Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Thực trạng kế toán chi phí kinh doanh và tính giá thành sản phẩm vận tải trong các doanh nghiệp vận tải hàng không

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.24 KB, 144 trang )

LờI NóI ĐầU
1 . Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, cơ chế quản lý
kinh tế tài chính có nhiều thay đổi, họat động kinh doanh vận tải
hàng không ở nước ta đang có nhiều đổi mới, đòi hỏi các công cụ
quản lý kinh tế nói chung và kế toán nói riêng phải cải tiến, hoàn
thiện để đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới.
Tổ chức kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải
giữ một vị trí hết sức quan trng trong công tác kế toán ở các
doanh nghiệp vận tải hàng không. Nó cung cấp tài liệu chi phí
kinh doanh và giá thành sản phẩm để tiến hành phân tích , đánh
giá tình hình thực hiện các định mức vật tư, lao động, tình hình
thực hiện các dự toán chi phí. Từ đó tăng cường các biện pháp
kiểm tra, quản lý chặt chẽ các chi phí vận tải một các kịp thời ,
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, tổ chức kế toán chi
phí và tính giá thành sản phẩm vận tải hàng không luôn là sự
quan tâm của các doanh nghiệp này và cũng là sự quan tâm của
các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước. Với xu hướng ngày
càng phát triển và hoàn thiện của nền kinh tế thị trường ở nước
ta, các quan điểm về chi phí, giá thành sản phẩm vận tải hàng
không và phương pháp kế toán như trước đây không còn phù hợp
nữa, cần phải sửa đổi, bổ sung, cải tiến và hoàn thiện kịp thời.
Việc nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
là một tất yếu khách quan. Do đó, nghiên cứu cải tiến và hoàn
thiện nội dung, bản chất, phạm vi, phân loại chi phí và giá thành
sản phẩm vận tải hàng không cũng như phương pháp kế toán chi
phí và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp vận tải
hàng không là một vấn đề cần thiết, có tác dụng góp phần hoàn
thiện cơ chế quản lý kinh tế, tài chính và các chính sách kinh tế
có liên quan trong lĩnh vực vận tải hàng không,
Về mặt thực tiễn thời gian qua, kế toán chi phí giá thành sản


phẩm trong các doang nghiệp vận tải hàng không đã phát huy
đựơc những tác dụng nhất định trong quản lý. Song, các quan
điểm và phương pháp kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm
vận tải hàng không chưa có sự thống nhất, chưa phản ánh đúng
chi phí thực tế, làm cho kế toán chi phí và tính giá thành sản
1


phẩm vận tải hàng không, chưa là cơ sở tin cậy để đánh giá kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc tổ chức
đúng đắn quá trình Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm
vận tải trong các doanh nghiệp vận tải hàng không đang là một
yêu cầu bức xúc trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở phân tích về lí luận và vận dụng lí luận vào thực
tiễn ở các doanh nghiệp vận tải hàng không, nhằm bổ sung những
vấn đề mới về lí luận kế toán chi phí và tính giá thành vận tải
hàng không, hoàn thiện hệ thống chế độ kế toán doanh nghiệp,
hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành vận tải trong các
doanh nghiệp vận tải hàng không.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu và phân tích những vấn đề
lí luận và thực tế về chi phí vận tải, kế toán chi phí vận tải và tính
giá thành sản phẩm vận tải trong các doanh nghiệp vận tải hàng
không.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở
phương pháp luận và các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng Mác-xit, sử dụng phép biện chứng duy vật làm nền tảng.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu các

nội dung của đề tài gồm: phương pháp hệ thống, phương pháp tư
duy có phân tích, chọn lọc để hệ thống hoá các quan điểm khác
nhau về bản chất, nội dung, phạm vi, phân loại chi phí vận tải
hàng không, kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải
hàng không, từ đó rút ra bản chất của vấn đề. Ngoài ra còn sử
dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, kiểm chứng……
5.Những thành công và đóng góp mới của đề tài :
- Luận văn đã phân tích, hệ thống hoá các vấn đề lí luận về
kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải hàng không
trong các doanh nghiệp vận tải hàng không. Các lí luận này là cơ
sở quan trọng để giải quyết những vấn đề thực tế đòi hỏi.
- Khảo sát thực tế về kế toán chi phí và tính giá thành sản
phẩm ở một vài doanh nghiệp vận tải hàng không. Có những
2


đánh giá khách quan về thực tế đó và phân tích những nguyên
nhân cơ bản trong quá trình thực hiện công tác kế toán chi phí và
tính giá thành ở các doanh nghiệp này.
- Luận văn đã đề xuất các giải pháp cơ bản hoàn thiện kế
toán chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải hàng không. Đặc
biệt luận văn xây dựng mô hình kế toán quản trị áp dụng cho các
doanh nghiệp vận tải hàng không.
6. Bố cục của luận văn:
Với mục đích, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
trên, ngoài lời nói đầu và kết luận , luận văn được kết cấu thành 3
chương:
CHƯƠNG 1: Lí luận về kế toán chi phí kinh doanh và tính giá
thành sản phẩm vận tải hàng không.
CHƯƠNG 2: Thực trạng kế toán chi phí kinh doanh và tính

giá thành sản phẩm vận tải trong các doanh nghiệp vận tải
hàng không.
CHƯƠNG 3: Phương hướng hoàn thiện kế toán chi phí kinh
doanh và tính giá thành sản phẩm vận tải trong các doanh
nghiệp vận tải hàng không.
CHƯƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ KINH DOANH
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI HÀNG
KHÔNG.
1.1. CHI PHÍ KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
VẬN TẢI HÀNG KHÔNG.
1.1.1.Nội dung chi phí vận tải và phân loại chi phí vận tải
hàng không.
1.1.1.1.Nội dung chi phí vận tải hàng không :
Vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, không sản
xuất ra những sản phẩm hữu hình, không tạo ra giá trị sử dụng
3


mới cho xã hội, sản phẩm của vận tải là việc vận chuyển hành
khách và hàng hóa từ địa điểm này đến địa điểm khác. Cũng như
các ngành sản xuất kinh doanh khác, ngành vận tải cũng phải có
đầy đủ ba yếu tố cơ bản là sức lao động, đối tượng lao động và tư
liệu lao động. Song do tính chất đặc biệt của ngành vận tải nên
đối tượng lao động vận tải cũng có tính chất đặc biệt khác với
ngành sản xuất khác đó là hành khách và hàng hóa mà quá trình
vận chuyển không làm thay đổi tính chất lý hóa của đối tượng lao
động đó. Sự tham gia của các yếu tố sản xuất vào quá trình sản
xuất kinh doanhở các doanh nghiệp có khác nhau và hình thành
nên các yếu tố chi phí tương ứng. Để tăng cường hiệu lực của

công tác quản lý, sử dụng thông tin hạch toán chi phí vận tảivào
giá thành sản phảm vận tải có hiệu quả phải hiểu được một cách
sâu sắc bản chất của chi phí vận tải và giá thành sản phẩm vận
tải. Thực tế hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về bản
chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất, kinh doanh và giá
thành sản phẩm. Để đi đến thống nhất về vấn đề này, trước hết
cần phải phân biệt được giữa chi phí với chi tiêu
Chi phí vận tải là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao
phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết
khác mà doanh nghiệp đã thực tế chi ra cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nói như vậy
không phải mọi khoản chi ra trong kỳ đều là chi phí kinh doanh
mà chỉ những khoản chi ra để kinh doanh sản phẩm vận tải hoặc
thực hiện các lao vụ, dịch vụ của doanh nghiệp.
Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản và
tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích
nào. Toàn bộ chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm: Chi
tiêu cho quá trình cung cấp mua nhiên liệu, công cụ dụng cụ, tài
sản cố định…chi tiêu cho việc sản xuất, kinh doanh, chi tiêu cho
các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Xét trong một kỳ hạch toán thì có những khoản chi tiêu của
doanh nghiệp lại không được tính là chi phí, bên cạnh đó có
những khoản chi tính vào chi phí kinh doanh nhưng lại không
phải là chi tiêu trong kỳ đó như những khoản chi phí phải trả, chi
phí trả trước phân bổ trong kỳ…

4


Giữa chi phí vận tải và chi tiêu có mối quan hệ mật thiết với

nhau. Biểu hiện của mối quan hệ đó là : chi tiêu là cơ sở phát sinh
của chi phí, không có chi tiêu thì không có phát sinh chi phí.
Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá
trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng cho quá trình kinh doanh tính
vào kỳ hạch toán. Chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về mặt
lượng mà còn khác nhau về thời điểm phát sinh, vì có những
khỏan chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí ( chi mua
nguyên liệu nhưng chưa sử dụng trong kỳ ). Mặt khác, có những
khoản ghi vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu ( chi phí
trích trước ). Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa chi phí và
chi tiêu trong các doanh nghiệp là vì đặc điểm, tính chất vận động
và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá
trình sản xuất kinh doanh và yêu cầu về kỹ thuật hạch toán
chúng.
Như vậy, chi phí vận tải là toàn bộ các khoản chi mà doanh
nghiệp vận tải phải tiêu dùng trong một kỳ kinh doanh để thực
hiện quá trình kinh doanh tạo ra sản phẩm vận tải. Thực chất của
chi phí là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất, kinh
doanh trong kỳ vào đối tượng tính giá thành, cụ thể là sản phẩm
vận tải.
1.1.1.2.Phân loại chi phí vận tải hàng không :
Về lí luận cũng như thực tiễn đều cho thấy chi phí trong các
doanh nghiệp vận tải bao gồm nhiều loại khác nhau, mỗi loại có
những tính chất khác nhau, có công dụng khác nhau và yêu cầu
quản lý cũng khác nhau. Để quản lý chi phí vận tải một cách chặt
chẽ, tiết kiệm và hạ gía thành sản phẩm vận tải hành không, đảm
bảo cho công tác kế toán chi phí vận tải hàng không được thuận
lợi thì cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí vận tải hàng
không một cách khoa học, hợp lý.
Việc phân loại chi phí vận tải là nội dung quan trọng nhất

cần phải thực hiện để phục vụ cho việc tổ chức theo dõi, tập hợp
chi phí vận tải để tính được giá thành sản phẩm và kiểm soát chặt
chẽ các loại chi phí vận tải phát sinh.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý của doanh nghiệp và hạch toán
chi phí kinh doanh theo từng nội dung cụ thể, từng đối tượng tập
5


hợp chí phí vận tải, từng đối tượng tính giá thành thì phải phân
tích chi phí một cách khoa học theo những tiêu thức nhất định.
Phân loại chi phí vận tải là việc căn cứ vào tiêu thức khác
nhau để phân chia chi phí vận tải thành các loại, các nhóm khác
nhau theo những đặc trưng nhất định.
Phân loại chi phí vận tải phải đảm bảo những yêu cầu nhất
định phục vụ tốt cho công tác quản lý chi phí vận tải, đó là :
+ Rõ ràng, dễ hiểu, dễ làm, thuận tiện cho việc kiểm tra,
kiểm soát các chi phí phát sinh.
+ Thuận lợi cho công tác hạch toán chi phí vận tải, tính giá
thành sản phẩn nói riêng và công tác tổ chức hạch toán kế toán
nói chung, thúc đẩy hạch toán nội bộ.
+ Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho quản lý, làm
cơ sở nhà quản lý ra quyết định kinh doanh đúng đắn.
+ Tiết kiệm chi phí lao động đến mức thấp nhất trong công
tác hạch toán chi phí vận tải và tính giá thành sản phẩm.
+ Thuận tiện cho việc tổ chức công tác hạch toán chi phí
vận tải trong điều kiện ứng dụng công nghệ tin học.
Xét về mặt lý luận cũng như trên thực tế, có nhiều cách
phân loại chi phí khác nhau cùng tồn tại, bổ sung cho nhau và giữ
vai trò nhất định trong quản lý chi phí vận tải , tính giá thành sản
phẩm. Dưới đây là một số cách phân loại trong hạch toán chi phí

kinh doanh và tính giá thành sản phẩm vận tải.
a.Phân loại chi phí vận tải hàng không theo tính chất kinh tế :
Theo cách phân loại này chi phí vận tải phát sinh có cùng
nội dung kinh tế được sắp xếp chung vào một yếu tố bất kể là nó
phát sinh ở bộ phận nào, dùng để sản xuất ra sản phẩm gì
Chi phí vận tải phân thành 07 yếu tố như sau :
+ Yếu tố nguyên liệu, vật liệu : Bao gồm toàn bộ giá trị các
loại nguyên liệu , vật liệu chính, vật liệu phụ và vật liệu khác mà
doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động kinh doanh trong kỳ(
loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi )
+ Yếu tố nhiên liệu, động lực : Bao gồm toàn bộ giá trị
nhiên liệu, động lực sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong kỳ
(loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi )
+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp tiền lương : Bao
gồm toàn bộ số tiền công, tiền lương và các khoản phụ cấp có
6


tính chất lương phải trả cho công nhân và nhân viên tham gia
hoạt đông kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp theo qui định
của chế độ hiện hành.
+ Yếu tố trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn được trích trên tổng số tiền lương và phụ cấp của công
nhân viên.
+ Yếu tố khấu hao tài sản cố định : Phản ánh toàn bộ số
khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của các tài sản cố
định sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Yếu tố chi phí bằng tiền khác: bao gồm toàn bộ chi phí
khác dùng cho hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp chi trả
trực tiếp bằng tiền ngoài các yếu tố chi phí trên.

Phân loại chi phí theo tiêu thức này cho biết trong quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp đã phải bỏ ra những loại chi phí gì,
mỗi loại là bao nhiêu, tỷ trọng từng yếu tố chi phí kinh doanh
trong cấu thành các yếu tố kinh doanh, phục vụ cho việc lập bảng
thuyết minh báo các tài chính và là cơ sở để kiểm tra, phân tích,
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch va định mức kinh tế về chi
phí .
Trên phương diện quản lý vĩ mô, phân loại chi phí theo yếu tố là
cơ sở để xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, huy động
sử dụng lao động đồng thời tính mức tiêu hao vật chất và thu
nhập Quốc dân.
b.Phân loại chi phí vận tải hàng không theo khoản mục giá
thành :
Theo tiêu thức phân loại này, chi phí vận tải hàng không
được phân chia thành 03 khoản.
-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là toàn bộ chi phí nguyên
liệu nhiên liệu được sử dụng trực tiếp để thực hiện hoạt động bay
vận chuyển hành khách và hàng hóa.
-Chi phí nhân công trực tiếp là các chi phí trả cho tổ lái và
tiếp viên như tiền lương, các khoản phục cấp, các khoản trích
theo lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công
đoàn.
-Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí trực tiếp
khác sử dụng cho hoạt động vận chuyển khách và hàng hóa như
7


chi phí quản lý của các tổ, đội, khấu hao tài sản cố định dùng
chung cho hoạt động vận chuyển và các chi phí khác bằng tiền.
Theo tiêu thức này, có ý nghĩa đảm bảo xác định đúng đắn

nội dung các khoản chi phí phát sinh, liên quan trực tiếp đến sản
phẩm hoàn thành, làm cơ sở cho kế hoạch tập hợp chi phí và tính
giá thành sản phẩm vận tải hàng không theo hệ thống kế toán
hiện hành của Việt Nam.
c.Phân loại chi phí vận tải hàng không theo mối quan hệ giữa
chi phí với doanh thu vận tải.
Theo tiêu thức phân loại này, chi phí vận tải được phân chia
thành hai loại đó là: Chi phí cố định (còn gọi là chi phí bất biến)
và chi phí biến đổi (còn gọi là chi phí khả biến)
+ Chi phí cố định: là những khoản chi phí không thay đổi
hoặc thay đổi không đáng kể, khi có sự biến động tăng hay giảm
doanh thu vận tải, nhưng tỷ suất chi phí tính cho một đồng doanh
thu thì thay đổi theo chiều ngược lại. Ví dụ như khấu hao phương
tiện vận tải tính theo phương pháp khấu hao tuyến tính. Đương
nhiên việc tăng, giảm của tỷ suất chi phí cố định còn phụ thuộc
vào tốc độ tăng, giảm của chi phí cố định và doanh thu vận tải.
+ Chi phí biến đổi: là những khoản chi phí thay đổi tương
quan tỷ lệ thuận với doanh thu vận tải, nhưng tỷ suất chi phí tính
cho một đồng doanh thu không thay đổi. Ví dụ như chi phí nhiên
liệu, chi phí phụ tùng thay thế…
Việc phân loại chi phí vận tải thành chi phí cố đinh và chi
phí biến đổi chỉ mang tính chất tương đối. Trong điều kiện doanh
nghiệp trang bị thêm cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện thì chi
phí cố định có thể tăng lên đột ngột, vì thế chi phí cố định còn có
thể bao gồm chi phí cố định tuyệt đối và chi phí cố định tương
đối.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với doanh thu vận tải có
ý nghĩa quan trọng trong tổ chức công tác kế toán quản trị chi
phí.
Mối quan hệ giữa chi phí vận tải với doanh thu vận tải có

thể khái quát bằng sơ đồ sau :
Sơ đồ số 01 trang 10
8


Sơ đồ số 01
SƠ Đồ QUAN Hệ GIữA CHI PHí VậN TảI VớI DOANH
THU VậN TảI
Loại chi phí

Số tiền chi phí

Tỷ suất chi phí ( % )

Chi phí cố định

Cố định

Thay đổi theo chiều
ngược

Chi phí biến đổi

Thay đổi theo chiều
thuận

Cố định

d.Phân loại chi phí vận tải theo tính chất chi phí lao động :
Theo phương pháp này, chi phí được phân thành chi phí lao

động quá khứ và chi phí lao động sống. Cách phân loại này
thường chỉ được áp dụng trong quản lý vĩ mô của nhà nước, ít khi
được sử dụng trong tài chính doanh nghiệp.
Đối với một hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất đơn
giản, khi mà người sản xuất chỉ có các chi phí trả cho việc xây
dựng nhà, xưởng ( khu vực sản xuất và hành chính ) , mua sắm
máy móc và trang thiết bị, nguyên liệu, vật liệu và các chi phí
lương trả cho người lao động ( lao động trực tiếp sản xuất và lao
động quản lý) thì việc phân biệt chi phí lao động quá khứ và lao
động sống là rõ ràng. Tuy nhiên, điều này sẽ trở nên phức tạp hơn
khi người sản xuất mua, thuê nhiều đầu vào mang tính chất dịch
vụ , sử dụng lao động thuê ngoài ( dưới hình thức hợp đồng thuê
lao động hay hợp đồng thuê cung ứng một số dịch vụ mà về bản
chất cũng như thuê lao động ) có các chi phí khác nhau trả cho
người lao động ngoài tiền lương thông thường. Lúc này, việc xác
định đâu là chi phí lao động sống, đâu là chi phí lao động quá
khứ của doanh nghiệp không còn rõ ràng, hiển nhiên nữa.
9


Vận tải hàng không có thể là một loại hình sản xuất điển
hình cho điều nêu trên. Ngoài các chi phí xây dựng nhà, xưởng
và các cơ sở hạ tầng khác : mua,thuê máy bay , động cơ, phụ tùng
các loại; các nguyên, nhiên, vật liệu khác cho hoạt động khai thác
, kỹ thuật, phục vụ … một hãng hàng không. Ví dụ- Vietnam
Airlines , còn chi phí cho rất đa dạng các loại dịch vụ mà hãng sử
dụng :điều hành bay; hạ cất cánh; đỗ lại; phục vụ mặt đất đối với
hành khách, hàng hóa, máy bay; sử dụng sân bay các các trang
thiết bị sân bay; tư vấn pháp lý; quản lý…Ngoài số người lái, kỹ
sư và thợ kỹ thuật, tiếp viên Việt Nam mà Hãng coi là ở trong

biên chế. Hãng còn thuê người lái, kỹ sư, tiếp viên nước ngoài
( theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng thuê dịch vụ khai thác
bay, dịch vụ kỹ thuật ); ngoài ra, Hãng còn thuê không ít công
nhân nước ngoài làm việc tại các Văn phòng chi nhánh ngoài
nước. Đối với người lao động, kể cả trong và ngoài biên chế,
ngoài tiền lương, Hãng còn có rất nhiều các khoản chi phí khác
cho các quyền, quyền lợi mà người lao động được hưởng như nhà
cửa, đi lại, đào tạo, bảo hiểm , y tế….Cần hiểu, xác định chi phí
lao động sống, chi phí lao động quá khứ trong điều kiện một
doanh nghiệp như vậy thế nào cho hợp lý ?
Thứ nhất, trong điều kiện của xu thế toàn cầu hóa hiện nay,
kể cả toàn cầu hóa thị trường lao động, cũng như việc từng bước
xóa bỏ biên chế, áp dụng hợp đồng lao động tại Việt Nam, mặc
dù lương và chế độ cho lao động Việt Nam và chi phí cho lao
động nước ngoài được xác định theo các cơ chế khác nhau ( cho
người Việt nam- quỹ lương và các hệ số lương do Bộ LĐ và TBXH quy định, cho người nước ngoài- doanh nghiệp tự thỏa thuận
theo hợp đồng ), cần xóa bỏ sự phân biệt về quốc tịch và hình
thức lao động ( biên chế, hợp đồng ) trong phạm trù lao động
sống. Do vậy, chi phí lao động sống bao gồm chi phí cho lao
động Việt Nam và lao động nước ngoài ( kể cả được thuê theo
hợp đồng lao động và được thuê dưới hình thức cung ứng dịch vụ
mà về bản chất là thuê lao động, ví dụ- hợp đồng thuê các dịch vụ
khai thác bay mà nội dung chủ yếu là cung cấp người lái )
Thứ hai, chi phí lao động sống không nên coi chỉ là lương
và các loại phụ cấp có tính chất lương, mà cả chi phí cho các loại
quyền, quyền lợi mà người lao động được hưởng do việc bỏ sức
10


lao động và cần thiết cho việc tía sản xuất sức lao động của mình.

Một hãng hàng không, ví dụ- American Airlines, có thể áp dụng
mức lương (USD/ giờ )thấp hơn so với mặt bằng của các hãng
hàng không Mỹ khác, nhưng ngược lại, họ cung cấp cho nhân
viên các quyền lợi khác cao hơn như vé miễn, giảm cước cho bản
thân và gia đình khi đi việc riêng, nhờ vậy về tổng thể vẫn có sức
hấp dẫn hơn trên thị trường lao động mà lại tận dụng khai thác
được ghế trống trên các chuyến bay ( vé miễn, giảm cước không
được quyền đặt chỗ ). Như vậy, dưới góc độ kinh tế chi phí lao
động sống của American Airlines bao gồm cả chi phí cho việc
miễn giảm giá vé cho nhân viên, và bản thân người lao động cũng
quan niệm như vậy khi lựa chọn làm việc cho American Airlines
hay cho hãng hàng không khác. Nhưng bằng một chính sách hợp
lý, American Airlines đã cung cấp cho người lao động một giá trị
với một chi phí nhỏ hơn so với việc tiền tệ hóa các quyền lợi vào
lương ( chi phí cận biên cho việc vận chuyển một hành khách
miễn, giảm cước không đáng kể ).
Nội dung có thể gây tranh luận ở đây là các chi phí công tác
phí
coi hay không coi chúng là chi phí lao động sống ? Dưới một góc
độ, chúng ta có thể coi chi phí mua vé tàu xe, thuê phòng khách
sạn… tương tự như chi phí trả cho dịch vu, sản phẩm khác, tức là
coi chúng như lao động quá khứ. Nhưng dưới một góc độ khác,
việc thuê khách sạn, cấp tiền ăn uống, tiêu vặt có thể coi là các
điều kiện cần thiết đảm bảo tái sản xuất sức lao động của người
lao động; việc giải quyết chế độ tàu xe cho người lao động ( tiêu
chuẩn được đi máy bay, ô- tô, tàu hỏa, được thanh toán tiền taxi… hay không ) cung có thể coi liên quan đến tái sản xuất sức
lao động. Nhìn chung, các lý do coi công tác phí là chi phí lao
động sống là nhiều hơn so với việc coi chúng là chi phí lao động
quá khứ.
Việc phân loại chi phí thành chi phí lao động sống và chi

phí lao động quá khứ giúp so sánh mức độ, hiệu quả sử dụng lao
động của hãng hàng không này so với hãng hàng không khác , so
với doanh nghiệp khác, cũng như mức độ tự động hóa các khâu
hoạt động của hãng ( phương án thủ công hay tự động hóa )

11


1.1.2.Bản chất và phân loại giá thành sản phẩm vận tải hàng
không.
1.1.2.1- Bản chất giá thành sản phẩm vận tải hàng
không:
Xuất phát từ mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường thì mọi sản phẩm được tạo ra luôn
được các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả do nó mang lại.
Để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm thì doanh nghiệp phải tốn
hết bao nhiêu chi phí, các loại chi phí và tỷ trọng của từng loại
chi phí, khả năng để hạ thấp các loại chi phí này. Chỉ tiêu thỏa
mãn được những thông tin mang nội dung trên chính là giá thành
sảm phẩm.
Giá thành sản phẩm vận tải là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hóa mà
doanh nghiệp đã bỏ ra ở bất kể kỳ nào nhưng có liên quan đến
một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành trong kỳ
này. Giá thành sản phẩm vận tải là chỉ tiêu chất lượng , tổng hợp
có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý các doanh nghiệp
vận tải hàng không nói riêng và của ngành vận tải nói chung.
Giá thành vận tải là chỉ tiêu chất lượng được biểu hiện ở
chỗ: thông qua nó có thể đánh giá được hiệu quả quá trình sản
xuất, kinh doanh vận tải, chứng minh được khả năng phát triển và

việc sử dụng các yếu tố vật chất đã thực sự tiết kiệm và hợp lý
hay chưa?
Tính tổng hợp của chỉ tiêu giá thành sản phẩm vận tải biểu
hiện là thông qua nó có thể đánh giá được toàn bộ các biện pháp
kinh tế, tổ chức kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Bởi vì, mọi biện pháp đầu tư đều tác
động đến việc sử dụng các yếu tố vật chất để thực hiện quá trình
sản xuất kinh doanh và suy cho cùng đều được biểu hiện tổng
hợp trong nội dung của chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Do tính chất quan trọng của giá thành sản phẩm vận tải như
vậy nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm nổi bật nên chức năng thông
tin và kiểm tra trên các mặt sau đây :
-Giá thành sản phẩm vận tải là giới hạn bù đắp chi phí vận
tải : giá thành sản phẩm là căn cứ, là mức tối thiểu để xác định
12


khả năng bù đắp chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho quá trình
sản xuất kinh doanh và thực hiện giá trị sản phẩm.
-Giá thành sản phẩm vận tải là căn cứ lập giá kinh doanh
vận tải : Để thực hiện yêu cầu bù đắp chi phí thì khi lập giá phải
căn cứ vào giá thành sản phẩm.
Với chức năng trên, giá thành sản phẩm vận tải có mối quan
hệ mật thiết với giá trị và giá cả sản phẩm vận tải. Trong mối
quan hệ này, giá thành sản phẩm được coi là xuất phát điểm để
xác định giá cả, giá thành là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá
trị sản phẩm hàng hóa.
Giá thành sản phẩm vận tải là một phạm trù kinh tế của sản
xuất hàng hóa. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi
phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh

doanh phải được bồi hoàn để tái tạo sản xuất kinh doanh ở doanh
nghiệp; giá thành sản phẩm không bao gồm toàn bộ chi phí phát
sinh trong kỳ cảu doanh nghiệp. Vậy những chi phí nào được tính
vào giá thành sản phẩm ? Những chi phí cấu thành nên cấu thành
sản phẩm phải phản ánh được trị giá thực tế của tư liệu sản xuất
tiêu dùng cho sản xuất kinh doanh và các khoản chi tiêu khác có
liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống cần
thiết. Muốn hạch toán đúng giá thành phải dựa trên điều kiện tiền
đề là hạch toán đúng, đủ chi phí sản xuất kinh doanh và cần phải
hiểu là không phải là mọi khoản chi phí đều được ghi vào giá
thành sản phẩm. Vì vậy cần phải hiểu và phân định rõ chi phí sản
xuất kinh doanh, chi phí phát sinh, giá thành sản phẩm không
chấp nhận toàn bộ chi phí phát sinh và chỉ chấp nhận những chi
phí cần cho sản xuất kinh doanh vận tải và có thể được mở rộng
đến một số khoản tuy không thực sự cần cho sản xuất kinh doanh
nhưng không thể tránh được do những điều kiện, nguyên nhân
nhất định của sản xuất và quản lý.
Trên góc độ kinh tế, giá thành sản phẩm là thước đo chi phí
và khả năng sinh lời. Vì trong điều kiện giá bán không đổi thì giá
thành và lợi nhuận là hai đại lượng chi phối lẫn nhau. Trong
phạm vi doanh nghiệp, nếu giá thành sản phẩm càng thấp thì hiệu
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh càng cao và ngược lại.
Như vậy, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là mục tiêu quan trọng
của tất cả các doanh nghiệp vận tải.
13


1.1.2.2- Phân loại giá thành sản phẩm hàng không:
Cũng như chi phí sản xuất kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu
quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành thì về mặt lý luận

cũng như thực tiễn có thể phân loại giáthành theo các tiêu thức
nhất định.
a)Phân loại giá thành sản phẩm theo cơ sở số liệu và thời điểm
tính giá thành.
-Giá thành kế hoạch : là giá thành sản phẩm được tính trên
cơ sở chi phí kinh doanh tiêu thụ trong kỳ kế hoạch. Giá thành kế
hoạch được bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp tính toán trước
khi bắt đầu quá trình kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch
vụ. Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là căn cứ để đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
-Giá thành định mức : Là giá thành tính cho một đơn vị sản
phẩm trên cơ sở các định mức kinh tế- kỹ thuật hiện hành. Việc
tính giá thành định mức cũng được tính toán trước khi tiến hành
kinh doanh sản phẩm, dịch vụ. Nó được coi là công cụ quản lý
định mức chi phí của doanh nghiệp và là cơ sở đánh giá kết quả
sử dụng tài sản, vật tư, lao động và tính đúng đắn của các giải
pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã áp dụng để nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
-Giá thành thực tế : Là giá thành sản phẩm được tính trên
cơ sở chi phí kinh doanh thực tế đã phát sinh và tập hợp được
tính cho số sản phẩm, dịch vụ thực tế đã tiêu thụ trong kỳ. Giá
thành thực tế chỉ tính được sau khi đã kết thúc kỳ kinh doanh sản
phẩm, dịch vụ. Nó được tính cho từng sản phẩm, dịch vụ và toàn
bộ khối lượng sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ. Giá thành
thực tế phản ánh kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp trong việc
tổ chức, sử dụng các giải pháp kinh tế, kỹ thuật .. vào quá trình
kinh doanh. Đây cũng chính là căn cứ để xác định kết quả kinh
doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
b) Phân loại giá thành sản phẩm theo phạm vi các chi phí cấu
thành:

-Giá thành trực tiếp : Giá thành trực tiếp bao gồm toàn bộ
các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
14


chi phí quản lý và phục vụ kinh doanh tính cho sản phẩm, công
việc, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. Đây là căn cứ để xác định giá
vốn hàng bán và mức lãi gộp trong kỳ của doanh nghiệp.
-Giá thành toàn bộ : Bao gồm giá thành trực tiếp và chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu
thụ. Giá thành toàn bộ chỉ được tính toán khi sản phẩm, công
việc, dịch vụ đã được xác nhận là tiêu thụ. Căn cứ vào giá thành
này để tính toán, xác định mức lợi nhuận trước thuế của doanh
nghiệp.
Việc xem xét chỉ tiêu giá thành sản phẩm trên các góc độ
khác nhau là rất cần thiết, bởi mỗi loại giá thành có ý nghĩa khác
nhau trong quản lý kinh tế và trong quản trị doanh nghiệp như đã
nêu ở trên.
1.1.3.Quan hệ giữa chi phí vận tải và giá thành vận tải hàng
không :
Giữa chi phí vận tải và giá thành vận tải hàng không có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tập hợp chi phí vận tải là cơ sở để
tính giá thành sản phẩm vận tải hàng không, cần thiết phải xác
định đúng lượng chi phí vận tải đã cấu thành vào giá trị của sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ. Mối quan hệ đó có thể được khái quát qua
đẳng thức sau :
Tổng giá thành
vận tải
sản phẩm
dang cuối kỳ


Chi phí vận tải

Chi phí vận tải

Chi phí

= dở dang đầu kỳ + phát sinh trong kỳ + dở

Nước ta hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong điều
kiện cạnh tranh. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải thắng được trong cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Do
đó, một vấn đề đặt ra là phải tiết kiệm chi phí trong quá trình kinh
doanh. Doanh nghiệp nào có mức hao phí cá biệt thấp hơn hao
phí xã hội cần thiết thì doanh nghiệp đó có cơ hội hơn trong
thương trường. Hạ giá thành sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của
mỗi doanh nghiệp, là căn cứ quan trọng để định giá bán sản phẩm
và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
15


1.2.ĐốI TƯợNG Và PHƯƠNG PHáP Kế TOáN CHI PHí
VậN TảI HàNG KHÔNG.
1.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí vận tải hàng không.
Trong công tác hạch toán nói chung và kế toán tập hợp chi
phí kinh doanh, tính giá thành sản phẩm nói riêng thì việc xác
định đối tượng tập hợp chi phí kinh doanh là một trong những
nhiệm vụ cơ bản, là công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí kinh doanh,
phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang và phương pháp tính

giá thành sản phẩm phải phù hợp với tính chất qui trình công
nghệ, đặc điểm tổ chức kinh doanh sản phẩm, trình độ và yêu cầu
quản lý của doanh nghiệp
1.2.2. Đối tượng hạch toán chi phí vận tải hàng không :
Đối tượng hạch toán chi phí nói chung là các chi phí mà
trong giới hạn nhất định (phạm vi ) chúng cần phải được tập hợp.
Đó là sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm cùng loại; là chi tiết sản
phẩm hoặc nhóm chi tiết sản phẩm; là đơn đặt hàng; là giai đoạn
công nghệ; là phân xưởng, bộ phận kinh doanh hoặc đơn vị kinh
doanh. Như vậy xác định đối tượng hạch toán chi phí thực chất
là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí, làm cơ sở
cho việc tập hợp chi phí để phục vụ cho yêu cầu tính giá thành
sản phẩm chính xác, đồng thời tạo cơ sở để kiểm soát chi phí chặt
chẽ hơn, phân tích chi phí và xác định kết qủa hạch toán quản trị.
Mặt khác xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác xây dựng định mức, kế hoạch về chi phí
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực như vật tư tài sản,
tiền vốn, góp phần làm giảm lãng phí về chi phí.
Tuy nhiên trong từng doanh nghiệp cụ thể thì đối tượng tập
hợp chi phí sẽ khác nhau. Chẳng hạn, đối tượng tập hợp chi phí ở
Công ty Pacific Air lines khác với đối tượng tập hợp chi phí ở
Hãng hàng không Vietnam Air lines và trong nội bộ từng công ty
thì đối tượng tập hợp chi phí giữa các bộ phận cũng không giống
nhau.

16


Xuất phát từ đặc điểm của các doanh nghiệp vận tải hàng
không, đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ công ty rồi sau đó

phân bổ cho từng chuyến bay, giờ bay.
1.2.3. Phương pháp tập hợp chi phí vận tải hàng không.
Phương pháp tập hợp chi phí là một phương pháp hoặc hệ
thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các
chi phí vận tải theo yếu tố và theo khoản mục trong phạm vi giới
hạn của đối tượng tập hợp chi phí.
Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí kinh
doanh là trên cơ sở các đối tượng hạch toán chi phí kinh doanh
được xác định trong doanh nghiệp.
Việc tập hợp chi phí kinh doanh phải được tiến hành theo
một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản
phẩm một cách chính xác kịp thời. Trình tự này phụ thuộc vào
đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ
giữa các hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ
quản lý và yêu cầu hạch toán.
Do đặc điểm riêng của vận tải hàng không mà các doanh
nghiệp vận tải thuộc loại hình này thực hiện các phương pháp tập
hợp chi phí như sau :
-Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp :
Chi phí trực tiếp là những chi phí có liên quan trực tiếp đến
đối tượng hạch toán. Do đó, hàng ngày khi chi phí phát sinh có
liên quan đến đối tượng nào thì kế toán căn cứ vào chứng từ để
ghi trực tiếp vào tài khoản hạch toán đối tượng đó. Ap dụng
phương pháp này đòi hỏi việc ghi chép ban đầu phải theo đúng
đối tượng. Từ đó tập hợp số liệu và ghi trực tiếp vào tài khoản
hoặc sổ chi tiết theo đúng đối tượng chịu chi phí, áp dụng phương
pháp này mức độ chính xác rất cao.
-Phương pháp tập hợp chi phí gián tiếp.
Đối với các doanh nghiệp vận tải hàng không vừa làm
nhiệm vụ vận chuyển hành khách vừa vận chuyển hàng hóa thì

một số khoản chi phí nếu không ghi trực tiếp cho từng đối tượng
phải dùng phương pháp phân bổ gián tiếp. Theo phương pháp
này, tổng hợp số liệu từ chứng từ kế toán phản ánh những chi phí
17


liên quan đến nhiều đối tượng theo địa điểm phát sinh chi phí
hoặc theo nội dung chi phí. Sau đó lựa chọn tiêu thức phù hợp
( có thể là định mức, kế hoạch hoặc theo trọng tải …) để tính
toán, phân bổ chi phí đã tập hợp được cho từng đối tượng chịu
chi phí có liên quan. Trình tự tiến hành phân bổ như sau :
Bước 1 : Căn cứ vào chi phí vận tải đã tập hợp chung cho
các đối tượng, chọn tiêu thức phân bổ hợp lý, xác định hệ số phân
bổ theo công thức :
H= C : T
H : Hệ số phân bổ chi phí
C : Tổng chi phí cần phân bổ
T : Tổng số đơn vị tiêu thức phân bổ
Bước 2 : Phân bổ chi phí vận tải cho từng đối tượng liên
quan
Cn = H x Tn
Cn : Số chi phí phân bổ cho đối tượng n
Tn : Số lượng đơn vị tiêu thức phân bổ của đối tượng n
Tập hợp chi phí vận tải hàng không theo phương pháp phân
bổ gián tiếp thì mức độ chính xác của chi phí tính theo đối tượng
phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí.
Tiêu thức phân bổ chi phí phải thỏa mãn một số điều kiện sau đây
:
+Tiêu thức phân bổ phải có mối quan hệ tương quan tỷ lệ
thuận với số chi phí cần phân bổ.

+Tiêu thức phân bổ phải có mối quan hệ kinh tế trực tiếp
với chi phí cần phân bổ.
+Tiêu thức phân bổ phải đơn giản và dễ tính toán.
1.2.4. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản phẩm vận tải
hàng không.
1.2.4.1.Kế toán chi phí nguyên liệu trực tiếp :
*Nội dung chi phí : Bao gồm chi phí về các loại nguyên nhiên,
vật liệu chính , phụ dùng trực tiếp cho sản phẩm vận tải, thực
hiện lao vụ, dịch vụ trong kỳ sản xuất kinh doanh.
18


*Tài khoản sử dụng : Tài khoản 621 “ Chi phí nguyên liệu, vật
liệu trực tiếp”.
Tài khoản này dùng để phản ánh các chi phí trực tiếp về chi
phí vé và các chi phí khác như chi phí nguyên vật liệu cho sản
xuất phụ, bao bì đóng gói… dùng vào kinh doanh vận tải hành
khách và hàng hóa.
-Nội dung, kết cấu TK 621” Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực
tiếp “
+Bên nợ : Phản ánh trị giá nguyên, vật liệu dùng vào sản
xuất kinh doanh vận tải.
+Bên có :
-Các khoản giảm chi phí theo qui định
-Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu vào TK 154 hoặc
TK631 để tính giá thành sản phẩm
+Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư
*Phương pháp kế toán :
Căn cứ vào các chứng từ xuất kho vật liệu và báo cáo sử
dụng vật liệu cảu từng tổ, đội, bộ phận để tập hợp chi phí nguyên

vật liệu trực tiếp. Các tài khoản để tổng hợp, kết chuyển chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản
152,111,112,331( hoặc,TK 621,154.
Có thể khái quát phương pháp kế toán nguyên vật liệu trực
tiếp bằng 2 sơ đồ sau đây :
Sơ đồ số 2. Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên :
TK 152,111,112,331
154

TK 621

Chi phí nguyên vật
trực tiếp
liệu trực tiếp

TK

K/C chi phí NVL
cho đối tượng chịu CP
TK152

19


VL dùng không
hết nhập lại kho

Sơ đồ số 3 .Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ :

TK 152,111,112,631
631

TK 621

Chi phí nguyên vật
trực tiếp
liệu trực tiếp

TK

K/C chi phí NVL
cho đối tượng chịu CP
TK152
VL dùng không
hết nhập lại kho

Trường hợp chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp, có liên
quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí vàđối tượng tính giá thành
thì có thể phân bổ theo hệ số, theo định mức hay khối lượng sản
phẩm (doanh thu)
1.2.4.2. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp :
* Nội dung chi phí : Bao gồm tiền lương chính, lương phụ, các
khoản phụ cấp có tính chất lương và những khoản trích quỹ
BHXH,BHYT,KPCĐ theo tỷ lệ qui định được tính vào chi phí
sản xuất kinh doanh trong kỳ hạch toán.
*Tài khoản sử dụng :Tài khoản 622 “Chi phí nhân công trực tiếp
“.

20



Tài khoản này dùng để phản ánh chi phí về tiền lương,
khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
của tổ lái, tiếp viên.
-Nội dung, kết cấu của tài khoản 622 :
+Bên nợ :
-Tiền lương phải trả cho tổ lái, tiếp viên
-Khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh
phí công đoàn
+Bên có :
-Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào TK 154
hoặc TK 631 để tính giá thành sản phẩm
+Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư
* Phương pháp kế toán :
Căn cứ vào bảng tính lương, phụ cấp lương phải trả trực
tiếp cho tổ lái và tiếp viên, bảng trích BHXH,BHYT,KPCĐ, bảng
trích trước tiền lương nghỉ phép,ngừng bay theo kế hoạch. Kế
toán sử dụng tài khoản 334,338,622,154 ( hoặc 631 ) để tổng
hợp, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
Có thể khái quát phương pháp kế toán nhân công trực tiếp
bằng 2 sơ đồ sau đây :
Sơ đồ số 4. Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực
tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên :
TK 334
TK 154

TK 622

Tiền lương và phụ cấp lương

K/C chi phí nhân
công trực tiếp
liệu trực tiếp
cho đối tượng chịu CP
TK 338
Các khoản trích theo tỷ lệ
với tiền lương thực tế phát sinh
21


của tổ lái và tiếp viên
Sơ đồ số 5. Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực
tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ :
TK 334
TK 631

TK 622

Tiền lương và phụ cấp lương
K/C chi phí nhân
công trực tiếp
liệu trực tiếp
cho đối tượng chịu CP
TK 338
Các khoản trích theo tỷ lệ
với tiền lương thực tế phát sinh
của tổ lái và tiếp viên
Trường hợp chi phí nhân công trực tiếp liên quan đến sản
phẩm, lao vụ dịch vụ thì có thể phân bổ theo định mức tiền
lương, theo hệ số …

1.2.4.3.Kế toán chi phí sản xuất chung :
*Nội dung chi phí sản xuất chung của vận tải hàng không :
Chi phí sản xuất chung của vận tải hàng không là những chi
phí có liên quan đến quá trình phục vụ sản xuát kinh doanh và
quản lý của bộ phận khai thác dịch vụ tại các sân bay. Bao gồm
các khoản chi sau đây :
+ Chi phí cho cán bộ công nhân viên phục vụ bay gồm:
lương
chính,
lương
phụ,
các
khoản
phụ
cấp,
BHXH,BHYT,KPCĐ của nhân viên phụ vụ bay như : Tổ trưởng,
đội trưởng, nhân viên thống kê …của bộ phận.
+ Chi phí vật liệu phụ gồm: Chi phí vật liệu phụ xuất dùng
chung cho các bộ phận phục vụ bay để sửa chữa TSCĐ hoặc
công cụ.
22


+ Chi phí dụng cụ sản xuất gồm: Chi phí về công cụ, dụng
cu xuất dùng cho các bộ phận phục vụ bay.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ gồm: Chi phí khấu hao TSCĐ
thuộc bộ phận phục vụ bay như máy tính, máy kiểm tra hàng
hóa , thiết bị trong các sân bay…
+ Chi phí ăn giữa ca gồm: Tiền ăn giữa ca của các nhân
viên phục vụ bay .

+ Chi phí dịch vụ mua ngoài gồm: Các chi phí dịch vụ mua
ngoài cho hoạt động phục vụ bay như chi phí sửa chữa thuê
ngoài, chi phí điện nước, điện thoại của bộ phận phục vụ.
+ Chi phí khác bằng tiền gồm: Các chi phí hội nghị, tiếp
khách… của bộ phận phục vụ bay…
* Tài khoản sử dụng :
Tài khoản 627-“ Chi phí sản xuất chung “ và được chi tiết
thành 7 tài khoản cấp 2 :
+TK 6271-“ Chi phí nhân viên phục vụ bay”
+TK6272-“Chi phí vật liệu phụ”
+TK6273-“Chi phí dụng cụ sản xuất”
+TK 6274-“ Chi phí khấu hao TSCĐ”
+TK 6276-“ Chi phí ăn giữa ca”
+TK 6277-“Chi phí dịch vụ mua ngoài”
+TK6278-“Chi phí khác bằng tiền”
Ngoài ra, do yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp cụ thể mà có
thể mở thêm một số tiểu khoản khác hay chi tiết theo từng bộ
phận.
-Nội dung, kết cấu của tài khoản 621 :
+Bên nợ :
-Tập hợp các khoản chi phí sản xuất chung như chi
phí cho cán bộ công nhân viên phục vụ bay, chi phí vật liệu phụ,
chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí
ăn giữa ca, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng
tiền….
+Bên có :
-Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
-Kết chuyển và phân bổ chi phí sản xuất chung vào
TK154 hoặc TK 631 để tính giá thành sản phẩm.
23



+Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư.
* Phương pháp hạch toán :
Để tập hợp chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng các tài
khoản
sau:TK334,338,152(hoặc611),153,142(1421),214,111,112,331,3
35,141, 627,154 ( hoặc 631).
* Sơ đồ số 6. Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất
chung
theo phương pháp kê khai thường xuyên :
TK 334,338,152,153,142(1421),
214,111,112,331,335,141
TK627
TK111,112,152…
Tập hợp chi phí sản xuất
chung PS trong kỳ

Các khoản ghi giảm
chi phí sản xuất

chung
TK 133

TK 154

Thuế GTGT được khấu
trừ khi mua dịch vụ

K/C chi phí SX chung


* Sơ đồ số 7. Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung
theo phương pháp kiểm kê định kỳ :
TK 334,338,611,153,142(1421),
214,111,112,331,335,141
TK627
TK111,112,152…

24


Tập hợp chi phí sản xuất
chung PS trong kỳ

Các khoản ghi giảm
chi phí sản xuất

chung
TK 133

TK 631

Thuế GTGT được khấu
trừ khi mua dịch vụ

K/C chi phí SX chung

1.2.4.4.Tổng hợp chi phí kinh doanh vận tải hàng không :
Quá trình tập hợp chi phí vận tải hàng không và tính giá
thành sản phẩm vận tải hàng không có thể thực hiện theo một

trong hai phương pháp sau :
*Kế toán tập hợp chi phí vận tải hàng không theo phương pháp
kê khai thường xuyên:
Theo phương pháp này, kế toán sử dụng tài khoản 154-“Chi
phí sản xuất kinh doanh dở dang” để tổng hợp chi phí sản xuất
kinh doanh vận tải phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm vận
tải hàng không. Cuối kỳ hạch toán, các khoản chi phí nguyên, vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung đều được tổng hợp vào bên nợ tài khoản 154.
Tài khoản 154 “ Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang “ có
thể được mở chi tiết theo từng sản phẩm vận tải hàngkhông.
Nội dung, kết cấu tài khoản 154 như sau :
Bên nợ : Tập hợp các chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh
trong kỳ
Bên có : Giá thành sản phẩm vận tải hàng không đã hoàn
thành trong kỳ
Dư nợ : Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang
Quá trình kế toán tổng hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm vận tải hàng không theo phương pháp kê khai thường
xuyên có thể khái quát bằng sơ đồ sau :
25


×