xông cho ra mồ hôi.
Cây Húng quế
Cây Hương nhu
tía


Tía tô (Perilla frutescens L.): có lá làm rau gia vị, làm
thuốc xông chữa cảm cúm.
Xôn đỏ (Salvia splendens Shellow ex Nees.): có hoa màu
đỏ tươi mọc ở ngọn. Cây thường trồng làm cảnh ở các công
viên.

Cây Tía tô
Cây Xôn đỏ


Họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) rất gần với họ hoa môi
ở cấu tạo hoa, ví dụ như cây Cúc ngũ sắc thường mọc
dại bên lề đường, ven đồi, hay gặp ở các vùng đất cát
ven biển cũng được trồng làm hàng rào và làm cảnh.
Cúc ngũ sắc


• Người thực hiện:Nguyễn Thị Hồng Cẩm


2.7.3. Bộ hoa mõm sói(Scrophulariales)
Cây đa dạng nhưng đa số có dạng thân cỏ. hoa từ đều đến
không đều, số lượng chỉ nhị giảm dần từ 5,4 hoặc 2. bộ này rất
gần với bộ khoai lang và có chung nguồn gốc với bộ khoai lang.
bộ có tới 16 họ, trong đó 11 họ gặp đại diện ở nước ta, nhưng sau
đây ta chỉ xét một họ thấp nhất.
Họ Cà (Solanaceae)
Cà là một trong những họ nguyên thủy hơn cả của bộ Hoa mõm
sói. Cây thân cỏ, cây bụi, đôi khi là cây leo hoặc cây gỗ nhỏ.Lá
mọc cách không lá kèm, đơn nguyên hoặc chia thùy. Thân và
cuống lá có vòng libe trong, một số cây có ống tiết chất nhày.
Trong thân và quả có các chất ancaloit do đó nhiều cây độc và một
số cây được dùng làm thuốc.


Cụm hoa thường hình xim mọc ở nách lá. Hoa lưỡng tính

đều. Đài hợp, thường tồn tại ở quả. Tràng hình bánh xe hoặc
hình ống, 5 thùy bằng nhau. Nhị 5, xếp xen kẻ với các thùy của
tràng, chỉ nhị dính vào ống tràng, một số trường hợp bao phấn
xếp cạnh nhau thành một ống bao quanh vòi nhụy. Bầu trên 2
ô, nhưng cũng có khi 35 ô hoặc nhiều hơn mỗi ô chứa nhiều
noãn, giá noãn trụ giữa phát triển lớn. Qủa mọng hoặc quả khô
mở.Hạt có nội nhũ nạc.
Công thức: * K(5) C(5) A5 G(2)
Họ hoa Cà có độ 85 chi với gần 23 ngàn loài, phân bố ở
vùng nhiệt đới và cả ở vùng ôn đới, chủ yếu ở Nam Mĩ.Việt
Nam có 16 chi với gần năm mươi loài.


Ớt (Capsicum) với nhiều loài và thứ khác nhau như ớt
sừng trâu có quả dài cong hình sừng trâu, ớt tàu hay ớt bị quả
to, màu đỏ hay vàng, không cay,ớt cựa gà hay ớt tây quả vàng
hay đỏ, hình tròn dài, ớt hạt tiêu hay ớt mọi quả nhỏ, cay nồng.
Vị cay và tính kích thích của quả ớt do ảnh hưởng của một loại
chất ancaloit capsixin. Những quả này được làm đồ gia vị có
thứ dịu hơn như ớt ngọt dùng thay rau. Do có nhiều sinh tố C
và A nên rượu ớt dùng chữa bệnh hoại huyết.


Ớt chỉ thiên





Khoai tây( S.tuberosum L): Cây thân cỏ, có những

phần thân ở dưới đất phình to thành củ, chứa nhiều tinh
bột. Hoa to màu tím hay trắng. Qủa mọng màu lục.Gía trị
của củ khoai tây khá caovì pro-tein trong củ có nhiều axit
amin cần thiết cho cơ thể người và động vật, lượng
đường cũng khá cao ngoài ra còn có một ít vitamin C, B1,
B2 và tiền vitamin A
Cà độc được(Datura metel L.) Có hoa lớn màu trắng,
qủa hình cầu mặt ngoài có nhiều gai mềm. Cácbộ phận
của cây đều độc nhất là hạt chứa atropin, hyoxiamin, và
một số ancaloit khác. Hạt và lá làm thuốc chữa bệnh hen
xuyễn.


Cà độc dược

Cây và củ khoai tây





×