Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẠI VIỆT CHÂN LẠP TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.8 KB, 71 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

VÕ NHẬT BÌNH
LÊ THỊ HỒNG THẮM

QUAN HỆ ĐẠI VIỆT - CHÂN LẠP
TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIX

Ngành đào tạo: Sư phạm Lịch sử
Trình độ đào tạo: Đại học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Giảng viên hướng dẫn:
Th.S TRƯƠNG CÔNG VĨNH KHANH

ĐỒNG THÁP, NĂM 2011


2

MỤC LỤC
Tran
g
Trang phụ bìa..............................................................................................................
Lời cam đoan...............................................................................................................
Lời cảm ơn.................................................................................................................


Mục lục...................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................
Chương 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – CHÂN LẠP TỪ THẾ KỈ XI ĐẾN
TRƯỚC THẾ KỶ XIX)
1.1. Khái quát…………………………………………………………….
1.2. Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp dưới triều Lý - Trần – Lê…………….
1.2.1. Về ngoại giao……………………………………………….
1.2.2. Quan hệ trên lĩnh vực quân sự……………………………..
1.3. Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp dưới thời Trịnh - Nguyễn……………
1.4. Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp trong buổi đầu giao thời Nhà Nguyễn.
Chương 2
QUAN HỆ ĐẠI VIỆT CHÂN LẠP TRONG THẾ KỈ XIX
2.1. Hoàn cảnh lịch sử …………………………………………………...
2.2. Những nhân tố thúc đẩy quan hệ hòa hảo Đại Việt - Chân Lạp……..
2.2.1. Chính sách đối ngoại của Triều Nguyễn…………………...
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Chân Lạp………………………..
2.3. Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp trên các lĩnh vực……………………..
2.3.1. Chính trị…………………………………………………….
2.3.1.1. Vấn đề sắc phong………………………………….
2.3.1.2.
Vấn
đề
triều
cống…………………………………..
2.3.2. Kinh tế……………………………………………………...
2.3.3. Văn hóa – xã hội……………………………………………
2.4. Một số nhận xét về quan hệ Đại Việt - Chân Lạp trong thế kỉ XIX…
KẾT LUẬN................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................

PHỤ LỤC


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động ngoại giao có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Các
quốc gia trên thế giới không thể tồn tại và phát triển cô lập. Trong xu thế toàn cầu hóa
hiện nay, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, thiết lập mối quan hệ đa phương đang trở
thành một trong những điều kiện phát triển của các quốc gia.
Trong lịch sử, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với nhiều quốc gia trong khu vực và
thế giới trên nhiều lĩnh vực. Các mối quan hệ này đều có vai trò nhất định trong công


4

cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tùy vào mối quan hệ với từng quốc gia,
trong những thời kì lịch sử cụ thể. Vào thời kì phong kiến, trong điều kiện cách trở về
địa lý, thông tin liên lạc cũng như giao thông chưa phát triển, quan hệ với các nước
láng giềng rất được coi trọng. Mối quan hệ với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, nhất
là giai đoạn thế kỉ XVII - XIX được các chúa Nguyễn và vua Nguyễn lưu tâm.
Chân Lạp xưa (Campuchia nay) và Đại Việt xưa (Việt Nam) nay là hai quốc gia
láng giềng, có chung đường biên giới và cùng nằm trên bán đảo Đông Dương. Ngay
từ rất sớm, Đại Việt và Chân Lạp đã có quan hệ với nhau trên nhiều lĩnh vực. Thời
điểm bang giao chính thức giữa hoàng gia Chân Lạp và Đại Việt là vào đầu thế kỉ
XVII dưới triều vua Chey Chettha II (1618 - 1628), chấm dứt vào năm 1897 khi người
Pháp chính thức đặt nền bảo hộ và bắt đầu khai thác thuộc địa tại đây.
Đề tài Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX được nghiên cứu
nhằm mục đích góp phần hệ thống hóa một cách đầy đủ các sự kiện lịch sử để dựng nên

bức tranh sinh động, trung thực về quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đến trước thế
kỉ XX, cung cấp một cách nhìn toàn diện về quan hệ của hai nước; dựng lại rõ quá
trình mở cõi về phía Nam của người Việt nói chung và chính quyền phong kiến nói
riêng; nhìn nhận lại mối quan hệ Đại Việt - Chân Lạp - Xiêm; đồng thời qua đó thấy
được vai trò và vị trí của Đại Việt trong giai đoạn này trên chính trường khu vực.
Việc nghiên cứu còn góp phần bổ sung nguồn tài liệu cho việc nhận thức về lịch sử
Việt Nam thời trung đại.
Sang thế kỉ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động. Xu hướng
ngoại giao đa phương trở nên năng động và tích cực. Việt Nam đang bước vào thời kì
tăng cường hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối ngoại giao đa phương, đa dạng;
chú trọng tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng. Vì vậy, việc nghiên cứu
lịch sử ngoại giao nói chung và lịch sử quan hệ Đại Việt - Chân Lạp nói riêng có ý
nghĩa khoa học, thực tiễn và thời sự sâu sắc. Nghiên cứu sự kiện lịch sử để hiểu đúng
bản chất là rất cần thiết và nhất là những sự kiện quá khứ có liên quan đến quan hệ hiện
tại. Những bài học của mối quan hệ ngoại giao trong lịch sử có thể góp phần nhận
thức và giải quyết mối quan hệ hiện tại về mặt chủ quyền lãnh thổ, về đường biên
giới giữa Việt Nam - Campuchia và việc hoạch định đường lối ngoại giao cho ngày


5

nay.
Việc nghiên cứu đề tài này cũng góp phần giúp người viết thu thập tư liệu,
phục vụ việc giảng dạy ở trường Trung học phổ thông và mở rộng phạm vi nghiên cứu
về sau.
Với lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp từ thế kỷ XI
đến thế kỷ XIX ” để làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp là một trong những mối quan hệ được
chính quyền phong kiến Đại Việt xem trọng, đặc biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XVII đến

thế kỉ XIX. Nhìn chung, đó là mối quan hệ bang giao hòa hiếu, thân thiện, diễn ra trên
nhiều lĩnh vực và có tính liên tục.
Mối quan hệ giữa hai nước đã được ghi lại trong nhiều bộ sử, qua các thời kì
khác nhau. Đó là những tư liệu cổ, có thể cung cấp cho chúng ta những sự kiện chủ yếu
trong quan hệ giữa hai nước.
Đầu tiên là bộ Đại Việt sử lược, một công trình khuyết danh được hoàn thành vào
những năm 1377 - 1388. Bộ sách được ghi chép dưới dạng biên niên, gồm ba quyển:
quyển một ghi chép lịch sử từ thời thượng cổ đến hết Tiền Lê (1009), quyển hai ghi
chép từ thời Lý Thái Tổ (1010) đến Lý Nhân Tông (1127), quyển ba ghi chép từ thời
Lý Thần Tông (1128) đến Lý Huệ Tông (1124). Dù chỉ là một bộ sách nhỏ, song có
nhiều chi tiết giúp ích cho việc nghiên cứu lịch sử nước nhà, nhất là về buổi đầu thời
kì tự chủ. Bên cạnh việc ghi chép lại các sự kiện một cách vắn tắt, tác phẩm còn có
những phần đối chiếu với các tài liệu thư tịch cổ khác, làm tăng tính chính xác của sử
liệu. Nội dung ghi chép rất đa dạng, bao gồm: những việc làm của vua; việc kiến trúc
thành quách, điện các, chùa tháp; việc bang giao với phong kiến Trung Hoa; việc bang
giao với Champa, Chân Lạp… Nghiên cứu tác phẩm, người đọc có thể hiểu diện mạo
kinh tế - xã hội cũng như thế thứ các đời vua, quan hệ bang giao của nước ta với các
quốc gia trong khu vực giai đoạn trước triều Trần.
Cũng ghi chép các sự kiện của lịch sử Việt Nam theo dạng biên niên, bộ Đại
Việt sử kí toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dựa trên tác phẩm Đại Việt sử kí của Lê
Văn Hưu và tác phẩm Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên. Năm 1665, Phạm Công Trứ


6

chỉnh lý trước tác của Ngô Sĩ Liên và viết thêm phần Bản kỷ tục biên. Năm 1697,
các quan Lê Hy, Nguyễn Quý Đức viết thêm và hiệu đính phần Bản kỷ tục biên, tập
hợp toàn bộ các trước tác nói trên gọi là Đại Việt sử kí toàn thư. Tác phẩm ghi chép các
sự kiện lịch sử của dân tộc từ thời Hồng Bàng cho đến hết đời Lê Thái Tổ. Trong tác
phẩm, có một số ghi chép về mối bang giao của Đại Việt với các quốc gia trong khu

vực, trong đó có mối quan hệ với Chân Lạp trên nhiều lĩnh vực.
Bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn gồm 6 quyển, được viết vào năm 1776, lúc
ông đang giữ chức Tham tán quân cơ ở Thuận Quảng. Bộ sách ghi chép về hai đạo
Thuận Hóa và Quảng Nam trên nhiều mặt từ cảnh quan môi trường, địa lý hành chính,
sản vật, phong tục đến lệ thuế má, nhân vật… Bộ sách ngoài phần điểm lại quá trình
dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng ở Thuận Hóa và đối đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài,
có phần ghi chép về công cuộc mở đất về phía Nam của triều đình phong kiến Đàng
Trong. Tác phẩm được xem là một bộ địa lý - lịch sử phong phú về hai xứ Thuận Quảng thế kỉ XVI - XVIII.
Bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn được vua Minh Mạng cho
tiến hành biên soạn vào năm 1821, gồm hai phần: Đại Nam thực lục tiền biên ghi
chép giai đoạn lịch sử từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) đến đời chúa Nguyễn
Phúc Thuần (1777); Đại Nam thực lục chính biên ghi chép giai đoạn từ khi Nguyễn
Ánh bôn ba tìm cách khôi phục quyền lực dòng họ (1777) đến khi vua Đồng Khánh
mất (1889). Bộ sách là một tập hợp các ghi chép dưới dạng biên niên về những sự
việc cụ thể, những lời nói, việc làm của vua, lời tâu trình của quần thần, việc nội
trị, ngoại giao; trong đó có quan hệ bang giao của Việt Nam với Chân Lạp.
Đại Nam liệt truyện do Quốc sử quán biên soạn năm 1841, hoàn thành vào
năm 1895 và được khắc in vào 1909. Nội dung chủ yếu là ghi chép về hàng trăm
nhân vật lịch sử được chia thành các mục: Hậu phi, hoàng tử, công chúa, chư
thần… Bên cạnh việc ghi chép về các nhân vật lịch sử, tập 2 của Đại Nam liệt
truyện còn ghi chép về quan hệ của triều Nguyễn với các nước, trong đó có Chân
Lạp.
Cũng nghiên cứu về lịch sử các nước Đông Nam Á, tác phẩm Lược sử Đông
Nam Á do Phan Ngọc Liên chủ biên cung cấp những tư liệu mang tính khái quát về lịch


7

sử các nước trong đó có Đại Việt và Chân Lạp từ lúc mới thành lập đến thời hiện đại.
Trong cuốn Việt Nam sử lược, tác giả Trần Trọng Kim nghiên cứu về lịch sử

Việt Nam từ thời thượng cổ đến khi Pháp xâm lược và cai trị nước ta; trong đó có
nghiên cứu sơ lược về quan hệ Việt Nam - Cao Miên. Tác phẩm này được viết theo lối
biên niên, ghi nhận lại các sự kiện lịch sử.
Với những công trình đó là tài liệu quan trọng giúp tôi hoàn thành đề tài này. Các
công trình đã khái quát được một số quan hệ Đại Việt – Chân Lạp trước thế kỷ XX
nhưng nhìn chung còn sơ lược và chưa có tính hệ thống cụ thể. Vì vậy, tôi chọn đề tài
“Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX” để làm khóa luận tốt nghiệp.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu là tìm hiểu quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp
trong lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa; làm rõ bối cảnh,
những bài học lịch sử của mối quan hệ đó.
Xây dựng lại bức tranh quan hệ hai nước từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, từ đó rút ra
những nhận xét, đánh giá khách quan quan hệ Đại Việt – Chân Lạp…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài không đi sâu nghiên cứu về lịch sử của hai quốc gia Đại Việt và Chân
Lạp mà chỉ tập trung tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển và kết thúc mối quan hệ
của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Nguyên nhân, điều kiện lịch sử, tính chất
của quá trình quan hệ này chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: bối cảnh lịch sử
khu vực, quá trình lập quốc và phát triển của mỗi nước; đặc biệt là Đại Việt.
Tiến trình mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp được nghiên cứu chủ yếu
trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao cũng như hệ quả tác động của nó đến
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong đề tài này chúng tôi cố gắng trình bày mối quan hệ của Đại Việt với Chân
Lạp trên các lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao. Phần kinh tế, văn hóa, xã hội do
hạn chế về nguồn tư liệu nên việc trình bày sẽ nhẹ hơn. Phần này được xem là hệ quả
tác động có được từ các mối quan hệ về chính trị, quân sự, ngoại giao.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Quan hệ Đại Việt với Chân Lạp từ thế kỉ XI đến
thế kỷ XIX. Làm rõ quá trình phát sinh của mối quan hệ, những điều kiện lịch sử chi



8

phối đến mối quan hệ; đồng thời có thể so sánh được tính chất mối quan hệ trong các
giai đoạn lịch sử khác nhau. Mốc kết thúc của mối quan hệ này là thời điểm năm
1897 khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành công cuộc xâm chiếm và bắt đầu
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương. Đây là lúc tính chất
quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã có sự thay đổi và chuyển sang một thời kì mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau:
– Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong khóa
luận, nhất là phần nghiên cứu diễn tiến mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp.
Theo chiều dài thời gian, mối quan hệ này được tái hiện từ quá trình đoàn kết của hai
nước Đại Việt - Chân Lạp trong cuộc chiến chống ách đô hộ của nhà Đường năm
722, cho đến khi hai nước đặt quan hệ chính thức vào năm 1620 và kết thúc vào năm
1897 khi thực dân Pháp bắt đầu khai thác thuộc địa ở Đông Dương lần thứ nhất.
– Phương pháp logic: Đặt mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong bối
cảnh của hai nước theo từng giai đoạn lịch sử, cũng như bối cảnh khu vực Đông
Nam Á; đặc biệt nhấn mạnh vị trí, vai trò của Xiêm La trong mối quan hệ này. Quan
hệ chính trị - quân sự - ngoại giao đã tác động đến quan hệ kinh tế - văn hóa - xã hội
của Đại Việt với Chân Lạp.
– Phương pháp liên ngành: khai thác nguồn tư liệu, kế thừa kết quả nghiên cứu
thuộc các ngành khoa học khác nhau: sử học, dân tộc học, văn hóa…

6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Mục lục, tài liệu tham khảo khóa luận gồm có 2
chương:
Chương 1. K h á i q u á t q u a n h ệ Đ ạ i V i ệ t – C h â n L ạ p t ừ t h ế
kỷ XI đến trước thế kỷ XX
Chương 2. Quan hệ Đ ại Việt - Chân Lạp tr ong thế kỷ XI X



9

Chương 1. KHÁI QUÁT QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – CHÂN LẠP TỪ THẾ KỈ XI
ĐẾN TRƯỚC THẾ KỶ XIX
1.1. Khái quát
Đại Việt và Chân Lạp là hai quốc gia láng giềng. Đến thế kỉ XVI, cả hai còn
cách biệt bởi nước Champa nằm giữa. Trong lịch sử xây dựng và phát triển của hai
quốc gia này vừa có những nét tương đồng nhưng đồng thời cũng có những đặc
điểm khác biệt. Thời sơ khai, mỗi cộng đồng cư dân Việt, Khơme phải cố kết với


10

nhau để chống chọi với môi trường tự nhiên và đối phó với môi trường xã hội để
dựng lên nhà nước sơ khai của mình.
Nhà nước của Đại Việt sau năm 179 trước công nguyên lệ thuộc vào Trung
Hoa; trong khi đó, nhà nước của người Khơme nằm trong sự nội thuộc của vương
quốc Phù Nam. Người Việt và người Khơme đã liên tục đấu tranh để chống lại chính
quyền đô hộ, giành độc lập cho dân tộc mình. Đồng thời với quá trình đấu tranh
khôi phục và bảo vệ độc lập dân tộc là quá trình cố kết cộng đồng dân cư, củng cố
thống nhất đất nước.
Bên cạnh những điểm tương đồng, Đại Việt và Chân Lạp cũng có nhiều điểm
khác biệt. Về phía Chân Lạp không bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, đó là điều kiện vô
cùng quý báu để cộng đồng người Khơme xây dựng và phát triển quốc gia của mình.
Chân Lạp từ thế kỉ VI đã thoát khỏi lệ thuộc của Phù Nam do đó có điều kiện xây dựng
và phát triển đất nước. Đến thế kỉ X, Chân Lạp bước vào thời kì cực thịnh của đế chế
Ăng-co. Tiềm lực quốc gia ngày càng vững mạnh biểu hiện qua việc xây dựng các công
trình kiến trúc, chính sách đối ngoại bành trướng… của các triều vua Chân Lạp. Từ
thế kỉ X trở đi, Chân Lạp thường tiến hành các hoạt động quân sự đánh phá vùng biên

giới phía Tây của Đại Việt.
Trong khi đó thế kỉ X, Đại Việt vừa thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa,
khôi phục độc lập sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Chính quyền còn non trẻ, đất
nước còn nhiều khó khăn.
Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XVIII, cả Đại Việt và Chân Lạp đều có sự phát triển về
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội và cả về mặt lãnh thổ. Cả hai đều là những quốc gia
phát triển nhất trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ. Tuy nhiên, xét về tương
quan so sánh lực lượng và kinh nghiệm xây dựng đất nước, ưu thế vẫn nghiêng hẳn
về Chân Lạp. Với chính sách đối ngoại bành trướng, Chân Lạp đã sớm xây dựng cho
mình một đội quân hùng mạnh với nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Trong khi đó, bên
cạnh việc xây dựng nhà nước về mọi mặt, Đại Việt phải thường xuyên đối phó với
nhiều khó khăn: đó là tình trạng cát cứ và quan trọng hơn là tình trạng giặc ngoại xâm
luôn đe dọa từ các phía Bắc, Tây và Nam.
Chính bối cảnh lịch sử của hai nước quyết định đến tính chất, chính sách đối


11

ngoại của Đại Việt với Chân Lạp.
Đầu thế kỉ XI, nước Đại Việt non trẻ luôn có tư tưởng giữ gìn độc lập nên
trong quan hệ với Chân Lạp luôn ở thế phòng ngự, chuộng yên ổn; trong khi đó,
Chân Lạp xuất phát từ tư tưởng hiếu chiến, luôn có tham vọng bành trướng lãnh thổ
nên liên tục tiến hành các hoạt động quân sự xâm phạm biên giới phía Tây (thuộc Nghệ
An, Thanh Hóa) của Đại Việt. Từ thế kỉ XI, Đại Việt dần khẳng định vị thế trong khu
vực. Các triều Đại Việt nối tiếp nhau phát triển đất nước ngày càng vững mạnh về mọi
mặt. Đến triều Lê sơ, nhà nước phong kiến Đại Việt phát triển đến đỉnh cao. Ưu thế
ngày càng được khẳng định khi quân dân Đại Việt nhiều lần đánh bại các cuộc chiến
tranh xâm lược của các nước láng giềng hùng mạnh như Trung Hoa, Champa…
Chính sách đối ngoại đối với các nước láng giềng nói chung và Chân Lạp nói riêng
cũng thay đổi linh hoạt theo hướng khẳng định vị trí và sức mạnh của Đại Việt trong

khu vực. Đại Việt chủ động hơn trong quan hệ với Chân Lạp. Cụ thể: chính sách đối
ngoại của Đại Việt thay đổi từ chỗ mang nặng tư tưởng phòng thủ và bị động đối phó
với những cuộc xâm lược cướp bóc từ biên giới phía Bắc, phía Tây và phía Nam
sang thế chủ động; tiến hành các hoạt động ngoại giao kết hợp với quân sự; thi hành
chính sách mở cõi về phía Nam. Tuy nhiên, nhìn chung, trong quan hệ với Chân Lạp,
các triều Đại Việt luôn thi hành nhất quán chính sách ngoại giao hòa hiếu, thân thiện,
tránh xung đột và giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp thời điểm này còn gắn liền với mối quan hệ
đối với Champa - quốc gia cũng có tham vọng xâm chiếm Đại Việt. Vì vậy, Đại Việt
cần có Chân Lạp thân thiện nhằm tránh mối đe dọa một khi Champa liên kết với
Chân Lạp để đối phó mình.
Quan hệ Đại Việt với Chân Lạp đến thế kỉ XVIII diễn ra trên nhiều lĩnh vực
nhưng chủ yếu là trong lĩnh vực ngoại giao và quân sự. Trong lĩnh vực ngoại giao,
quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp được ghi nhận khá đơn giản, chủ yếu là việc
Chân Lạp sang triều cống Đại Việt.
Quan hệ trong lĩnh vực quân sự diễn ra thường xuyên hơn, chủ yếu là sau thế kỉ
X, nhiều cuộc xung đột lớn nhỏ đã xảy ra ở biên giới Đại Việt mà nước chủ động
gây chiến, xâm lấn là Chân Lạp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành động này,


12

nhưng nguyên nhân chính là do tham vọng bá quyền của các vương triều Chân Lạp.
Trong khi đó, từ thế kỉ X đến XVI, các vua Chân Lạp vì để rảnh tay đối phó với
các nước láng giềng đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hữu hảo với Trung Hoa. Dưới
thời Suryavacman II, Chân Lạp đã tìm cách nối lại quan hệ bang giao với Trung Hoa.
Suryavacman II đã hai lần cử sứ sang nhà Tống vào năm 1116 và 1120 để tỏ tình hòa
hiếu và để rảnh tay gây chiến với hai nước láng giềng là Champa và Đại Việt. Mặc dù
không có tài liệu nào ghi nhận việc Trung Hoa xúi dục Chân Lạp tấn công Đại Việt
nhưng rất có thể các vua Trung Hoa đã khích động hoặc làm ngơ trước những hành

động xâm lấn Đại Việt của Chân Lạp. Có trường hợp, quân Chân Lạp đã phối hợp với
Trung Hoa tấn công Đại Việt (1075 - 1077).
Lịch sử đã cho ta thấy, từ khi hai nước có quan hệ cho đến thế kỉ XVIII, Chân
Lạp là nước chủ động tấn công Đại Việt, còn Đại Việt luôn ở thế đối phó để bảo vệ
biên giới quốc gia. Mỗi khi tình hình Đại Việt lục đục, suy yếu thì Chân Lạp lại
phái quân sang xâm lấn. Thời điểm này, Chân Lạp vẫn liên tục tiến hành các hoạt
động xâm chiếm Đại Việt và kết quả đều bị quan quân Đại Việt đánh bại. Đây được
xem là hành động phản công tự vệ.
Bên cạnh quan hệ ngoại giao - quân sự, quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trên
các lĩnh vực kinh tế - văn hóa cũng được thiết lập và theo xu hướng ngày càng phát
triển. Dưới thời nhà Lý, hai nước đã tiến hành giao lưu văn hóa Phật giáo thông qua
các cuộc tiếp xúc ngoại giao. Mỗi khi Chân Lạp có biến, người Khơme lại lánh nạn
khắp nơi. Đại Việt cũng là nơi được họ tìm đến nương nhờ. Các vua Đại Việt đã tạo
điều kiện giúp đỡ để họ định cư, tạo dựng cuộc sống nơi vùng đất mới.
Giao lưu kinh tế cũng ngày càng phát triển. Nhân dân hai nước đã có những
hoạt động buôn bán, trao đổi sản phẩm với nhau. Quan hệ kinh tế thời kì này diễn ra
một cách tự phát, chưa có sự tham gia quản lí của chính quyền phong kiến Đại Việt
và Chân Lạp.
1.2. Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp dưới triều Lý - Trần – Lê:
Trong quan hệ với Chân Lạp, từ thế kỉ XI đến trước thế kỉ XVI, các vương
triều Đại Việt đều cố gắng thi hành chính sách ngoại giao hòa hiếu, thân thiện
nhưng kiên quyết chống trả những hành động xâm nhiễu biên giới của Chân Lạp.


13

Trong giai đoạn này, Chân Lạp là nước chủ động xâm chiếm nhưng đã không thể tiêu
diệt được Đại Việt. Càng về sau, Đại Việt càng phát triển hưng thịnh; trong khi đó,
Chân Lạp ngày càng suy yếu. Từ những cuộc tấn công tự vệ, phòng thủ, sau khi sáp
nhập Champa, các triều Đại Việt lại tiếp tục chính sách Nam tiến trên vùng đất Chân

Lạp. Đó là quy luật chung của lịch sử thời Trung đại. Chính sách đối ngoại của Đại
Việt với Chân Lạp không chỉ giúp mở mang bờ cõi mà còn quyết định đến sự an nguy,
tồn vong của quốc gia Đại Việt.
Trong quan hệ với các nước láng giềng từ thế kỉ XI đến thế kỉ XVI, Đại Việt
chủ trương thi hành chính sách ngoại giao tích cực: hòa hiếu, thân thiện, mở rộng mối
quan hệ giao hảo tốt đẹp. Chính sách này cũng được áp dụng một cách nhất quán và
đã đem lại hiệu quả trong quan hệ với Champa và Chân Lạp.
Bên cạnh đó, để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, chống lại các tham vọng
bành trướng, nô dịch của các nước láng giềng, các vương triều Đại Việt đã phải tiến
hành nhiều cuộc chiến với Trung Hoa, Champa và Chân Lạp. Người Việt đã kiên
quyết đánh trả những cuộc xâm lấn để bảo vệ đất nước, bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Đại Việt đã đánh bại những kẻ xâm lược mạnh hơn mình về quân sự. Truyền thống
này được lưu giữ và phát huy ở những thế kỉ tiếp theo.
Với những thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống Tống, chống Mông
Nguyên, chống Champa, Chân Lạp, sức mạnh và uy thế của Đại Việt ngày càng
được nâng cao. Nó khiến mối quan hệ giữa Đại Việt với các nước láng giềng cũng bắt
đầu có những thay đổi đáng kể.
Do ảnh hưởng tư tưởng của Trung Hoa, các triều Đại Việt khi phát triển vững
mạnh đã xem các nước nhỏ lân bang ở phía Nam và phía Tây là chư hầu của mình. Từ
những điều kiện lịch sử nhất định, Đại Việt thay đổi từng bước chính sách đối ngoại
với các nước. Đây cũng là quy luật tất yếu của quan hệ “mạnh được yếu thua” trong
thời kì phong kiến.
Về phía Chân Lạp, Dưới thời Xuryavacman I, đế chế Ăng-co hình thành. Nền
thống trị được mở rộng đến tận hạ lưu sông Mênam. Là một quốc gia hùng mạnh và
hiếu chiến, Chân Lạp tiến xa hơn trong việc chinh phạt các quốc gia láng giềng non
trẻ hơn mình, trong đó có Đại Việt. Dưới thời Xuryavacman II, chiến dịch tấn công


14


Đại Việt bắt đầu. Vốn là ông vua khôn ngoan và có nhiều tham vọng, Xuryavacman
củng cố quyền lực bằng cách nối lại mối quan hệ bang giao với Trung Hoa (cử sứ
thần sang Tống để tỏ tình hòa hiếu vào các năm 1116 và 1120) nhằm rảnh tay gây
chiến với hai nước láng giềng là Champa và Đại Việt.Năm 1128, hơn hai vạn quân
Chân Lạp tấn công vùng Nghệ An. Không thu được kết quả, năm 1129, một cuộc
tấn công mới với lực lượng gồm 700 chiến thuyền, đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa đã
diễn ra. Cũng giống như lần đầu, quân Chân Lạp bị quân nhà Lý truy đuổi, gây
nhiều thiệt hại nặng nề. Năm 1138, Xuryavacman II lại tiếp tục tổ chức chiến dịch
mới chống Đại Việt. Tuy nhiên, mọi nỗ lực của các vương triều Chân Lạp trong
việc xâm chiếm Đại Việt đều không có kết quả. Các cuộc hành quân xâm chiếm
đều nhanh chóng bị quân dân Đại Việt đánh bại. Từ đây, chính sách đối ngoại của
Chân Lạp với các nước bắt đầu thu hẹp dần. Chân Lạp chủ yếu thụ động đối phó
thường xuyên trước các cuộc tấn công liên tục của người Thái vào các năm 1295, 1353,
1394, 1430…
Như vậy, xuyên suốt trong khoảng từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIV, đặc điểm chính
sách đối ngoại của Chân Lạp là hiếu chiến, tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược và cướp bóc các quốc gia, bộ lạc láng giềng; mở rộng không ngừng lãnh thổ và
phạm vi ảnh hưởng.
Cũng từ thế kỉ XI, hoàn cảnh lịch sử đã quyết định đến đường lối nội trị và
ngoại giao của Đại Việt với các nước láng giềng. Đại Việt vừa ra khỏi thời kì Bắc
thuộc. Nhiệm vụ hàng đầu của các triều đại cầm quyền là đấu tranh để bảo vệ nền
độc lập. Nhiệm vụ ấy càng phải được coi trọng, nhất là khi biên giới phía Bắc lại
tiếp giáp với một đế chế lớn luôn nuôi tư tưởng bành trướng, nô dịch các quốc gia
dân tộc khác. Ngoài ra, biên giới phía Nam cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ không kém
khi tiếp giáp với quốc gia láng giềng Champa - một vương quốc đã xây dựng được
nhà nước độc lập hùng mạnh trong khu vực và luôn có xu hướng mở rộng lãnh thổ.
Chính điều đó đòi hỏi các triều Đại Việt đã phải thực hiện phương châm xử thế và
sách lược bang giao mềm dẻo, khôn khéo và có hiệu quả.
Trong thời kì này, quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp chủ yếu là quan hệ trong
lĩnh vực ngoại giao và quân sự. Nhiều cuộc xung đột mà Chân Lạp là nước chủ động



15

gây chiến đã diễn ra thường xuyên ở biên giới phía Tây của Đại Việt.
Bên cạnh việc kiên quyết đánh trả các hành động xâm lấn, các triều Đại Việt
luôn thể hiện tinh thần hòa hiếu trong quan hệ với Chân Lạp. Tuy nhiên, đến đầu thời
Trần, Chân Lạp bước vào giai đoạn suy yếu, thường xuyên đối phó với những áp lực
và các cuộc hành quân xâm chiếm của Xiêm; quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp có
lúc bị gián đoạn. Khi quân Mông Nguyên kéo xuống xâm chiếm, cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm của Đại Việt thắng lợi không những giữ vững chủ quyền dân tộc
mà còn ngăn chặn được bước chân tàn phá của quân Mông Nguyên xuống các nước
phía Nam.
1.2.1. Về ngoại giao
Quan hệ ngoại giao giai đoạn này tương đối đơn giản nhưng cũng chứng tỏ hai
nước đã bắt đầu có quan hệ ngoại giao chính thức. Tuy nhiên, đó là mối quan hệ
mang tính một chiều, chủ yếu của Chân Lạp đối với Đại Việt được phản ánh qua việc
Chân Lạp thường xuyên sai sứ giả sang Đại Việt triều cống.
Nước Chân Lạp bước vào giai đoạn thịnh đạt dưới triều Giayavacman VII đã tiến
hành giao hảo với các nước láng giềng và cho sứ sang Đại Việt giao hiếu lần đầu
tiên. Đây có lẽ là hoạt động ngoại giao chính thức đầu tiên của hai nước được thư tịch
cổ Đại Việt ghi chép lại. Đại Việt sử kí tiền biên ghi nhận: “Năm 1012, nước Chân
Lạp đến cống. Nước Chân Lạp ở phía Nam nước Chiêm Thành, cách quận Nhật Nam
đi bằng thuyền 60 ngày mới đến, cách đặt huyện, trấn và phong tục của nước Chân Lạp
cũng giống như nước Chiêm Thành. Tục của nước đó hướng Đông là trên, tay phải là
tay sạch. Sau đời Thần Nghiêu nhà Đường chia làm hai, nửa phía Bắc nhiều núi đồi
gọi là Lục Chân Lạp, nửa phía Nam sát biển nhiều đầm hồ gọi là Thủy Chân Lạp. Đất
của Thủy Chân Lạp là 800 dặm. Vua ở thành Bà La Đề Bạt. Đất Lục Chân Lạp là 700
dặm, quốc hiệu là Hạ Khuất” [26, tr.119]. Như vậy, vào thời điểm này, Đại Việt và
Chân Lạp cách nhau bởi quốc gia láng giềng Champa nằm chắn giữa.

Dưới triều Lý, Chân Lạp tổng cộng đã có 13 lần sứ bộ đến cống tại Đại Việt.
Sau năm 1012, Chân Lạp đều đặn sai sứ sang Đại Việt triều cống theo thông lệ ba năm
một lần. Sách Phương Đình địa chí ghi: “Từ nước ta dựng nước, đến năm thứ ba niên
hiệu Thuận Thiên triều vua Lý Thái Tổ (1013) nước Chân Lạp mới vào cống ba năm


16

một lần” [12, tr.140]. Tuy nhiên, thông lệ này không mang tính cố định mà có sự giao
động về mặt thời gian.
Các tư liệu trên dù ghi chép về mặt thời gian không thống nhất nhưng đều giống
nhau về mặt nội dung, đó là “nước Chân Lạp sang triều cống”. Điều này cho thấy, Chân
Lạp luôn cố gắng thiết lập mối quan hệ bang giao tốt đẹp với Đại Việt. Về phía Đại
Việt, chưa thấy tài liệu nào đề cập đến việc ngoại giao ngược lại. Tuy nhiên, chúng tôi
thấy cần nhìn nhận lại vấn đề, có phải những lần Chân Lạp sai sứ sang Đại Việt là để
“triều cống” theo kiểu thần thuộc hay chỉ đơn thuần là cho sứ giả mang lễ vật giao hảo
theo kiểu ngoại giao thông thường?
Để giải đáp điều này, cần phải quay về bối cảnh lịch sử - xã hội của hai nước. Thế
kỉ X - XIV, Chân Lạp đang ở giai đoạn huy hoàng của thời đại Ăng- co. Sức mạnh
được thể hiện qua nhiều lĩnh vực, trong đó có việc mở rộng cương vực và ảnh hưởng
trên khắp khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó, Đại Việt mới bước đầu thoát khỏi lệ
thuộc của phong kiến phương Bắc, đang từng bước phát triển đất nước. So sánh về
tiềm lực, Chân Lạp nổi bật hơn hẳn Đại Việt. Có lẽ nào Chân Lạp lại đi “triều cống”
một quốc gia thua kém mình về nhiều mặt? Hơn thế nữa, việc “triều cống” thông
thường chỉ xảy ra đối với những nước thắng trận trong những cuộc xâm chiếm sử dụng
sức mạnh quân sự; nhưng các tài liệu chính sử của Đại Việt không hề ghi nhận bất cứ
sự kiện quân sự nào chứng tỏ Đại Việt đem quân đánh chiếm Chân Lạp. Vì vậy, việc
Chân Lạp “triều cống” Đại Việt trong giai đoạn này chỉ đơn giản đó là hành động tỏ
rõ tình giao hiếu thân thiện mà thôi.
Trong những lần sứ Chân Lạp sang chầu, triều cống, Đại Việt luôn đón tiếp

niềm nở và không quên thể hiện uy thế vững mạnh của mình. Tháng 2 năm 1118, vào
dịp sứ nước Chân Lạp đến Thăng Long, gặp lúc triều đình Đại Việt “đặt lễ yến tiệc
mùa xuân và mở hội khánh thành 7 bảo tháp. (Vua Lý) Bấy giờ xuống chiếu cho
Hữu ty bày nghi trượng ở điện Linh Quang, dẫn sứ giả đến xem” [10, tr.443]. Đây là
hành động khôn khéo của vua tôi triều Lý. Một mặt thể hiện việc đón tiếp sứ thần nước
láng giềng long trọng, thân tình; mặt khác làm cho các sứ thần thấy được sự giàu đẹp,
vững vàng của đất nước.
Bên cạnh đó, Chân Lạp từng gửi thư xin Đại Việt cho sứ giả sang nước mình


17

thông sứ. Điều này cho thấy, cho đến thời điểm này ngoài việc tiếp đãi nồng hậu sứ
Chân Lạp, Đại Việt vẫn chưa cho sứ sang thiết lập quan hệ với Chân Lạp. Điều này
hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế: thư tịch cổ Đại Việt giai đoạn này không hề
có bất kì ghi chép nào về việc Đại Việt cho sứ sang Chân Lạp. Tháng 11 năm 1128,
người châu Nghệ An chạy trạm tâu dâng một phong thư của nước Chân Lạp, xin sai sứ
sang nước ấy nhưng vua Lý không trả lời. Điều này có thể lí giải, vì lúc này Đại Việt
đang bước đầu xây dựng, củng cố nền độc lập và hai nước lại cách xa nhau nên chưa
có điều kiện cử sứ sang Chân Lạp; hoặc cũng có thể Đại Việt chưa nắm bắt rõ tình
hình Chân Lạp nên còn e ngại.
Thế kỉ XII, Đại Việt đang trên đà phát triển, từng bước khẳng định địa vị của
quốc gia dân tộc. Một số tộc ít người hoặc những nước nhỏ thường đem người về quy
phục trong đó có người Chân Lạp. Chân Lạp dù trong giai đoạn thịnh đạt nhưng
trong nước vẫn thường xảy ra các cuộc nội loạn, một số người Chân Lạp vì tránh nội
loạn nên đến Đại Việt xin cư trú. Nhà Lý đã không ngần ngại tiếp nhận và tạo điều kiện
cho họ ở lại định cư, làm ăn sinh sống trên lãnh thổ Đại Việt. Đại Việt sử kí tiền biên
và Đại Việt sử kí toàn thư đều ghi: “Quý Mão năm thứ 4 (1123) (Tống Tuyên Hòa
năm thứ 5), mùa hạ, tháng 4, người Chân Lạp đến theo ta (năm này, năm người Chân
Lạp đến theo ta)” [26, tr.256]. Đến tháng 4 năm 1124, “người nước Chân Lạp là Kim

Đinh A Truyền cùng bốn người gia đồng sang quy phục” [10, tr.450].
Bên cạnh những nét chấm phá còn sơ lược về quan hệ ngoại giao, quan hệ của Đại
Việt với Chân Lạp trên lĩnh vực quân sự diễn ra một cách thường xuyên và cụ thể hơn.
Những sự kiện này đều được các nguồn sử liệu của Đại Việt ghi nhận khá đồng nhất.
1.2.2. Quan hệ trên lĩnh vực quân sự
Tình hình nổi bật về quan hệ quân sự giữa hai nước giai đoạn này là việc Chân
Lạp thường xuyên đem quân xâm phạm biên giới Đại Việt. Trong chính sách ngoại
giao, Chân Lạp thực thi chính sách hai mặt. Mặc dù vẫn theo lệ cho sứ triều cống
nhưng Chân Lạp thường lợi dụng sơ hở, đôi lúc còn liên kết với Trung Hoa hay
Chiêm Thành đem quân cướp phá vùng biên cương của Đại Việt.
Năm 1075 - 1077, dưới thời nhà Lý, Chân Lạp bị nhà Tống xúi giục đã liên
minh với Tống để chống Đại Việt. Sau lần thất bại năm 981, nhà Tống vẫn nuôi ý đồ


18

xâm lược nước ta. Năm 1005, lợi dụng Lê Hoàn chết, triều đình diễn ra cảnh tranh
quyền đoạt vị giữa các vị hoàng tử. Nhà Tống muốn nhân cơ hội này đem quân xâm
lược Đại Việt. Tuy nhiên, ý đồ này chưa thể thực hiện vì nhà Tống đang gặp nhiều khó
khăn về nội trị và ngoại giao. Năm 1068, Tống Thần Tông lên cầm quyền. Vương An
Thạch được cử làm Tể tướng. Để mong vượt qua những khó khăn chồng chất về đối
nội (ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn), đối ngoại (hai nước
Liêu, Hạ thường xuyên uy hiếp)”, nhà Tống quyết định xâm lược Đại Việt. Tống Thần
Tông đã trắng trợn tuyên bố “sau khi Giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận huyện mà
cai trị và hãy sung công của cải… Nếu thắng được thì thế Tống sẽ tăng và các nước
Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể” [17, tr.124]. Bên cạnh việc ráo riết chuẩn bị lực lượng, cắt
đứt quan hệ bang giao, nhà Tống còn xúi giục Champa đánh phá vùng biên giới phía
Nam của Đại Việt nhằm làm cho Đại Việt suy yếu, tạo thế “hai gọng kìm”.
Ở Chân Lạp, đây là giai đoạn trị vì của vua Hacxavacman III. Quân Champa và
quân Khơme đã liên kết với nhau theo yêu cầu của nhà Tống đem quân đánh nước

Đại Việt (nhà Lý), phối hợp ở phía Nam”. Chân Lạp hoặc bị xúi bẩy hoặc cũng có
thể là nhà Tống dùng sức ép của “Thiên triều” buộc Chân Lạp phải tham gia; nhưng
nguyên nhân lớn nhất khiến Chân Lạp đồng ý là vì Chân Lạp cũng có ý đồ đối với
Đại Việt. Như vậy, việc Chân Lạp và Champa chấp nhận yêu cầu trên của nhà Tống
là một việc làm dễ hiểu bởi cả hai đều thần phục nhà Tống và đều có mưu đồ xâm
chiếm Đại Việt.
Đại Việt sử kí toàn thư ghi nhận sự kiện này như sau: “Tháng 3 năm 1076, nhà
Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm
phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua
sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được” [10,
tr.428]. Sau thắng lợi oanh liệt tại sông Như Nguyệt, vua tôi nhà Lý đã buộc quân
Tống cùng Chiêm Thành, Chân Lạp phải rút quân ra khỏi bờ cõi Đại Việt; đồng thời
phá tan âm mưu thâm độc của nhà Tống.
Những hoạt động quân sự của Chân Lạp và Champa ngay sau đó đã chứng tỏ
quan điểm trên.
Đầu thế kỉ XII, lợi dụng nhà Lý bước vào giai đoạn suy vong, vua


19

Xuryavacman II đã năm lần đem quân đánh Đại Việt bằng đường biển và đường bộ.
Cũng cần nhấn mạnh thêm, từ năm 1113 đến 1220, Chân Lạp đã đem quân xâm lược,
chiếm đóng và biến Champa thành thuộc địa của mình. Hoàng thân Chân Lạp trực tiếp
cai trị và biến Champa thành một tỉnh của Chân Lạp. Vì thế, thời điểm này, có thể
xem biên giới Đại Việt tiếp giáp với Chân Lạp. Đây là điều kiện thuận lợi để Chân
Lạp cùng với quân Champa (lúc bấy giờ bị Chân Lạp ép buộc) nhiều lần đem quân
xâm phạm biên giới của Đại Việt. Những cuộc chiến tranh giữa Champa - Chân Lạp,
giữa Chân Lạp với các nước láng giềng đã đẩy những người dân nghèo của hai nước
vào vùng lửa đạn. Để tránh vùng chiến sự “may ít rủi nhiều”, tránh nạn bắt lính…
một số bộ phận dân Chân Lạp và Champa đã tìm cách xiêu tán. Đại Việt - quốc gia

láng giềng cận kề lúc bấy giờ đang trên đà phát triển, tình hình chính trị ổn định trở
thành nơi “đất lành chim đậu” cho nhiều bộ phận dân xiêu tán. Triều đình Đại Việt
với tư tưởng “từ bi, bác ái, cứu độ chúng sinh” của đạo Phật đã mở cửa đón nhận, tạo
điều kiện thuận lợi cho những lưu dân này sinh cơ lập nghiệp trên vùng đất mới. Lợi
dụng điều đó, Chân Lạp tiến hành cuộc chiến xâm lấn, cướp bóc vùng biên giới của
Đại Việt vào năm 1128. Lấy cớ Đại Việt chứa chấp người Chân Lạp và Champa lưu
vong, hơn hai vạn quân của vua Xuryavacman II đã vượt qua dãy núi Trường Sơn vào
xâm lấn vùng biên giới Nghệ An của Đại Việt. Quân dân Đại Việt đã kiên quyết
đánh bại quân Chân Lạp, khiến âm mưu của chúng nhanh chóng thất bại. Sự kiện này
được sử Đại Việt ghi lại: “Tháng 1 năm 1128, hơn hai vạn người Chân Lạp vào
cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Vua ban chiếu cho Nhập nội Thái phó là Lý Công
Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh” [10, tr.460]. Cuộc
chiến diễn ra ròng rã trong vòng một tháng. Đến tháng 2, Lý Công Bình đã đánh bại
quân Chân Lạp tại bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Chiến thắng khải
hoàn, Lý Công Bình đem quân trở về và bắt được tổng cộng 169 tù binh. Tin thắng
trận báo về, Vua đã ngự giá đến hai cung Thái Thanh, Cảnh Linh cùng các chùa quán
trong thành làm lễ tạ ơn Phật đã giúp cho quân Đại Việt thắng trận.
Tuy thất bại nhưng Chân Lạp không từ bỏ ý đồ với Đại Việt. Chưa được nửa
năm, vua Chân Lạp lại tổ chức cuộc tấn công lần thứ hai với một lực lượng hùng hậu
hơn mong tìm kiếm một chiến thắng sau nhiều lần thảm bại trước một thế lực yếu
hơn mình. Lần này, một hạm đội gồm bảy trăm chiến thuyền đi theo đường biển đã


20

đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa. “Tháng 8 năm 1128, Chân Lạp vào cướp phá hương Đỗ
Gia (Hà Tĩnh), châu Nghệ An, chúng có đến hơn 700 chiếc thuyền” [10, tr.463]. Hạm
đội này đã đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa và cướp phá sạch cả một vùng. Trước tình
hình đó Vua (Đại Việt) đã ban lệnh cho tướng Nguyễn Hà Viêm ở phủ Thanh Hóa và
Dương Ổ ở châu ấy đem quân đến đánh. Kết quả quân Chân Lạp lại một lần nữa đại

bại. Sau sự kiện này, tháng 11 năm ấy, Chân Lạp đã dâng thư xin Đại Việt thông sứ
nhưng vua Lý không trả lời. Điều này cho thấy, Đại Việt chưa có đối sách cụ thể nào
trong quan hệ với Chân Lạp ngoài việc phòng ngừa, chủ động kiên quyết đánh trả mỗi
khi Chân Lạp đem quân sang xâm lấn.
Sau hai lần tấn công Đại Việt thất bại, vua Chân Lạp lúc này là Xuryavacman II
vẫn quyết tâm xâm lược Đại Việt, cho nên tháng 8 năm 1132, Chân Lạp và Chiêm
Thành đến cướp phá châu Nghệ An. (Vua) xuống chiếu cho Thái úy Dương Anh Nhĩ
đem người ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An đi đánh quân Chiêm Thành và Chân
Lạp
Đại Việt thời Lý - Trần luôn tạo mối bang giao hòa hiếu với các nước láng
giềng, trong đó có Champa. Tuy vậy, Champa vẫn luôn tìm cơ hội xâm phạm lãnh thổ
Đại Việt. Nắm bắt được điều đó, Chân Lạp đã tìm cách phối hợp, liên kết với quân
Champa để đánh phá nước ta. Tuy nhiên, việc năm 1132, Champa phối hợp với Chân
Lạp đánh Đại Việt có lẽ không nằm trong bối cảnh đó. Từ năm 1113 đến năm 1220
vương quốc Chân Lạp trên bước đường mở rộng quyền lực của đế chế Ăng-co, tranh
bá quyền trong khu vực. Sau khi hoàn thành việc chinh phục phía Tây liền chuyển
hướng sang chinh phục phía Đông, và Champa là đối tượng đầu tiên. Nhiều cuộc
chiến tranh xâm lấn lẫn nhau đã xảy ra mà các sử gia phương Tây thường gọi là “cuộc
chiến trăm năm”. Chân Lạp thường xuyên mang quân quấy phá biên giới Champa; trở
thành kẻ thù trực tiếp nguy hiểm nhất của Champa. Vậy tại sao Champa lại liên kết với
Chân Lạp tấn công Đại Việt trong khi Champa đang rất cần Đại Việt giúp sức hay đơn
giản hơn là giữ thái độ trung lập trong việc chống Chân Lạp? Hơn nữa, quan hệ Việt Chăm giai đoạn này khá êm thấm bằng chứng là đến năm 1130, vua Champa vẫn sai
sứ sang cống Đại Việt. Có lẽ Chân Lạp đã dùng sức mạnh quân sự uy hiếp Champa
buộc Champa phải cử binh đánh Đại Việt. Quân Đại Việt đã đánh tan liên quân hai


21

nước năm 1132.
Dù chưa lần nào giành thắng lợi nhưng Chân Lạp vẫn luôn nuôi ý định với Đại

Việt. Lợi dụng việc phòng ngự biên giới của Đại Việt lỏng lẻo; hơn nữa Chân Lạp
càng có điều kiện dòm ngó Đại Việt khi lúc bấy giờ, bức tường ngăn cách giữa hai
nước là Champa đang bị Chân Lạp thường xuyên đem quân xâm chiếm. Các tướng
của Chân Lạp đã đem quân cướp phá vùng biên giới Đại Việt vào năm 1137. Vua Lý
lại xuống chiếu cho Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Phá Tô Lăng đại bại
phải rút quân về nước. Sau lần này, tình hình biên giới ở vùng Nghệ An tạm yên ổn
trong hơn mười năm. Sau khi hạ thành Vijaya của Champa năm 1145, tháng 9 năm
1150, người Chân Lạp lại chuẩn bị đem quân đến cướp châu Nghệ An; nhưng khi đến
núi Vụ Thấp gặp điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nắng nóng ẩm thấp, binh lính
mắc nhiều bệnh tật, phần nhiều chết vì lam chướng nên tự tan vỡ. Kế hoạch xâm chiếm
Đại Việt một lần nữa gặp thất bại.
Trong khoảng thời gian tiếp theo gần 70 năm, quan hệ hai nước được ghi nhận
bằng những lần triều cống của Chân Lạp mà không xảy ra một cuộc xâm lấn nào.
Mãi cho đến năm 1216, lợi dụng nội bộ triều đình nhà Lý của Đại Việt đang
trong thời kì suy yếu, nội bộ tranh quyền đoạt lợi, trong nước nổi dậy khắp nơi,
quân Chân Lạp và Champa dưới sự chỉ huy của các tướng Chân Lạp đã tổ chức các
cuộc tấn công mới. Vào thời điểm này, Chiêm Thành đã trở thành “thuộc địa” của
Chân Lạp, nên việc quân Chiêm Thành buộc phải liên kết với Chân Lạp để đánh phá
Đại Việt là điều dễ hiểu. Kết quả liên quân hai nước đã bị Châu bá châu Nghệ An là
Lý Bất Nhiễm đánh bại.
Từ 1216 cho đến trước thế kỉ XVI, lịch sử Đại Việt không ghi nhận thêm một
quan hệ nào về mặt quân sự của hai nước. Việc Chân Lạp rút lui, từ bỏ quyền lực của
mình ở Champa đồng nghĩa với việc từ bỏ tham vọng bá quyền đối với Đại Việt.
Ngược lại đến thế kỉ XVI, Chân Lạp phải từng bước nương nhờ và phụ thuộc vào Đại
Việt.
Thế kỉ XIII, đế chế Mông - Nguyên thành lập, đe dọa độc lập chủ quyền của các
dân tộc ở Đông Nam Á. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi của nhân dân Đại
Việt không những bảo vệ độc lập của dân tộc mình mà còn gián tiếp bảo vệ các nước



22

phía Nam trong đó có Chân Lạp thoát khỏi bước chân tàn phá của vó ngựa Mông Cổ.
Sự khủng hoảng, suy tàn của Chân Lạp trong các thế kỉ XIV - XVI là nguyên
nhân chủ yếu khiến quan hệ hai nước bị gián đoạn.
Bên cạnh quan hệ quân sự - ngoại giao, quan hệ kinh tế - văn hóa của Đại Việt với
Chân Lạp giai đoạn này dù không được sử sách ghi lại nhiều nhưng qua một vài sự kiện
trong các tài liệu thư tịch cổ cũng chứng tỏ đã được thiết lập và bước đầu phát triển.
Nhân dân hai nước đã có những hoạt động giao lưu, buôn bán, trao đổi sản phẩm và
giao lưu văn hóa với nhau dù có sự ngăn cách về mặt địa lí.
Theo nguồn thư tịch cổ, mối quan hệ thông thương giữa Đại Việt và Chân Lạp đã
có từ rất lâu đời và liên tục phát triển trong quá trình lịch sử. Dưới thời Lý - Trần,
thương cảng Vân Đồn nổi tiếng của Đại Việt là nơi thu hút thuyền buôn các nước đến
buôn bán, trong đó có thuyền buôn của Chân Lạp.
Trong tác phẩm Vân đài loại ngữ Lê Quý Đôn cho biết, đời nhà Trần, thuyền
buôn các nước thông thương đến Đại Việt. Nhiều sản vật của các nước láng giềng
xuất hiện ở Đại Việt. Gấm, chim ưng, cá sấu, ngà voi, trầm hương, bạch đàn của
Miên - Lào, không thiếu thứ gì; đều là những thứ đời sau ít có. Thương nhân các
nước Chân Lạp, Lào mang những sản vật ấy sang Đại Việt để đổi lấy những sản
phẩm nổi tiếng của nhà Lý - Trần như: nón Ma Lôi, vải Cát Bá, sứ Bát Tràng. Ngoài
ra, họ còn dùng vàng bạc để làm vật trung gian trao đổi [5, tr.157]. Vùng Thạch Hà
(Hà Tĩnh), ngày xưa thường họp chợ phiên theo chu kì 10 ngày một lần; nhân dịp này,
các lái buôn Chân Lạp mang trâu bò sang bán cho người Việt rồi mua những đồ dùng
bằng sắt và vũ khí mang về.
Lê Quý Đôn còn cho biết: “phía tây trấn Nghệ An của Đại Việt thông sang các
nước Bồn Man, Lão Qua, Cao Miên. Dân các nước ấy cũng thường đem trâu bò
sang bán cho dân Đại Việt” [5, tr.157].
Những sự kiện trên ít nhiều cho thấy, từ rất sớm, cư dân Đại Việt và Chân Lạp đã
có sự thông thương, trao đổi, buôn bán với nhau.
Bên cạnh đó, giữa hai nước cũng từng có mối quan hệ giao lưu về mặt văn hóa

- tư tưởng. Giai đoạn này, cả Đại Việt và Chân Lạp đều sùng chuộng đạo Phật. Ở Đại
Việt, Phật giáo được du nhập vào từ thời Bắc thuộc. Trong các thế kỉ XI - XIV, Phật


23

giáo trở thành quốc giáo. Giao lưu văn hóa Phật giáo giữa hai nước được xúc tiến song
song với các hoạt động ngoại giao. Trong các đoàn sứ giả ngoại giao của Chân Lạp
sang Đại Việt thường có các nhà sư đạo Balamôn đi theo để giao lưu văn hóa.
Như vậy, nhìn chung quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp giai đoạn này tương đối
đơn giản và mang tính một chiều nghiêng về phía Chân Lạp. Mối quan hệ đó diễn ra
trên nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu vẫn là mối quan hệ trên lĩnh vực quân sự và ngoại
giao. Dù sử Đại Việt không ghi lại nhiều việc quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp
nhưng qua những sự kiện trên, chúng ta có thể thấy: một mặt Đại Việt luôn duy trì
mối quan hệ bang giao hòa hảo, thân thiện với Chân Lạp, mặt khác luôn kiên quyết
chống trả những hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, đánh bại mọi cuộc hành
quân xâm lấn của Chân Lạp. Lịch sử cho thấy, Đại Việt dù khước từ việc cử sứ giả
sang Chân Lạp thông sứ nhưng lại tiếp nhận tất cả những lần Chân Lạp cử sứ giả
sang giao hảo, triều cống. Đại Việt luôn đối đãi thân tình, đón tiếp trọng hậu với các
sứ thần Chân Lạp.
Ngược lại, trong quan hệ với Đại Việt, Chân Lạp thi hành chính sách hai mặt:
một mặt giữ quan hệ triều cống láng giềng thân thiện, mặt khác lợi dụng mọi cơ
hội, thường xuyên đem quân vào quấy phá, cướp bóc, bắt dân ở vùng biên giới của Đại
Việt. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIII, có lúc phối hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp đã
nhiều lần đem quân đánh phá vùng châu Nghệ An nhưng kết quả đều thất bại.
Tóm lại, quan hệ Đại Việt với Chân Lạp đến thế kỉ XVI tương đối đơn giản.
Các triều Đại Việt thi hành nhất quán chính sách hòa hiếu nhưng kiên quyết chống trả
các hành động chống phá của Chân Lạp. Hai nước diễn ra nhiều cuộc tiếp xúc ngoại
giao, trao đổi tặng vật cho nhau. Mặc dù Chân Lạp có nhiều hoạt động quân sự đối với
Đại Việt nhưng nhìn chung đó là những cuộc tấn công có quy mô nhỏ, mục đích là

cướp phá vùng biên giới của Đại Việt. Các triều Đại Việt đã kiên quyết đánh bại các
cuộc xâm lược của Chân Lạp nhằm bảo vệ vùng biên giới của quốc gia và khẳng
định sức mạnh của mình trước một nước láng giềng hùng mạnh. Quan hệ của Đại Việt
với Chân Lạp đến thế kỉ XVI nhìn chung diễn ra tốt đẹp.
1.3. Quan hệ Đại Việt - Chân Lạp dưới thời Trịnh - Nguyễn
Từ thế kỉ XVI - XVIII, Đại Việt rơi vào tình trạng chia cắt bởi các cuộc nội


24

chiến của các tập đoàn phong kiến: Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn. Khi chính quyền các
Chúa Nguyễn được thành lập ở Đàng Ngoài, quan hệ với Chân Lạp được các Chúa tiếp
nối một cách thường xuyên, liên tục và thể hiện chặt chẽ trên tất cả các mặt. Nó thể
hiện theo một quá trình: từ quan hệ hòa hiếu, thân thiện, Chân Lạp ngày càng phụ
thuộc chặt chẽ vào Đại Việt, thần phục Đại Việt; trong khi đó Đại Việt dần trở thành
tôn chủ đối với Chân Lạp và cuối cùng là bảo hộ luôn Chân Lạp.
Thế kỉ XVII, quan hệ của hai nước chính thức được nối lại sau cuộc hôn nhân
chính trị của vua Chey Chettha II và công nương Ngọc Vạn năm 1620. Từ đây, quan
hệ của Đại Việt (chủ yếu là quan hệ của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn) với Chân
Lạp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và diễn ra trên nhiều lĩnh vực.
Chính sách ngoại giao hòa hiếu được tiếp tục duy trì. Đại Việt đã nhiều lần
giúp Chân Lạp chống lại Xiêm La, ổn định tình hình nội trị. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch
sử hai nước và tác động của bối cảnh khu vực lúc bấy giờ, quan hệ Đại Việt với
Chân Lạp cũng đã có sự thay đổi. Nhiều yếu tố mới phát sinh, chi phối mạnh mẽ mối
quan hệ này. Đó là chính sách mở đất của các chúa Nguyễn, là sự suy yếu trầm trọng
của Chân Lạp và chính sách bá quyền của phong kiến Xiêm La.
Sau một thời gian gián đoạn, mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp được nối
lại bắt đầu bằng cuộc hôn nhân chính trị của hai quốc gia. Vào năm 1620, chúa Nguyễn
Phúc Nguyên đã gả con gái của mình là công nương Ngọc Vạn cho Quốc vương
Chân Lạp Chey Chettha II (1618 - 1628). Đối với Chân Lạp, việc kết thâm giao với

chúa Nguyễn nhằm mục đích dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang
rất mạnh làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Nhờ đồng minh với chúa Nguyễn, vua Chân
Lạp đã đẩy lui được hai cuộc xâm lăng của Xiêm La vào các năm 1621 và 1623. Với
chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có
mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên vùng đất phía
Nam. Dưới sự bảo trợ của hoàng hậu Ngọc Vạn, cư dân Việt từ vùng Thuận - Quảng
vào sinh sống làm ăn ở lưu vực sông Đồng Nai ngày một đông thêm. Chỉ ba năm
sau, năm 1623, một phái đoàn sứ thần của triều đình Huế đã tới kinh đô Udong yết
kiến vua Chey Chettha II, dâng lễ vật trọng hậu và xin nhà vua cho phép dân Việt
được mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân ở Prey Kôr. Nhờ có sự


25

giúp sức của hoàng hậu Ngọc Vạn, lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn đã được vua
Chey Chettha chấp thuận. Thành công ngoại giao đầu tiên này có ý nghĩa hết sức to
lớn. Về phía nhân dân, trên danh nghĩa người Việt được phép sinh sống tại khu vực
Prey Kôr, song thực tế nó đã khởi đầu cho một cuộc di dân xâm thực không ngừng của
người Việt vào vùng đất hứa bao la, tài nguyên phong phú, sông ngòi chằng chịt,
giao thông thuận lợi và quan trọng hơn là không gặp khó khăn trở ngại nào lớn từ
phía chính quyền và nhân dân Chân Lạp. Về phía chính quyền Đại Việt, mối lương
duyên của công nương Ngọc Vạn và vua Chey Chettha đã bước đầu khẳng định thế
mạnh của các chúa Nguyễn, thiết lập một mối quan hệ hữu hảo đồng minh - láng
giềng và quan trọng nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho việc Nam tiến của mình.
Năm 1674, Chân Lạp bị chia thành hai khu vực với hai vị vua cai trị: Chính Quốc
Vương (đóng ở U Đông) và Phó Quốc Vương (đóng ở Sài Gòn). Cả hai đều tỏ ra cung
thuận và triều cống Chúa Nguyễn. Tình trạng một nước hai vua, một xứ hai mặt trời
của Chân Lạp kéo theo một mối quan hệ chằng chéo mới của hai thế lực phong kiến
đều đang có tham vọng bành trướng thế lực tại đây, đó là Đại Việt và Xiêm La. Từ
năm 1674 đến năm 1688, cuộc tranh giành quyền lực giữa Nặc Ông Nộn và Nặc Ông

Thu kéo Đại Việt và Xiêm La vào cuộc. Nặc Ông Nộn được chúa Nguyễn và lưu dân
Việt trợ giúp, còn Nặc Ông Thu dựa vào quân Xiêm. Mối quan hệ tay ba Việt - Xiêm Chân Lạp chính thức bắt đầu.
Đầu năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho lập “đồn dinh” ở Tân Mỹ (giữa Sài
Gòn ngày nay) để bảo vệ lưu dân và yểm trợ cho phó vương Nặc Ông Nộn. Cùng thời
gian này, vì không muốn thần phục nhà Thanh, một số trung thần của triều Minh là
Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình... đã đưa 3000
quân cùng gia quyến trên 50 chiếc tàu sang xin làm con dân chúa Nguyễn, vì dân Nam
cũng để tóc dài và trung thành với đạo Khổng Mạnh như họ. Chúa Nguyễn rơi vào
tình trạng khó xử, nhưng cuối cùng đã cho nhóm Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến
lên sinh sống ở Mỹ Tho; nhóm của Trần Thượng Xuyên lên vùng Đồng Nai. Họ chỉ là
thiểu số tới sau nhưng mau chóng hòa nhập với đa số người Việt đã tới trước và cùng
nhau đổ mồ hôi, xương máu khai phá vùng đất mới này.
Việc xuất hiện của những trung thần triều Minh góp phần giúp cho việc mở


×