Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

HỌC THUYẾT CHÍNH DANH VÀ VAI TRÒ TRONG VIỆC TUYỂN CHỌN CÔNG CHỨC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.45 KB, 21 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Nền văn minh Trung Quốc là một trong những nền văn minh phát triển sớm
nhất trên thế giới. Với hơn 4000 năm lịch sử, Trung Quốc phát triển liên tục, có
nhiều phát minh vĩ đại trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Do đó, có thể coi
nền văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại.
Ngoài những phát minh vĩ đại về lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, Trung Quốc còn có
những học thuyết về triết học rất có giá trị, có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền
văn minh của Châu Á nói riêng và toàn thế giới nói chung.
1.

Trong đó không thể không nhắc đến Nho Giáo của Khổng Tử. Nho Giáo bắt
đầu du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Cùng với Phật Giáo và Lão Giáo,
Nho Giáo đã ảnh hưởng, chi phối, tác động rất mạnh mẽ đến kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục, luân lý và nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội khác của người dân
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Vì vậy, ảnh hưởng của Nho Giáo vẫn
còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Nói đến Nho Giáo, nói đến Khổng Tử thì không thể nào không nói đến học
thuyết “Chính Danh”. Giá trị mà học thuyết “Chính Danh” mang lại rất to lớn. Học
thuyết này không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng của toàn bộ người dân Trung Quốc
qua mấy nghìn năm lịch sử mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia khác,
trong đó có Việt Nam. Nhiều tư tưởng, quan niệm về xã hội, con người, đạo đức,
giáo dục ngày nay của con người trong học thuyết “Chính Danh” vẫn còn giá trị và
mang tính thời sự. Vì vậy, việc nghiên cứu và trao đổi về những ảnh hưởng của
học
thuyết này trong xã hội Việt Nam hiện nay là việc làm cần thiết và hữu ích.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [1]. LêNin cũng từng nói: “phải lựa chọn đặc biệt cẩn thận những cán bộ tốt” vì “nơi nào
có “cán bộ tốt” thì công việc rất phát triển, nơi nào “cán bộ xoàn” thì công việc cứ


luộm thuộm. Cán bộ mà lên mặt quan cách mạng thì mọi việc đều lủng củng. Cán
bộ mà cho dân tin, dân phục, dân yêu thì việc gì cũng mỹ mãn.” [2]. Qua những
nhận định trên đã cho thấy cán bộ là vai trò chủ chốt trong việc xây dựng thành
công Chủ nghĩa xã hội.
Vậy, vấn đề đặt ra là học thuyết “Chính Danh” có giá trị như thế nào trong
xã hội hiện nay. Chúng ta có thể vận dụng như thế nào cho xông cuộc xâ dựng Chủ
nghĩa xã hội, đặc biệt là trong công tác tuyển chọn cán bộ công chức ở nước ta? Từ


2

những vấn đề đặt ra đó, học viên đã chọn lựa nghiên cứu đề tài tiểu luận về: “Học
thuyết “Chính Danh” của Khổng Tử, giá trị học thuyết “Chính Danh” trong việc
lựa chọn công chức nhà nước hiện nay” cho học phần Triết Học.
Tổng quan đề tài nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu Nho Giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam đã được
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, học thuyết “Chính Danh” thì có khá ít bài viết, công
trình nghiên cứu về học thuyết “Chính Danh” và những vận dụng của học thuyết
này vào công tác tuyển chọn cán bộ trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
2.

Mục tiêu nghiên cứu
Qua nghiên cứu giúp ta có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng của học thuyết
“Chính Danh” trong việc tuyển chọn cán bộ công chức Nhà nước ở giai đoạn hiện
nay. Đồng thời nêu lên ý nghĩa và những tác động tác động của học thuyết này
trong thời điểm hiện tại. Ngoài ra còn có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn quá trình,
nguồn gốc hình thành Nho Giáo của Khổng Tử.
3.


Các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nho giáo đã du nhập và phát triển ở Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử,
nó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam, là công cụ quan trọng
trong việc cai trị, quản lý xã hội của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy,
việc nghiên cứu Nho giáo và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam là một
vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người.
4.

Ở Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ XX đã có những công trình nghiên cứu về
vấn đề này, trước đây hơn nửa thế kỷ, bộ Nho Giáo đầu tiên ở VN được ra đời bởi
học giả Trần Trọng Kim. Ảnh hưởng của bộ sách này đã được thời gian chứng
minh là nhiều thế hệ học sinh sinh viên Việt Nam coi Nho Giáo của Trần Trọng
Kim như một quyền uy trong lĩnh vực tìm hiểu nghiên cứu về Nho Giáo ở Trung
Quốc và Việt Nam.
Cuối năm 2005, Nguyễn Tôn Nhan cũng cho đời bộ Nho Giáo Trung Quốc
dày hơn 1.600 trang khổ lớn. Riêng về số lượng trang, đây có thể được coi là bộ
Nho Giáo lớn nhất Việt Nam cho đến thời điểm này.
Tuy có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về Nho Giáo nhưng khi nghiên
cứu Nho Giáo ta phải xem xét từ khía cạnh lịch sử cụ thể, khách quan chứ không
thể mang Nho Giáo của thời xưa để phê phán, chỉ trích với thời nay.


3

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
SƠ LƯỢC HỌC THUYẾT CHÍNH DANH
1.1.

Sơ lược về Khổng Tử và Nho Giáo


1.1.1. Thân thế, sự nghiệp của
1.1.1.1.
Bối cảnh phong kiến

Khổng Tử
Trung Quốc thời Khổng Tử
Sau thời kỳ Thượng - Cổ cùng tám vị vua truyền thuyết là Tam Hoàng Ngũ
Ðế, dân tộc Trung Hoa bắt đầu bước vào chế độ phong kiến. Khởi đầu là Nhà Hạ ở
đầu thế kỷ 21 tr.C.N và nhà Thương ở khoảng thế kỷ 16 tr.C.N.
Từ năm 1066 tr.C.N, nhà Chu bắt đầu nổi lên tiêu diệt nhà Thương. Dưới sự
lãnh đạo của Vũ Vương và Chu Công, thời đầu triều đại Chu được coi là thời cực
thịnh.
Thời Xuân thu (770-476) trước sức ép của các bộ tộc phía tây thường xuyên
tấn công và cướp bóc nên Nhà Chu nhờ cậy các vương hầu bảo vệ. Tuy nhiên,
nhân cơ hội nhà Chu suy yếu các vương hầu lần lượt tiêu diệt các đối thủ nhỏ hơn.
Cuối cùng, còn lại vài chục nước, trong đó các chư hầu mạnh nhất lần lượt nổi lên
tranh ngôi bá chủ Trung Hoa là Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống, Ngô, Việt…
Trên danh nghĩa nhà Chu nắm thiên mệnh, nhưng thực sự quyền lực nằm
trong tay các chư hầu. Nhà Chu chỉ còn cai quản vùng đất chư hầu nhỏ bé như Lỗ,
Vệ.
Sang thời Chiến quốc (475-221), chỉ còn lại Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy
và Tần. Nước nào cũng xem mình ngang hàng nhà Chu, không cần nhân danh thiên
tử, giành nhau xưng vương, tự ý đem quân đánh nhau khốc liệt. Trung Quốc rơi
vào chiến loạn hơn hai thế kỷ.
Tiểu sử về Khổng Tử
Nói đến Nho giáo thì người đầu tiên không thể không nhắc đến đó là Khổng
Tử. Người ta bình luận khen tặng Khổng Tử ra sao đều không thể gọi là quá lời,
trước đây hơn 2000 năm, đại sử học gia Tư Mã Thiên khi đi thăm Khúc Phụ quê
hương của Khổng Tử từng cảm khái viết: “KhổngTử áo vải, truyền hơn 10 đời,

được các học trò coi là tổng sư, từ thiên tử, vương hầu đến thứ dân đều coi ông là
bậc chí thánh”. Năm 1982, một học giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý
1.1.1.2.


4

luận đạo đức của Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà còn ảnh
hưởng tới nhân loại”.
Khổng Tử ( 551 – 479 ) là một nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng, ông
sinh ra tại nước Lỗ trong thời Xuân Thu. Nhận thấy mâu thuẫn giữa nhà Chu, phức
tạp của xã hội phong kiến thời Chu mà tôn ti trật tự bị rối ren, đảo lộn, tranh giành
đất đai, quyền lực… “tôi thí vua, con giết cha không phải nguyên nhân của một
sáng một chiều” [3], luân lý suy đồi. Khổng Tử đưa ra những tư tưởng về đạo đức,
trị quốc… mong “chuyển loạn thành trị” và đi đến “trị quốc, bình thiên hạ”.
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tuy ông mồ côi cha từ rất nhỏ và phải
làm lụng vất vả để nuôi mẹ nhưng ông vẫn rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ
và đảm nhận một số chức quan nhỏ. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học, học trò gọi
ông là Khổng Phu Tử, hay gọi tắt là Khổng Tử, nghĩa là Thầy Khổng. Từ năm 34
tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng
và tìm người dùng các tư tưởng đó. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ trông coi
việc hình pháp, kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị.
Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục việc dạy học và soạn sách.
Ông đưa giáo dục mở rộng cho người dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân
gian. Khổng Tử qua đời năm 479 TCN, hưởng thọ 73 tuổi.
Khổng Tử đề cao tư tưởng trị quốc bằng đức hạnh và đạo đức qua việc thừa
hưởng quan điểm của Chu Công Đán thời Tây Chu. Ông cho rằng người quân tử
phải “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, lấy “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm
những đức tính căn bản nhất cần phải có của một người quân tử. Các học thuyết

của Khổng Tử đã được Mạnh Tử phát triển thành tư tưởng Nho Giáo vào thời gian
sau đó.
1.1.2.

Sơ lược tư tưởng Nho Giáo

Nho Giáo nằm trong hệ thống triết học Trung Quốc cổ, trung đại. Nho Giáo
có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã
hội. Nho Giáo là một hệ thống học thuyết đầy đủ dạy về các hành xử của một vị
“Chính nhân quân tử” trong xã hội lúc bấy giờ.[4]
Khái niệm “chính nhân quân tử”. “Quân” có nghĩa là “quân vương”, “tử” là
“con người”. “Quân tử” ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết
thi, thư, lễ, nhạc. “Chính nhân quân tử” là người quân tử thực, đúng với danh hiệu
“quân tử”. Thời nhà Chu, “quân tử” là cụm từ dùng để chỉ tầng lớp quý tộc. Vì thế


5

những người làm quan thường được gọi là quân tử hoặc đại nhân, còn những người
dân thường hay quan lại với phẩm hàm nhỏ hơn tự xưng là tiểu nhân. [5]
Như vậy, Nho Giáo chính là học thuyết của người quân tử tổ chức và cai trị
xã hội.
“Tứ thư” và “Ngũ kinh” là hai tác phẩm điển hình của Nho Giáo. Trong đó,
“ Tứ thư” được hiểu là các bài giảng về đạo đức; gồm 4 bộ Đại Học, Trung Dung,
Luận Ngữ và Mạnh Tử. “Ngũ Kinh” có bàn về tổ chức hành chính, chính trị và các
quan điểm Âm-Dương, Ngũ Hành..; bao gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch,
Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Nội dung chính của Nho Giáo là tạo sự ổn định và phát triển cường thịnh
của một quốc gia bằng cách sử dụng đường lối Đức trị và Lễ trị. "Cần gì phải dùng
biện pháp giết người?... Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà

đức hạnh của dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống" [6].
Đường lối Đức trị và Lễ trị của Khổng Tử dựa vào học thuyết “Nhân-LễChính danh” Trong đó, “Nhân” là nội dung, “Lễ” là hình thức, “Chính danh” là
con đường đạt đến “Nhân”.
Chữ “Nhân” trong Nho Giáo:
Hiểu đơn giản, chữ “Nhân” trong Nho Giáo chính là "yêu người" (Luận ngữ,
Nhan Uyên, 21). Không chỉ “yêu người” mà còn có “ghét người”, Khổng Tử cho
rằng: "Duy có bậc nhân mới thương người và ghét người một cách chính đáng mà
thôi" (Luận ngữ, Lý nhân, 3).
Tuy nhiên, Trong quan niệm của “Khổng Tử”, chữ "Nhân" không chỉ là
"yêu người", "thương người", mà còn là đức tính căn bản cần thiết nhất của con
người để tu dưỡng tâm tánh của bản thân.
Chữ “Nhân” (tu thân) chính là nền tảng căn bản nhất để “trị quốc”. Khổng
Tử cho rằng: “ Người quân tử làm việc vì thiên hạ, không nhất định phải như thế
này mới được hoặc như thế kia là không được, cứ hợp đạo nghĩa mà làm”. (Luận
ngữ, IV:10).
Đối với Khổng Tử, thái độ của người dân đánh giá chữ nhân của nhà cầm
quyền: “Hỏi về điều nhân. Khổng Tử nói: Ra cửa phải như tiếp khách lớn, trị dân
phải như làm lễ tế lớn, điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì
mình cũng đừng làm cho người khác. Như vậy, trong nước chẳng ai oán giận,


6

trong nhà cũng không ai oán giận”. (Luận ngữ, XII:2). Có thể thấy học thuyết Nho
Gia đã lấy lợi ích của dân làm gốc. Đây là điểm tiến bộ có ảnh hưởng đến việc trị
quốc của Trung Quốc sau này.
Chữ “Lễ” trong Nho Giáo
“Lễ” theo nghĩ rộng là nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tư, tôn ti của cuộc
sống cùng trong cộng đồng xã hội và lối cư xử hàng ngày. Theo nghĩa rộng, “lễ” là
cơ sở của một xã hội có tổ chức, đảm bảo phân định trên dưới rõ ràng.

Khổng Tử từng nhận định: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục
lễ, dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân ( Luận ngữ XII, 1] và "Nhân
nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?". "Một con người nếu
thiếu đạo nhân thì làm sao có lễ được? Một con người nếu chẳng có lòng nhân thì
làm sao hiểu được âm nhạc?" (Luận Ngữ, thiên 3, Bát Dật) Như vậy, “Lễ” chính là
hình thức của “Nhân” và “Nhân” chính là nội dung của “Lễ”.
“Lễ” trong Khổng Tử giúp người ta phân biệt phải trái, đúng sai, giữ đúng
đạo làm người. "Trong cái nghĩa rộng, lễ có hàm cái tính chất pháp luật, nhưng lễ
thì thiên trọng về cái quy củ tích cực. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì và không
nên làm điều gì; pháp luật thì cấm không cho những điều gì, hễ làm thì phải tội.
Người làm điều trái lễ thì chỉ bị người quân tử chê cười, chứ người làm trái pháp
luật thì có hình pháp xét xử." [7].
Có thể thấy, Khổng Tử rất coi trọng chữ “Nhân” và chữ “Lễ” của người cầm
quyền, người trị vì thiên hạ. “Nhân” và “Lễ” trong Nho Giáo có mối quan hệ biện
chứng, “lễ” là hình thức của “nhân”, nhưng chỉ có “lễ” mà thiếu “nhân” thì thiếu
nền đạo đức căn bản, “lễ” chỉ còn là pháp, mà pháp lại chỉ là những quy định để
phạt tội.
Với một tầm nhìn bao quát, rộng lớn, rõ ràng trị quốc không thể chỉ có “Đức
trị” và “Lễ trị”, mà còn cần cả một hệ thống pháp luật chặt chẽ và đảm bảo công
bằng cho nhân dân. Tuy nhiên, nền tảng căn bản cho việc ban hành và thực hiện hệ
thống pháp luật chính là người có nhân đức đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích
cá nhân.
Học thuyết “Chính Danh”
Trên danh nghĩa nhà Chu nắm thiên mệnh, nhưng thực sự quyền lực nằm
trong tay các nước chư hầu. Vì vậy, theo Khổng Tử, “chính giả, chính dã, tử suốt


7

dĩ chính, thục cảm bất chính có nghĩa là: chính trị là làm cho chính đáng vậy, ông

lấy chính đág mà lãnh đạo, ai dám không chính đáng” (Luận Ngữ, Nhan Uyên), xã
hội loạn lạc vì vua không ra vua, tôi không ra tôi. Từ đó, ông đưa ra học thuyết
“Chính Danh”. “Danh” là danh (tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc) và “Chính” là
thực (phận sự, nghĩa vụ, quyền lợi) phải phù hợp với nhau.
Trong Nho Giáo, “Nhân”-“Lễ”-“Chính danh” có quan hệ chặt chẽ với nhau,
để thực hiện đúng lễ người ta phải biết danh phận của mình, mà “lễ” lại thể hiện
cho “nhân”, “nhân” lại là nền tảng của “chính danh”.
Sơ lược thuyết “Chính Danh”
Kinh Xuân Thu
Hiện nay có rất nhiều tranh cãi xung quanh tên của “kinh Xuân Thu” và tác
giả. Tuy nhiên, học viên dựa vào quan điểm của Mạnh Tử cho rằng “kinh Xuân
Thu” là bộ sách do Khổng Tử, được viết theo lối văn “làm sử”, nhằm ghi lại những
biến cố xảy ra ở nước Lỗ và xen lẫn với những bình luận của ông để giáo dục cách
cai trị của các bậc vua chúa.
Sách “Trang Tử” (Nam Hoa Kinh) ở thiên Thiên Hạ viết rằng: Xuân Thu dĩ
đạo danh phận (Sách Xuân Thu là để nói cái đạo danh và phận). Như vậy, “kinh
Xuân Thu” không phải là sách sử bình thường, mà trong đó còn ghi chép danh và
phận trong luân lý và chính trị.
1.2.
1.2.1.

Sách Xuân Thu có 3 nội dung chính là :
* Chính danh tự.
* Định danh phận.
* Ngụ bao biếm.
1.2.2. Học thuyết Chính danh
1.2.2.1.
Hoàn cảnh ra đời của

học thuyết “Chính Danh”

Khổng Tử lúc còn sinh thời thường nói với học trò rằng “(Ngô) thuật nhi bất
tác, tín nhi hiếu cổ” nghĩa là: Ta chỉ thuật lại mà không trước tác, tin vào đạo lý đời
xưa. Các nhà nghiên cứu về Nho Giáo và Khổng tử ngày nay đều cho rằng, trong
các tác phẩm như “Kinh Thi”, “Kinh Dịch”, “Kinh Xuân Thu”, “Luận Ngữ” thì chỉ
có quyển “Luận Ngữ” được xem là đáng tin cậy nhất vì những không chỉ là những
lời phát biểu của Khổng tử trong lúc còn sinh thời mà phần lớn còn là những cuộc
đàm thoại với học trò của ngài. Vậy, do đâu mà Khổng tử đề ra học thuyết” Chính
danh”? Trong thời đại của mình, Khổng Tử đã nhận thấy được tình trạng rối ren,


8

phức tạp của xã hội phong kiến thời Chu lúc bấy giờ. Trong cái xã hội mà tôn ti
trật tự bị rối ren, đảo lộn. Ngài lấy làm tiếc cái thời đầu nhà Chu như Chu Võ
Vương, Chu Công sao mà thời đại tươi đẹp, phong hóa tốt tươi đến thế! Ngài nhìn
thấy tình cảnh “tôi thí vua, con giết cha không phải nguyên nhân của một sáng một
chiều”. Mọi sự việc, nguyên nhân đều có cái cớ của nó. Mà cái cớ này không tự
dưng mà có mà nó được tích tập dần dần qua thời gian mà đến một thời điểm nào
đó, chúng ta tạm gọi đó là điểm nút thì sẽ xảy ra kịch tính như trên. “Kinh dịch” có
câu “Đi trên sương mà băng giá tới” (Lý sương kiên băng chí) là thuận với lẽ diễn
tiến tự nhiên của mọi sự vật.
Khổng tử thấy tình trạng xã hội thời ngài hỗn loạn đến nỗi “tôi giết vua, con
giết cha” là tệ hại lắm rồi, nhưng ngài là người không thích bạo lực, không thích
làm cuộc thay đổi triệt để để triệt tiêu cái tệ trên bằng bạo lực cho nên ngài mới đề
ra học thuyết “chính danh” nhằm để cải tạo, giáo hóa xã hội dần dần đi đến chiều
hướng tốt hơn. Bản tính của Khổng Tử thích sự ôn hòa, thích giáo huấn con người
một cách dần dần hơn là bạo lực, mà bạo lực chưa chắc gì đã giải quyết triệt để cái
tệ “tôi giết vua, con giết cha” nói trên mà là chỉ thay thế cuộc thí quân này bằng
cuộc thí quân khác hoặc vụ giết cha này bằng vụ giết cha khác. Bạo lực chỉ giải
quyết việc trước mắt, tức thời, chỉ trị được ngọn chứ làm sao trị được gốc của tình

hình xã hội lúc bấy giờ, chỉ có cuộc cách mạng tư tưởng mới trị được gốc của cái
tệ tôi giết vua, con giết cha nói trên. Cũng theo Hồ Thích “Khổng tử chủ trương
chính danh chính từ, một mặt muốn cổ vũ hành động con người một mặt muốn
cấm dân làm bậy.”
Hầu hết các nhà Nho, các nhà nghiên cứu về Nho Giáo và Khổng Tử đều
thừa nhận rằng học thuyết “Chính danh” là một phát kiến mới mẻ của Khổng tử.
Do chính ngài quan sát thấy được tình trạng lộn xộn, mất tôn ti trật tự, trên không
ra trên, dưới không ra dưới; vua không ra vua, tôi không ra tôi, nên ngài mới đề ra
học thuyết “chính danh”. Thực chất, học thuyết “chính danh” không những chỉ có
giá trị ở thời của Khổng tử. Nói theo cách nói của học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết
lời mào cho cuốn Khổng Tử đã phát biểu rằng “Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu
cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của
nó, xem nó có giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ
so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các đời sau không. Và nếu sau
mười thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì
phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi.”
1.2.2.2.

Nội dung của học thuyết “Chính danh”


9

Khổng Tử cho rằng, mỗi vật, mỗi người sinh ra điều có một địa vị, công
dụng nhất định. Ứng với mỗi địa vị, công dụng đó là “danh” nhất định. Vật nào,
người nào trong thực tại điều có “danh” hợp với nó, nếu không “danh” sẽ không
hợp với thực, là “loạn danh”. “Chính danh” là danh và thực phải phù hợp với nhau.
Khổng Tử cho rằng, sở dĩ xã hội loạn lạc là do danh không phù hợp với thực, từ đó
dẫn đến làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn. Muốn ổn định trật tự xã hội, Khổng
Tử chủ trương phải giáo hoá đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “Chính danh, định

phận”. Danh và phận của mỗi người trước hết hết do xã hội quy định, Khổng Tử đã
quy tất cả các quan hệ xã hội thành năm mối quan hệ cơ bản (Ngũ luân) như sau:
Vua – Tôi: bề tôi phải lấy chữ trung làm đầu; Cha – Con: bề con phải lấy chữ hiếu
làm đầu; Chồng – Vợ: vợ phải lấy tiết hạnh làm đầu; Anh – Em: phải lấy chữ hữu
làm đầu; Bạn – Bè: phải lấy chữ tín làm đầu.
Năm mối quan hệ này có tiêu chuẩn riêng: Vua thì phải nhất, Tôi thì phải
trung, Cha phải hiền từ, Con phải hiếu thảo, Phu xướng phụ tuỳ. Trong năm mối
quan hệ đó Khổng Tử nhấn mạnh ba quan hệ đầu là cơ bản nhất (Tam cương) cụ
thể là: Vua – Tôi: vua là trụ cột; Cha – Con: cha là trụ cột; Chồng – Vợ: chồng là
trụ cột.
Như vậy, năm mối quan hệ đã nói rõ danh, phận, của từng người, vế sau
phải phục tùng vế trước, nếu mỗi người thực hiện đúng danh, phận đó sao cho vua
ở hết phận vua, tôi ở hết phận tôi, cha ở hết phận cha, con ở hết phận con, thì có
chính danh. Theo Khổng Tử nếu không chính danh thì lời nói không thuận, lời nói
không thuận thì việc làm không thành, việc làm không thành thì lễ nhạc không
kiến lập được, không kiến lập lại được lễ nhạc thì hình phạt không đúng, hình phạt
không đúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu. Cho nên, người “quân tử” đã
dùng cái “danh” thì phải nói ra được, nói rồi tất phải làm được, vì thế người quân
tử phải thận trọng với lời nói của mình. Nếu “danh” không chính, ngôn không
thuận, nói và làm không đúng theo chức phận của mình, “trên” không nghiêm
“dưới” loạn, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha không ra cha, chồng không ra
chồng, vợ không ra vợ, Khổng Tử cho rằng , xã hội loạn là do nguồn gốc từ trên.
Do vậy, ông rất đề cao tính tự giác của mỗi cá nhân trong việc giữ lấy cái danh
phận của mình, bởi vì nếu mỗi người tự chính được bản thân mình thì không cần
hạ lệnh mọi việc sẽ được tiến hành, nếu ngược lại dù có hạ lệnh cũng chẳng ai
theo. Khi Tử Lộ hỏi về việc chính trị, Khổng Tử nói, muốn trị nước, trước tiên ắt
phải sửa cho chính danh, vì nếu việc chính sự là ngay thẳng, cứ làm gương về sự
ngay thẳng thì không ai không dám ngay thẳng nữa. Vậy “chính danh” là gì?
“Chính danh” là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Khổng Tử
trong học thuyết về quản lý nhà nước và tổ chức xã hội của mình. Khổng Tử giải



10

thích như sau: “chính danh” là làm cho mọi việc ngay thẳng. “Chính danh” thì
người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, trên – dưới, vua – tôi, cha
– con, chồng – vợ, trật tự phân minh rõ ràng, vua lấy nghĩa mà khiến tôi, tôi lấy
trung mà thờ vua. Cụ thể là vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, chồng cho ra chồng, vợ
cho ra vợ, con cho ra con. Nói một cách khái quát là ai ở vị trí nào cũng phải làm
tròn trách nhiệm, bổn phận của mình ở các cương vị đó theo thang bậc. Như vậy,
theo Khổng Tử chính danh là điểm mấu chốt để đưa xã hội trở nên trật tự, nề nếp.
Nhưng để có “chính danh”, mỗi người phải thực hiện đúng danh phận của mình
không lạm quyền. Một xã hội có “chính danh” là một xã hội có trật tự kỷ cương,
thái bình, thịnh trị.
Hầu hết các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử đều trích dẫn một số
câu vấn đáp của thầy trò Khổng tử trong “Luận Ngữ”, thiên Tử lộ vì cho rằng đó là
câu chìa khóa của học thuyết “chính danh”. Học viên cũng xin đưa ra đây để tham
khảo:
“Tử Lộ viết: Vệ quân đãi Tử nhi vi chính, Tử tương hề tiên? Tử viết: Tất dã
chính danh hồ! Tử Lộ viết: Hữu thị tai, tử chi vu dã, hề kỳ chính? Tử viết: Dã tai
Do dã! Quân tử ư kỳ sở bất tri, cái khuyết như dã. Danh bất chính tắc ngôn bất
thuận. Ngôn bất thuận tắc sự bất thành. Sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng. Lễ nhạc
bất hưng tắc hình phạt bất trúng. Hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố
quân tử danh chi tất khả ngôn dã. Ngôn chi tất khả hành dã, quân tử ư kỳ ngôn vô
sở cẩu nhi dĩ hỹ.”.
Nghĩa là: “Tử Lộ hỏi: Nếu vua nước Vệ mời thầy về giúp cai trị nước, thầy
làm gì trước? Khổng tử đáp: Tất phải lấy chính danh làm trước vậy! Tử Lộ hỏi: Có
việc ấy sao? Thầy vu khoát lắm! Thế nào gọi là chính danh? Khổng tử đáp: Anh
Do quê mùa này! Người quân tử có điều gì mình không biết thì bỏ qua mà không
nói. Nay danh bất chính tất lời nói không thuận. Lời nói mà không thuận tất việc

chẳng thành. Việc chẳng thành thì tất lễ nhạc không hưng thịnh. Lễ nhạc không
hưng thịnh thì tất hình phạt chẳng đúng phép, hình phạt mà không đúng khuôn
phép thì tất dân không biết đặt tay chân vào đâu để nhờ cậy. Cho nên người quân
tử quan niệm được danh ắt nói ra được, mà nói ra được tất làm được. Người quân
tử nói ra điều gì nên dè dặt không cẩu thả được!”.
Câu này được nói trong hoàn cảnh vua Xuất Công nước Vệ đã chiếm ngôi
vua của cha mình một cách không hợp pháp, đồng thời ông vua này lại mời Khổng
Tử ra làm tướng quốc cho ông ta. Nếu Khổng Tử ra thì có nghĩa là thừa nhận Xuất
Công lên ngôi vua hợp pháp. Vua Vệ lên ngôi không đúng, việc này được xem là
hiện tượng tiêu biểu nhất cho tình hình vua chẳng ra vua, thần chẳng ra thần, cha


11

chẳng ra cha, con chẳng ra con ở thời của Khổng Tử. Trong hoàn cảnh như vậy
phải “chính danh”. Vậy “chính danh” ở đây bao gồm cả nội dung cần phải cải tổ lại
hệ thống chính trị để danh đúng với thực, lúc đó danh sẽ đúng với việc làm, việc
làm
sẽ
thành
Học giả Nguyễn Hiến Lê viết trong Hồi Ký của mình rằng “Thuyết chính danh của
ông (Khổng Tử) đẻ ra thuyết giết một bạo chúa là giết một tên thất phu của Mạnh,
bắt bọn cầm quyền phải có đức, phải thương dân; ông điều chỉnh lại quyền lợi,
nghĩa vụ của vua tôi; ông lại đào tạo một giai cấp mới: Kẻ sĩ để trị nước, thay thế
bọn quý tộc thiếu tài, thiếu đức, giai cấp đó đa số sống ở trong giới bình dân, địa
chủ mới và thương nhân mà ra.”.
Học thuyết “chính danh” của Khổng tử không chỉ chỉ được áp dụng trong
chính trị, cai trị mà còn được ông áp dụng trong cách gọi tên sự vật, đồ vật. Sách
Nho Giáo có câu chuyện về cái bình đựng rượu được gọi là cái “cô”. Thời trước
Khổng tử, cái bình đựng rượu có cạnh góc người ta gọi là cái “cô”. Đến đời Khổng

tử, người ta làm cái bình đựng rượu bỏ cạnh góc đi mà vẫn gọi là cái “cô”, Khổng
tử không hài lòng về tên gọi này vì theo ông, nếu cái bình đựng rượu muốn được
gọi là cái “cô” thì phải phục hồi hình dạng cũ của nó. Còn nếu không thì gán cho
nó một cái tên mới mà không gọi là cái “cô” nữa. [Khổng Tử, Nguyễn Hiến Lê,
NXB Văn Hóa 1995].
Qua hai dẫn chứng trên chúng ta thấy Khổng tử rất coi trọng tôn ti, trật tự,
trên dưới, mà tư tưởng này đã có trước thời Khổng tử rồi. Nó bị biến dạng dưới
thời ông, do đó, ông xiển dương học thuyết chính danh để sửa trị lại trật tự xã hội,
sự cai trị. Đặt sự vật với đúng tên gọi của nó (trường hợp cái “cô”).
Như vậy, theo Khổng Tử danh với thực phải hợp với nhau, nếu không hợp
thì gọi tên người ta sẽ không hiểu, lý luận khi đó sẽ không xuôi. Trong mô hình
nhà nước lý tưởng dựa theo tư tưởng “chính danh”, việc sắp xếp đúng theo trật tự
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Song nguyên tắc này đã bị lãng quên vào giai
đoạn các dòng họ chuyên chế ở Trung Quốc. Bằng cách diễn đạt như thế, Khổng
Tử muốn người cầm quyền phải gần dân, biết dân, tiếp xúc với dân, đồng thời lại
còn bổ sung quan điểm cho rằng những người cầm quyền cần phải có đạo đức.
1.2.2.3.

Các tư tưởng có liên quan đến học thuyết “Chính danh”

Các từ hiểu ngầm là “chính danh”:
Khổng tử cho rằng, việc chính trị hay hay dở là do ở người cầm quyền.
Người cầm quyền nào biết theo đường ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì cũng
thành ra ngay chính hết thảy. Ngài bảo Quý Khang tử rằng “Chính giả chính dã, tử


12

suất dĩ chính, thục cảm bất chính.”. Nghĩa là: làm chính trị là làm cho mọi việc
ngay thẳng, ông lấy ngay thẳng mà khiến người, thì ai dám không ngay thẳng? Cho

nên, hễ người trên ngay thẳng thì người dưới bắt chước mà làm theo. Vua mà ngay
chính thì không sai khiến người ta cũng làm theo điều phải, còn vua mà không
ngay chính thì có sai khiến người ta cũng không ai theo cả (kỳ thân chính, bất lệnh
nhi hành, kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng “Luận Ngữ”, thiên Tử Lộ).
Theo chúng ta nghĩ, người cầm quyền thời nào cũng phải nêu cao cái đức
của mình. Theo Khổng tử, người cầm quyền trước hết phải sửa mình cho đoan
chính cái đã. Đó là ý tứ trong câu bốn chữ của Khổng tử “chính giả, chính dã”.
Người cầm quyền theo Khổng tử phải là người “quân tử”, vì người “quân tử” ắt
phải rèn đức tức là “tu thân” trước, rồi sau đó mới có quyền bắt người trong nhà
khuôn theo phép tắc mà ông ta đưa ra tức là “tề gia”. Có “tề gia” giỏi thì mới có
thể “trị quốc” tốt, ngày nay có thể gọi là lãnh đạo quốc gia, quản lý xã hội. Có “trị
quốc” tốt thì thiên hạ mới theo về mình thì coi như đã bình được thiên hạ rồi. Theo
ý kiến cá nhân của học viên, việc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” có thể
hiểu là như vậy.
Nếu lãnh đạo của chúng ta tham nhũng, mất đức thì nói sẽ không ai nghe?
Như thế thì họ sẽ không có tư cách gì để lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo xã hội? Lại
càng không có tư cách đứng trên trường quốc tế để phát biểu, kiến nghị. Trường
hợp như vậy họ đã mất “chính danh”, làm mất luôn chức vụ cũng giống như các
vua chúa thời xưa một khi đã mất “chính danh” thì mất luôn thân phận làm vua. Do
đó, theo học viên nghĩ, học thuyết “Chính danh” tuy là được Khổng tử phát kiến
cách đây hơn 2.500 năm nhưng vẫn còn giá trị to lớn. Tuy học thuyết này là của
người Trung Hoa nhưng chúng ta có thể áp dụng theo từng hoàn cảnh, theo từng
thời gian cụ thể của dân tộc ta.

CHƯƠNG 2:
TUYỂN CHỌN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiêu chuẩn về chọn lựa công chức, cán bộ ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng quan tâm đến việc tuyển chọn công chức, cán
bộ. Sắc lệnh số 188 năm 1948 và số 76 năm 1950 về thi tuyển công chức do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã nêu cụ thể các môn thi về chính trị, pháp luật, địa

lý, lịch sử và ngoại ngữ vào biên chế Nhà Nước, nhằm tìm ra người tài xây dựng
đất nước.


13

Những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ công chức Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là: [9]
1) Phải trung thành với Tổ quốc với cách mạng, chế độ XHCN.
2) Có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi.
3) Phải có mối liên hệ mật thiết với mọi người xung quanh.
4) Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong
những tình huống khó khăn. Thất bại không hoang mang, tự ti. Thắng lợi không
kiêu ngạo, tự mãn. Khi nước ta vừa giành dược độc lập, Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Hồ Chí Minh đã kêu gọi chọn nhân tài kiến quốc: "Kiến thiết cần có nhân tài.
Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo
phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.
Ngay sau cuộc tổng tuyển cử. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục quan tâm đến việc lựa
chọn người tài giỏi ra giúp dân, giúp nước và lưu ý đến việc chọn lựa cán bộ công
chức có đủ tiêu chuẩn vào làm việc trong các cơ quan, bộ máy hành chính Nhà
nước.
Luật Cán bộ, công chức cũng có những điều khoản quy định về việc tuyển
chọn công chức, với hai đối tượng chính là công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện và công chức cấp xã. Hình thức tuyển chọn là thi cử. Tiểu luận đi sâu những
quy định tuyển dụng công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện được quy định
trong chương IV, mục 2 trong Luật cán bộ, công chức, trọng tâm là điều 35 đến 38:
Điều 35 “Việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí
việc làm và chỉ tiêu biên chế”,
Điều 36: Điều kiện đăng ký dự tuyển công chức là phải có văn bằng, chứng
chỉ phù hợp; Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; và Đủ sức khoẻ để thực hiện

nhiệm vụ.
Điều 37: Phương thức tuyển dụng công chức
Việc tuyển dụng công chức được thực hiện thông qua thi tuyển. Hình thức,
nội dung thi tuyển công chức phải phù hợp với ngành, nghề, bảo đảm lựa chọn
được những người có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu tuyển dụng.
Điều 38. Nguyên tắc tuyển dụng công chức: bảo đảm công khai, minh bạch,
khách quan và đúng pháp luật, bảo đảm tính cạnh tranh, tuyển chọn đúng người


14

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và vị trí việc làm, ưu tiên tuyển chọn người có tài năng,
người có công với nước, người dân tộc thiểu số.
Như vậy, dựa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Luật công chức, tiêu chuẩn để
được tuyển chọn cán bộ cần có tài và có đức. Và việc tuyển chọn phải phù hợp với
ngành nghề, đảm bảo lựa chọn được những người có phẩm chất và năng lực đáp
ứng nhu cầu tuyển dụng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc tuyển chọn dựa theo tiêu
chuẩn này còn gặp nhiều khó khăn và bất cập, do quan niệm con ông cháu cha
“một người làm quan cả họ được nhờ” và tàn dư của tư tưởng quan liêu “chạy
chức”. Đây là vấn nạn không thể giải quyết trong một sớm một chiều mà đòi hỏi
nhận thức đúng đắn của cán bộ về sự phát triển của Việt Nam.

CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH” TRONG
CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN CÁN BỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. “Chính danh” trong xã hội ta hiện nay
Về đường lối chính trị: Đảng ta là Đảng Cộng sản, Nhà nước ta là Nhà nước
“Nhà nước Xã hội chủ nghĩa”. Trong quá trình đổi mới, Nhà nước ta luôn kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không

phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không
phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng
và là kim chỉ nam cho những hoạt động cách mạng. Xã hội chủ nghĩa là đích đến
của sự phát triển, sự phồn vinh, sự công bằng, sự văn minh tiến bộ cho một xã hội
trong mối quan hệ cả về phát triển kinh tế với hoàn thiện văn hóa xã hội và bảo vệ
môi trường. Đó chính là việc thể hiện sự “Chính danh” của đất nước trên trường
thế
giới.
Về kinh tế: Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình
thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối
xử theo hình thức sở hữu; thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển doanh


15

nghiệp; tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước; tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể; Phát triển
mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân;
thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Về tư tưởng văn hoá xã hội: Nhà nước xác lập cơ chế dân chủ đại diện
thông qua bầu cử và bãi miễn các đại biểu nhân dân vào các chính quyền dân
cử. Đồng thời nhà nước đã cụ thể hoá các chính trị, xã hội quyền tư do cá
nhân, tự do ngôn luận trong Hiến pháp. Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân

được bày tỏ nguyện vọng của mình về những vấn đề quan tâm và bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của họ.
Nhà nước gắn bó với nhân dân, chú trọng giải quyết các khiếu nại, tố
cáo của nhân dân. Nhà nước kiên quyết xử lý, ngăn chặn những hành vi xâm
phạm quyền dân chủ của nhân dân. Nhà nước chủ trương tự do tư tưởng và
giải pháp tinh thần nhằm phát huy mọi khả năng của con người. Nhà nước quy
định các quyền tự do trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng và bảo đảm cho mọi
người thực hiện các quyền đó như tự do ngôn luận, tính ngưỡng, nghỉ ngơi,
lao động…
Xét những lý luận trong học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử từ mất
nghìn năm trước, ta thấy rằng chính phủ ta đang ra sức định “danh” và tiến hành
những
bước làm “Chính danh” từ bộ máy đến công viên chức nhà nước. “Cán bộ là
đầy tớ của dân”; “Nhà nước của dân do dân và vì dân”, “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, “Lấy dân làm gốc”, “Chính phủ điện tử”… là những cái
“danh” đã được đặt ra từ tiêu chuẩn của một đất nước theo chế độ Xã hội
chủ nghĩa. Không quá khó để nhận thấy rằng: Chính phủ - bằng những quyết định
của mình - đã làm rất nhiều việc chăm lo đời sống cho dân, phát triển kinh tế, cải
cách hành chính, chính phủ cũng cương quyết xử lý những tổ chức, cán bộ
làm những việc không đúng đắn để thiết lập lại trật tự kỷ cương (ví dụ: vụ xử
lý những cán bộ có chức quyền trong vụ án Trương Văn Cam (Năm Cam)
và đồng bọn phạm tội, vụ tham nhũng tại PMU18 - Bộ Giao thông vận tải, vụ
nhận hối lộ, mua bán côta ở Bộ Thương mại, vụ đất đai ở Đồ Sơn, Phú
Quốc…). Gần đây, việc chính quyền Hà Nội cương quyết xử lý những nhà
xây dựng trái phép, cũng là biểu hiện rõ sự “Chính danh” trong quản lý xã
hội. Phải nói ngay rằng, những việc làm của Đảng và Nhà nước là những việc làm
chính
danh. Chính danh - ở phạm trù nhân sinh - là người nào mang danh nào (chiếu
theo hệ quy chiếu ngày nay là vị trí công tác, danh phận xã hội, gia đình) thì



16

phải thực hiện chức phận tương ứng. Đảng và Nhà nước đã làm nhiều việc vì
dân vì sự phồn vinh của đất nước.
Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta đang đứng trước những thách thức lớn,
mà Đảng ta đã chỉ rõ 4 nguy cơ. Trong đó có nguy cơ về tệ nạn tham ô,
tham nhũng, thoái hoá biến chất về đạo đức, phẩm chất của một bộ phận không
nhỏ trong cán bộ, Đảng viên lợi dụng chức quyền, lợi dụng những sơ hở của pháp
luật làm điều sai trái, trái lương tâm, xa hoa, lãng phí, làm mất đi thuần phong mỹ
tục
của
dân
tộc, phai nhạt về mục tiêu lý tưởng, quan liêu, xa rời quần chúng ... Những điều
này đang làm ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp cách mạng của Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra, đất nước vẫn còn diễn ra tình trạng cửa quyền, hách dịch, cố bày ra
những thủ tục hành dân, làm việc với dân theo kiểu ban ơn chứ không phải trách
nhiệm… ở những nơi đó không có chính danh, công viên chức Nhà nước và đương
nhiên trật tự kỷ cương đã bị bóp méo, gây bức xúc trong nhân dân. Đặc biệt gần
đây
một số cá nhân có chức vụ trong tổ chức xã hội, tôn giáo như Nguyễn Văn Lý,
Lê Công Định, Ngô Quang Kiệt… mà dư luận trong nước đã đề cập đến gần
đây ít nhiều, đã không vì “chính danh, định phận” đã rêu rao, xuyên tạc sự thật về
những gì mà Nhà nước và Đảng ta đã và đang thực hiện vì mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3.2. Ý nghĩa của học thuyết “Chính danh” đối với công tác tuyển chọn
cán bộ ở nước ta hiện nay
Đối với Việt Nam từ “chính trị Nho Giáo” có ảnh hưởng rất quan trọng.
Thực tế khi xây dựng các triều đại phong kiến đã cho thấy điều đó, Nho giáo đã
góp phần quan trọng vào việc tổ chức đời sống - xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội

phong kiến một cách có nề nếp, có quy chế, có kỷ cương. Nó đã có những đóng
góp tích cực trong việc khuyên bảo, dạy dỗ con người thương yêu đồng loại, quan
hệ tốt với nhau. Sống yên vui, hòa thuận với nhau. Nho Giáo đặt giáo dục đạo đức
để thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt. Nho Giáo tỏ rõ tinh thần
tích cực, đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận việc dân, việc nước nhằm thực
hiện lý tưởng của Nho Giáo ở khắp mọi nơi.
Vì thế cho nên Nho giáo thể hiện khá rõ tính nhân đạo và nó góp phần tích
cực vào việc thúc đẩy xã hội học tập. Những ý nghĩa đó đến nay vẫn còn giá trị mà
chúng ta đang vận dụng, phát triển. Nếu thành công sẽ góp phần rất lớn vào việc
ổn định và phát triển đất nước trên nhiều mặt.


17

Qua 20 năm đổi mới đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời cũng còn không ít thiếu sót và vấn
đề mới đặt ra đòi hỏi được giải quyết. Trong 20 năm đó, trong nước và trên thế giới
có nhiều biến đổi phức tạp tạo ra cả thời cơ và thách thức mà tất cả chúng ta cần
phải vượt qua, rút kinh nghiệm để tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.
Đảng ta luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân
dân ta, đi lên Chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của
cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, đây là một sự nghiệp lâu dài vô cùng khó khăn, từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề như nước ta đi
lên Chủ nghĩa xã hội lại càng khó khăn, phải trải qua nhiều thời kỳ, nhiều chặng
đường vừa làm, vừa thực hiện, vừa rút kinh nghiệm và phải biết kế thừa, phát huy
những thành tựu của dân tộc và tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm
của thời đại để vận dụng đúng đắn phù hợp với thực tế và quy luật khách quan. Để
làm được điều đó toàn Đảng, toàn dân chúng ta phải quyết tâm thực hiện mọi chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đặt ra. Mỗi người phải thấy

được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, phải góp sức mình vào
xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đây là mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân ta hướng tới.
Cụ thể trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã khẳng định phải đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền thực sự là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội
bằng pháp luật và các công cụ khác. Nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng
phải trong khuôn khổ pháp luật. Vì vậy, chúng ta phải đề ra một hệ thống pháp luật
đồng bộ và đưa vào thực thi.
Vấn đề đặt ra là khi chúng ta đã đề ra luật, chính sách thì chúng ta phải thực
hiện bằng được, nếu đưa ra mà không thực hiện được thì sẽ không thể trừng trị
những người có hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân. Để
quyết tâm thực hiện được chủ trương, chính sách, pháp luật thì đòi hỏi mỗi người
dân phải có ý thức, trách nhiệm hay nói cách khác là phải "chính danh, định phận",
nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều. Bên cạnh đó thì chúng ta phải kết hợp các
biện pháp giáo dục đạo đức, truyền thống để nâng cao ý thức pháp luật cho người
dân. Để làm được điều đó, nếu chúng ta vận dụng, phát triển học thuyết “chính
danh” của Nho giáo ở những nhân tố hợp lý thì sẽ thu được hiệu quả rất cao.
Chúng ta đang xây dựng một trật tự kỷ cương trong xã hội: Đảng ra Đảng, Nhà
nước ra Nhà nước, thủ trưởng ra thủ trưởng, nhân viên ra nhân viên, không có sự
lẫn lộn. Mỗi người, mỗi tổ chức phải giữ đúng danh phận, chức trách của mình.


18

Trước hết chúng ta phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có trí tuệ
xứng đáng với vai trò lãnh đạo toàn xã hội. Muốn xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh, điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh
hoạt và công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp
hành nghiêm chỉnh cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực trong xã
hội.
Nói cách khác, người cán bộ, đảng viên phải thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư (như Hồ Chí Minh đã đề ra và vận dụng cho công cuộc cách mạng của
Việt Nam) để làm gương cho nhân dân noi theo. Đó là điều rất quan trọng trong
giai đoạn hiện nay.
Từ những cái nhìn tổng quát của quá trình phát triển xã hội thay đổi, từ thời
kỳ chịu nhiều ách đô hộ của bọn thực dân, đến thời bình xây dựng giữa nước và
phát triển kinh tế được Đảng Cộng Sản Việt Nam nghiên cứu ứng dụng, việc áp
dụng xây dựng cho mối cán bộ trong cơ quan về những điểm ưu việc của thuyết
Chính danh rất quan trọng. Thực hiện nhiều nghị quyết của Đảng về việc phê và tự
phê trong mỗi Đảng viên, trong mỗi cán bộ của cơ quan, lấy phiếu tín nhiệm ứng
với mỗi vị trí chức vụ khác nhau. Đây cũng là việc làm nhằm tăng tính gắn kết của
“danh” và “phận”, tăng tính trách nhiệm của mỗi cán bộ ở vị trí công việc khác
nhau để không bị sao nhãn chệch hướng phấn đấu, mỗi cán bộ phải đạt được
"chính giả, chính dã".
Đề xuất giải pháp cho việc tuyển chọn chính danh “cán bộ tốt”
V.I.Lê-nin đã từng nói: “phải lựa chọn đặc biệt cẩn thận những cán bộ tốt”.
Với mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại thì việc tuyển chọn được chính danh “cán bộ tốt” là yêu tố then
chốt. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho chúng ta phải thực hiện thật kiên quyết và
tốt ngay từ khâu lựa chọn cán bộ. Có như thế, Việt Nam mới mong có được đội
ngũ cán bộ "vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội lại vừa có năng lực", đủ sức hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
3.3.

Trước khi tiến hành chọn lựa cán bộ
Tổ chức kiểm tra toàn diện trình độ, đạo đức cán bộ hiện nay nhằm loại bỏ
những cán bộ thiếu tài, thiếu đức, thiếu tôn trọng nhân dân.
Thiết lập một cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình tuyển dụng cán bộ, công

chức từ vòng sơ tuyển, đề thi, giám khảo, chấm thi…
3.3.1.

3.3.2.

Quá trình tuyển dụng


19

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc trả lời phỏng vấn trên
Petrotime ngày 3/5/2011 cho rằng: “Khi nào tuyển chọn nhân tài một cách công
khai, dân chủ thì sẽ có người tài phụng sự đất nước”. Đây là giải pháp tốt vừa xóa
bỏ vấn nạn con ông cháu cha, chạy chức, vừa tuyển chọn được nhân tài.
Từ đó minh bạch trong tuyển dụng cán bộ công chức. Từ sau khi ban hành
Luật cán bộ, công chức có hiệu lực ngày 1/1/2010, những thông tin thi tuyển cán
bộ, công chức đã được công khai trên các phương tiện truyền thông. Nhưng việc
thi tuyển này vẫn còn tồn tại ít nhiều vấn đề bất cập. Nhiều cơ quan trong quá trình
sơ tuyển, do muốn đưa người nhà, người quen vào nên tự đặt tiêu chuẩn, điều kiện
trái quy định như phân biệt giới tính, trường đào tạo, loại hình đào tạo, loại bằng
cấp, đăng ký chuyên môn trong phạm vi hẹp... nhằm loại các thí sinh không quen
biết, để người của mình dự thi dễ dàng trúng tuyển. Một số cơ quan còn tự ý đặt ra
những nội dung kiểm tra kiến thức chuyên ngành thiếu tính khách quan. Trong lúc
coi thi vẫn còn nhiều trường hợp gửi gắm, vi phạm, đánh đấu bài.
Vì vậy, muốn minh bạch trong việc thi tuyển cán bộ, cần có một hội đồng ra
đề và coi thi độc lập với đơn vị thi tuyển. Cũng cần có một hội đồng giám sát việc
ra đề và coi thi. Như vậy mới có thể minh bạch trong tuyển dụng cán bộ công
chức, đồng thời có thể khách quan chọn lựa nhân tài.
Ngoài ra, cần phải phát huy mạnh mẽ dân chủ trong tuyển chọn cán bộ, công
chức. Phó giáo sư-tiến sỹ Vũ Văn Gầu cho rằng “trong tuyển chọn cán bộ. Đảng

thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo của hệ thống chính trị là điều tất yếu nhưng Đảng nên chỉ giới thiệu, còn việc
chọn ai thì do quần chúng ở các cấp, các ngành lựa chọn và bầu những người đủ
năng lực, phẩm chất đạo đức để lãnh đạo mình” [20]
Muốn lựa chọn "cẩn thận những cán bộ tốt", phải thực hiện "cơ chế, chính
sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử
dụng người tài", để quần chúng nhân dân có thể hiểu được những ưu điểm, nhược
điểm, hạn chế, nắm được đức và tài của những người mà mình sẽ lựa chọn bầu làm
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. [21]

PHẦN KẾT LUẬN
Không ai chối cãi được rằng Khổng Tử hay Nho giáo đã tham gia một phần
vào sự đúc nặn diện mạo tinh thần dân tộc và vào sự hình thành văn hoá dân tộc.


20

Qua nghiên cứu nội dung học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử, nếu chúng ta
gạt bỏ hết đi những yếu tố bất hợp lý như là bất bình đẳng, thang bậc xã hội, gạn
lọc những nhân tố hợp lý của học thuyết trên thì nó rất có ý nghĩa đối với xã hội ta
hiện nay, đối với quản lý những con người những cán bộ trong mỗi cơ quan mà
học viên đang làm. Vận dụng nó chúng ta nâng tầm xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa có tâm hồn trong sáng, có trí tuệ và thể lực tốt cùng với lập trường
và quan điểm rõ ràng, đồng thời có trách nhiệm với chính bản thân mình, với mọi
người, có lòng yêu thương đồng nghiệp, luôn phấn khởi va đem hết nhiệt tình, trí
tuệ và năng lực của mình đóng góp một cách tích cực vào cuộc phấn đấu chung
của cơ quan nói riêng và của cả nước, thế giới nói chung.
Ngày nay tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống chúng ta cần phải
phát huy nhân tố con người, khuyến khích người dân học tập nâng cao trình độ tri

thức, khuyến khích các cán bộ trong cơ quan phải học tập khí tiến học, tinh thần
học, thái độ học của Nho giáo để không những tu dưỡng rèn luyện thành con người
có đức mà còn phải học khoa học kỹ thuật để vận dụng và phát triển đất nước. Phải
tôn trọng và sử dụng người hiền tài, tạo điều kiện cho họ làm việc phù hợp với sở
trường của từng người để tạo ra được giá trị cao trong lao động dù ở cương vị nào
cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Việc tuyển chọn được “cán bộ tốt” không đơn giản, nó mà đòi hỏi những
cán bộ phải lấy lợi ích của dân tộc, của quốc gia lên hàng đầu thay vì lợi ích cá
nhân. Việt Nam đang gặp nhiều thách thức trong quá trình đổi mới và hội nhập, thì
cán bộ không chỉ là người “quân tử”, mà con phải hành động theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Như vậy, Việt Nam mới hy vọng tiến đến Chủ nghĩa xã hội.
Việc cấp thiết lúc này nhất là cần thiết lập một cơ cấu tổ chức và giám sát
chặt chẽ quá trình tuyển chọn cán bộ. Trong đó, quan trọng nhất là công khai, dân
chủ hóa và có chính sách thu hút người tài bằng cách sắp xếp đúng người, đúng
việc, trách nhiệm và quyền hạn phù hợp. Chỉ như vậy, Việt Nam mới có thể phát
triển bền vững ngay từ nền móng, để rồi “sánh vai cùng các cường quốc năm
châu”.


21



×