Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng việt (đối chiếu với tiếng hán hiện đại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 196 trang )

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt
(đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)

Mã số: 62.22.01.01
Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ
Nghiên cứu sinh: Đào Mạnh Toàn
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. Hồ Lê; TS. Trần Hoàng
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh


2
DẪN NHẬP
1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong
ngôn ngữ, nó bao gồm: ĐÂ và ĐN trong từ, ĐÂ và ĐN trong ngữ, ĐÂ và ĐN
trong câu. Trong đó, ĐÂ và ĐN trong từ là HT phổ biến nhất. Với tư cách là trung
tâm của HTĐÂ và HTĐN, từ ĐÂ và từ ĐN đã được bàn đến từ khá sớm. Tuy vậy,
cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu . Những công
trình khảo sát về từ ĐÂ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều
hướng và mỗi hướng tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong
một hướng tiếp cận thì những đặc điểm, những khía cạnh liên quan đến từ ĐÂ và
từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau giữa các tác giả.
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường
hướng tiếp cận và mức độ khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng
xác định các tiêu chí nhận diệnĐÂ,
từ từ ĐN, đề xuất các hướng miêu,tả
phân loạichúng.
Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ. Tuy nhiên, chưa
có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của
mình, đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG)


với những từ ĐÂKG nghĩa (ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới.
Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ
ĐN, sự khác biệt giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có
quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ
có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác định: đối tượng nghiên cứu
chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối chiếu nó
với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm
ra những chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng
chọn đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).
Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ ĐÂ và từ ĐN nói
chung mà sẽ còn tập trung nghiên cứu từ ĐÂ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và
ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ


3
được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng làm rõ được vị trí, vai
trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và
ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy
được những điểm giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN,
từ ĐÂ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong THHĐ để tìm ra
những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới
trong một số tự vị do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ
viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:
Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn
tự điển tường giải đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng
ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì:
“Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc âm tự vị đã phân biệt được các
đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình này chúng

tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá
trình phân li ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài…
Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới
HTĐÂ của TV với việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ
khó viết hoặc những chữ ĐÂ cùng những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu
hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t, có g hay là không có g ở
sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai phần
(1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm
thu thập những ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc
Ấn Âu không được thu thập và giải thích trong công trình này. Mặc dù tác giả
không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích, sắp xếp của tác giả, ta
vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác
nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn
Văn Mai mới chỉ thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí
thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn


4
ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song bước đầu cũng đã gợi mở ra
một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ thuần
Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn
tiết.… Đó là những đóng góp không thể phủ nhận.
Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam
quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân
biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá
rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán để phân biệt. Nghĩa của các
ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều có ví dụ
minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số
La Mã. Sau cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn,
loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải thích và sắp xếp như sau:

A.

I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc:

Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.
II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…)

Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình
này vẫn còn bỏ sót những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ
giữa những ĐV thuần Việt với những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu…
Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây
là một bộ TĐ có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích,
phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển
đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt, xử lí các ĐVĐÂ Hán và
Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các ĐVĐÂ
có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các
ĐVĐÂ đó cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là
DAO được ông phân tách thành 07 mục từ nhỏ như sau:
Dao 摇 Lay động.
Dao 遥 Xa.
Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.
Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.


5
Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được.
Dao 徭 Xch. Dao dịch.
Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước
tàu… (Hán Việt từ điển, tr. 197-198)


Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN
được tác giả bàn đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần
Lược khảo về từ chương (tr.139). Theo tác giả thì: “ĐÂ nghĩa là đọc giống nhau.
Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè – Nước Việt Nam – Nước cờ là
những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.
Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm
trong Việt Nam văn phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì
trong chương I Những điều khái lược (tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là
những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là
những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái nghĩa thì
khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ
có vua quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng
năm là nói khoảng thời gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số
đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).
Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ:
“những tiếng ĐÂ ấy nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví
dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明, chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ minh
là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề thì viết chữ 盟, chữ minh
là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết chữ 鸣”.Theo
họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc
- ngữ thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu
tiếng minh có sáu nghĩa riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu
nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19).
Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có
năm cái dấu giọng có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm


6
tuy đúng, song khi gặp những tiếng đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra
người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân - biệt những nghĩa khác

nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III).
Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm
lưu ‎ý. Ở giai đoạn này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công
trình có tính lí luận, những công trình tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình
dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số học giả nên thành tựu
nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN trong
TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái
khó của việc phân biệt những ĐVĐÂ thuần Việt và những ĐVĐÂ gốc Hán khi
không có chữ Hán chú kèm, (2) HTĐÂ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3)
việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột giữa các loại văn tự đã và đang
được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận diện các
ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách
phát âm vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐÂ với những ĐVĐN...
Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các
nhà Việt ngữ học. Khảo sát những công trình này chúng tôi nhận thấy, trong khi
các học giả phía Nam vẫn tuân theo tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp
phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả phía Bắc lại có xu thế
nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này phần
lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú‎ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến
bộ hơn Nguyễn Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược
điểm, những bất cập của chữ Quốc ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của
ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh đối chiếu và chọn mẫu
trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tôi đối chiếu các tự
điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và
thống - nhứt văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những
cải tiến, sáng tạo hơn về phương pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương
pháp sắp xếp các ĐVĐÂ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi một đầu mục từ hay sau



7
mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay hình
vị ĐÂ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị ĐÂ được cho vào
ngoặc đơn để phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê
những kết hợp từ có chứa hình vị được giải thích. Ví dụ:
Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ;
ái tình ; bác ái ; bể ái ; luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3
Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09).

Nghĩa của các từ hay các hình vị ĐÂ được thống kê và giải thích trong
Đồng âm vận tuyển khá rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo
thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ được đưa ra giải thích còn có phần
Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những hình vị được giải
thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được
đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát
nhằm mục đích giúp người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và
áng được tác giả phân biệt như sau:
“Án binh, hương án, án quan
Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10).

Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm
vận tuyển còn thu thập, giải thích cả những hình vị ĐÂ gốc Pháp.
Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công
trình này vẫn bộc lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp
nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của
hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó nghĩa của hình vị bạch
trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị này
ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn,
không có của cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27).
Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn Tập đã đem tất cả các ĐVĐÂ mà ngày nay

được dán nhãn là “ĐÂ được cấu tạo theo kiểu chuyển loại” như: cuốc (dt) <->
cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tự- điển
Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34).


8
Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ ĐÂ của Hoàng
Phê [104, tr.3-18]. Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ ĐÂ là
một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều
nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển phổ thông, nếu quan hệ
giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”.
Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải
thích nghĩa của các ĐV từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan
điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối với các ĐVĐN. Đây là một công trình
thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này.
Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những
khó khăn của việc biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn
trong việc giải thích nghĩa của từ TV và khẳng định: “điều quan trọng nhất là
tính hệ thống trong cách làm việc”.
Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những
quyển từ điển của ta trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời
rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở
cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không thể giúp cho
người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng
từ vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở
cách giải thích các nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó
là “người đọc từ cách giải thích đó thường không thấy được mối quan hệ giữa
các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ ĐÂ và tách nghĩa của từ với
những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong trường
hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01

hay 02 nghĩa. Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm
hai từ nhưng ở một từ khác tương tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ
băng, đèn, bay.
Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách
nghĩa của từ, các nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển.
Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03 tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau:


9
Nguyên tắc thứ nhất, “khi xử lí một ĐV từ vựng nào đó về mặt nghĩa cần
chú ý đến các HT giống nhau xảy ra trong toàn nhóm, tránh tình trạng cô lập đối
tượng. […] Vì việc tách một ĐV thành những từ riêng rẽ có liên quan tới lí luận
về ranh giới giữa HT nhiều nghĩa và HTĐ”. Đỗ Hữu Châu đề ra tiêu chuẩn
tách từ ĐÂ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra một cách cá biệt mà ngày
nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác của
từ thì có thể tách nghĩa ấy thành một từ ĐÂ hay một quán ngữ.... Không thể
tách các từ ĐÂ nếu HT chuyển nghĩa đó xảy ra giống nhau trong cả một loạt
từ. Còn đối với các HT cá biệt thì việc có tách thành từ ĐÂ hay không là tùy
vào cách xử lí của người biên soạn và việc ấy không có ảnh hưởng gì tới
toàn hệ thống”.
Nguyên tắc thứ hai, “khi xử lí một từ cần nêu được thuộc tính thường trực
tổ chức và chi phối các nghĩa khác nhau của từ đó”. Theo Đỗ Hữu Châu, “đối với
các từ một nghĩa thì việc so sánh nó với các từ khác cùng nhóm (trái nghĩa, đồng
nghĩa) là điều quan trọng. Còn đối với từ nhiều nghĩa thì ngoài việc cần so sánh
với các từ cùng nhóm còn cần so sánh các nghĩa khác nhau của nó với nhau”.
Về việc sắp xếp các nghĩa của từ theo thứ tự, ông cho rằng: “nên sắp xếp
làm sao cho quan hệ giữa các nghĩa được nổi bật, làm sao cho thuộc tính thường
trực được nổi bật và được hiện lên trong lời giải thích”.
Về việc tách các nghĩa, ông đề ra ba tiêu chuẩn sau: (1) “Nếu từ được giải
thích có bao nhiêu đặc điểm từ loại khác nhau thì có thể chia thành bấy nhiêu

nghĩa”, (2) “nếu trong cùng một đặc điểm từ loại, từ đó có bao nhiêu đặc điểm cú
pháp (đặc điểm kết hợp) thì có thể có bấy nhiêu nghĩa trong phạm vi đặc điểm từ
loại ấy”, (3) “sau khi đã chia thành những đặc điểm ngữ pháp khác nhau nếu
trong cùng một đặc điểm ngữ pháp, từ ấy có khả năng kết hợp với bao nhiêu từ
loại khác xét về ngữ nghĩa thì có thể chia thêm thành bấy nhiêu nghĩa”. Theo ông,
trong ba tiêu chuẩn trên thì các tiêu chuẩn 01 và 02 là tiêu chuẩn mạnh còn tiêu
chuẩn 03 là tiêu chuẩn thứ yếu hay được dùng trong các cuốn từ điển trước đây.
Xem xét quan điểm của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi thấy rằng: tác giả nhấn
mạnh và chú ý nhiều tới tiêu chuẩn tính thường trực và quan điểm hệ thống trong


10
việc xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển. Qua quan điểm này, chúng ta
thấy được những khó khăn và những giải pháp của các nhà từ điển học cũng như
của tác giả khi xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển, nhất là việc thu thập,
sắp xếp, xử lí các từ ĐÂ và ĐN.
Năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.21-27] trình bày quan điểm về
HTĐÂ trong TV. Theo ông, có 02 đặc điểm quan trọng chi phối HTĐÂ trong TV
là: (1) không biến hình và (2) hình vị trong TV thường trùng với âm tiết. Theo
Nguyễn Thiện Giáp, từ ĐÂ trong TV có 04 đặc điểm sau: từ đơn một âm tiết
nhiều, chỉ tìm được một SL rất nhỏ từ đa âm tiết và từ ghép ĐÂ với nhau nhờ HT
chuyển loại. HTĐÂ trong TV ít hơn so với THHĐ bởi SLÂT cơ bản trong tiếng
Hán ít hơn TV và bao giờ cũng có giá trị đối lập về ‎ý nghĩa. Đặc điểm nổi bật của
HTĐÂ trong TV là ĐÂ bộ phận (ĐÂ xảy ra giữa một hình vị cấu tạo từ với một
từ một hình vị). Ông phân loại từ ĐÂ trong TV thành 02 loại là: từ ĐÂ hoàn toàn
và từ ĐÂ bộ phận.
Từ 1976 tới nay, HTĐÂ, ĐN của TV tiếp tục nhận được sự quan tâm của
các nhà Việt ngữ học. Đáng chú‎ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1976, đáng chú ý là quan điểm của Hồ Lê [77, tr.111-254]. Tác giả,
khi trình bày về Các mẫu cấu tạo từ tiếng Việt (06 loại nguyên vị), thông qua

việc lập danh sách các loại nguyên vị trong TV đã phân biệt rất rõ ràng các
nguyên vị ĐÂ trong hệ thống nguyên vị của TV. Bên cạnh công trình này Hồ Lê
còn có một số công trình khác hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về HT từ ĐÂ,
ĐN trong TV như: [80, tr.59-152] (khi trình bày về đặc điểm ngữ nghĩa – cú
pháp của các từ loại dt, đg, tt, phụ từ; khi trình bày những tiểu loại chính trong
từng loại từ, đặc biệt là khi bàn về sự phân loại đg). Về HTĐN nói chung và về
từ ĐN nói riêng, ông cũng có những đóng góp và kiến giải sâu sắc về lí luận [82].
Năm 1978, Đinh Văn Đức [40, tr.31-39] đã gián tiếp bày tỏ quan điểm của
mình về từ ĐÂ (ĐÂ do chuyển loại) và việc phân loại từ ĐÂ. Theo ông, những
ĐVĐÂ do chuyển loại có SL không lớn, là những ĐV có chung biểu vật nhưng
thuộc về những từ loại khác nhau, không có sự phân biệt về hình thái học nhưng có
những đặc trưng cú pháp khác nhau, có những quan hệ mới trong những trường


11
hợp khác nhau (khi làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ), bởi vậy tác giả cho rằng nên
tách ra hai từ riêng biệt và nên xếp chúng vào hai từ ĐÂ ngữ pháp và chỉ có thể
phân biệt với nhau bởi các ý nghĩa ngữ pháp. Và như vậy, chúng trở thành một tiểu
loại ĐÂ (ĐÂ ngữ pháp) bên cạnh loại ĐÂ truyền thống là ĐÂ ngẫu nhiên.
Năm 1978, Nhữ Thành [124, tr.40-48] tìm hiểu từ ĐÂ dưới góc độ tu từ
học. Qua việc khảo sát bốn kiểu hoạt động của âm tiết TV (hoạt động độc lập
thành một từ, hoạt động hạn chế với tư cách là một yếu tố CTT, hoạt động láy
âm, hoạt động kết hợp đơn nhất), tác giả đưa ra 05 nhóm đối lập có thể tạo nên
ĐÂ trong cách chơi chữ cổ và 03 cách đối lập khác do vai trò của từ phiên âm
trong TV hiện đại có thể tạo nên HTĐÂ. Từ việc đưa ra những nhóm đối lập
trên, tác giả đã loại trừ hai HT: (1) Âm tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết phiên âm
và (2) âm tiết láy âm ĐÂ với âm tiết láy âm. Tiếp đó, tác giả đi vào khảo sát
năm nhóm đối lập đầu tiên và kết luận “hình thức âm tiết tự do ĐÂ với âm tiết
tự do xuất hiện nhiều nhất”.
Năm 1978, còn có quan điểm của Nguyễn văn Tu [138]. Quan điểm của ông tập

chung chủ yếu ở chương VI (Nghĩa từ vựng và kết cấu nghĩa của từ, tr.93-179) và ở
chương XV (Từ điển Việt Nam, tr.321-337). Trong chương VI, ông bàn về: nguồn gốc,
cách phân loại, cách phân giới hạn từ ĐÂ. Ông chia từ ĐÂ thành hai kiểu: (1) Từ ĐÂ từ
vựng và (2) từ ĐÂ từ vựng – ngữ pháp. Theo tác giả, từ ĐÂ có ba nguồn gốc sau: (1) Từ
ĐÂ ngẫu nhiên, (2) từ ĐÂ tạo ra do sự diễn biến về ngữ âm, (3) những từ ĐÂ do sự
tách rời các ý nghĩa của một từ ĐN. Tác giả đề ra 03 cách phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều
nghĩa: (1) tìm những dấu hiệu khách quan, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) chú ý
cả đến mặt lôgích, mặt tâm lí của nghĩa và mặt ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại.
Theo ông, trong ba cách trên, cách thứ ba là cách có hiệu năng hơn trong việc phân biệt
từ nhiều nghĩa và từ ĐÂ trong TV.
Năm 1981, đáng chú ý là quan điểm của Đỗ Hữu Châu [19]. Ông cho rằng:
“những ĐVĐÂ là những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau
về ý nghĩa”. Và “chỉ nên xem là ĐÂ thực sự khi các ĐV trong cùng một cấp độ
ĐÂ.” (tr.228). Ông cũng không coi là ĐÂ những trường hợp do cách phát âm


12
lệch chuẩn gây ra. Lí giải nguyên nhân hình thành HTĐÂ, ông cho rằng: do sự
trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm, do sự rút gọn gây ra.
Bàn về việc phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa, Đỗ Hữu Châu cho rằng:
“khó khăn nhất là phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa
chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì tách ra thành hai ba từ ĐÂ... tuy nhiên
rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...” Những trường hợp
khó xác định theo ông là: (1) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự
chuyển từ loại lớn như: cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt)
và thịt (thịt một con lợn)..., (2) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự
chuyển tiểu loại như: chạy (chạy trên đường) và chạy (chạy gạo)..., (3)
những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các nghĩa tuy đã khá mờ
nhạt nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng tay),
lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)..., những khó khăn trên theo ông là vẫn chưa

thể giải quyết được (tr.231-233).
Năm 1989, đáng chú ý là quan điểm của Lê Quang Thiêm [130, tr.116-189].
Trong chương IV, tác giả khẳng định: “…TV, do những đặc điểm của hình vị,
thường đơn nghĩa hoặc có ĐN thì cũng có SL rất hạn chế […] hình vị TV có đặc
trưng nổi bật nhất là ở mặt ĐÂ. Do hình vị TV tuyệt đại bộ phận là có nghĩa,
ngoài từ, phạm vi hoạt động rộng, hoàn thành nhiều chức năng nên thường có
nhiều cặp ĐÂ: về (đgt), về (từ liên hệ)” (tr.117). Trong chương VII, khi bàn về
Biểu hiện ĐÂ giữa các ngôn ngữ, Lê Quang Thiêm đã chia HTĐÂ thành: (1)
HTĐÂ ngẫu nhiên giữa các ngôn ngữ, (2) ĐÂ do kết quả tiếp xúc, vay mượn, (3)
HTĐÂ do sự giống nhau hoặc gần gũi về ngữ hệ và cấu trúc ngôn ngữ.
Khi bàn về Các bình diện ĐÂ, tác giả cho rằng “ĐÂ là những ĐV khác
nhau, có hình thức ngữ âm giống nhau. Như vậy, sự khác nhau chủ yếu là về mặt
nội dung. Và cần được xác định trên ba cơ sở là: (1) dựa vào sự phân biệt cấp độ
(cùng hoặc khác cấp độ), (2) các loại ĐV xác định (từ, hình vị, từ tổ), (3) các
mức độ khác nhau của sự Đ” (tr. 139). Theo tác giả, những ĐV giống nhau về
âm thanh mà khác cấp độ thì chắc chắn là ĐÂ. Đó là những ĐVĐÂ khác bậc.
Còn những ĐV giống nhau về âm thanh, ở cùng một cấp độ, khác nhau về nội


13
dung thì là những ĐVĐÂ cùng bậc (ĐÂ giữa từ với từ, hình vị với hình vị, từ tố
với từ tố). Trong hai loại trên, Lê Quang Thiêm xếp loại 01vào ĐÂ hình vị. Theo
ông, khi phân biệt các hình vị ĐÂ cũng nhất thiết phải dựa vào tiêu chuẩn ‎ý
nghĩa (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tạo từ, ý nghĩa cấu trúc). Theo
ông, “Trong TV, các hình vị ĐÂ là các âm tiết, chúng có SL lớn…, TV có nhiều
ĐÂ khác bậc (từ - hình vị; từ thuần – hình vị Hán Việt)” (tr.140).
Bàn về các dạng thể hiện ĐÂ từ, ông cho rằng “loại ĐV thể hiện ĐÂ điển
hình hơn cả là từ, vì rằng từ là ĐV phức tạp về cấu trúc và ý nghĩa. Từ cũng là
ĐV đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau và có nhiều hình thức thể hiện trong
ngôn ngữ và trong lời nói. Xét về mặt ý nghĩa, từ cũng là ĐV phức tạp, điển hình

về nghĩa”. Theo Lê Quang Thiêm “đối với ĐÂ từ vựng, cần phải xem xét: các
dạng biểu hiện ĐÂ của từ (có ý nghĩa từ vựng khác nhau) và ĐÂ hình thái của từ
(có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau)”. Đáng chú ‎ý là những nhận xét của tác giả về
02 khái niệm “hình thức từ” và “âm thanh từ”. Theo ông, “hình thức từ đối với
nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện ở mặt âm thanh và cả chữ viết. Khi nói về sự
giống nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất là âm
thanh. Song mặt khác không kém phần quan trọng, mặc dầu không hoàn toàn
chính xác là giống nhau về chữ viết. Chữ viết là biểu hiện kèm theo, vì hệ thống
chữ viết dù là “ghi âm vị” như TV cũng còn nhiều bất hợp lí cho nên không thể
dựa vào chữ viết làm chính mà chỉ xem là biểu hiện kèm theo. ĐÂ là giống nhau
về âm thanh. Đó là điều kiện tiên quyết, bắt buộc…” (tr.142). Theo tác giả, ĐÂ
hình thái là: “khi 02 hình thái từ (nói và viết) như nhau, có ý nghĩa ngữ pháp
khác nhau thì đó là ĐÂ hình thái”. Theo ông, TV và các ngôn ngữ đơn lập không
có ĐÂ hình thái.
Theo Lê Quang Thiêm, khi nói về ĐÂ cần chú ý tới các dạng ĐÂ và các
thuật ngữ sau: (1) ĐT dạng: là dạng viết giống nhau của các từ khác nhau (xét về
ý nghĩa từ vựng), (2) ĐÂ dạng: là dạng nói giống nhau của những từ khác nhau
(xét về ý nghĩa từ vựng), là ĐÂ theo nghĩa rộng, (3) từ ĐÂ: là những từ khác
nhau mà viết và nói như nhau, hay là từ ĐÂ hoàn toàn, ĐÂ theo nghĩa hẹp, (4)


14
ĐÂ hình thái: là ĐÂ ngữ pháp, đó là những hình thái của cùng một từ, giống
nhau về mặt âm thanh và chữ viết, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau.
Khi bàn về đặc điểm của sự thể hiện ĐÂ ở các ngôn ngữ (tr 144) Lê Quang
Thiêm cho rằng: “ (1) TV là ngôn ngữ không biến đổi hình thái từ để biểu hiện ý
nghĩa ngữ pháp nên tiêu chuẩn quan trọng để xác định từ ĐÂ hoàn toàn là khả
năng kết hợp của từ, (2) ĐÂ bộ phận (thường là các từ ĐÂ khác từ loại, khả năng
kết hợp ngữ pháp khác nhau) như: về1 (về nhà) về2 (bàn về)…, (3) ĐÂ dạng, có
khi không được thể hiện ra bằng chữ viết cho nên không thể căn cứ vào chữ viết

để xác định: ty1 (ty; sở); ti2 (cái ti). Trong TV, HTĐÂ dạng xảy ra với từ có cách
viết với các âm vị: k – k, c; i – y; z – d, gi… như: cuốc1 (cái cuốc) và quốc2 (tổ
quốc); dây1 (sợi dây) và giây2 ( giây phút), (4) khi bàn về Đồng tự dạng trong TV
phải chú ý tới khả năng khu biệt nghĩa của thanh không dấu, (5) TV không biến
đổi hình thái nên không có vấn đề đồng hình thái”.
Theo Lê Quang Thiêm, “HTĐN là HT một ĐV ngôn ngữ mà cấu tạo nội
dung của nó có nhiều nghĩa khác nhau… là HT phổ biến trong mọi ngôn ngữ”.
(tr.174). Chọn cách hiểu “từ ĐN là từ mà nội dung bao gồm một số nghĩa khác
nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống nằm trong các mối quan hệ liên kết
với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và nhiều nét nghĩa loại biệt. Các nét
nghĩa loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở
trên một số giống nhau về chức năng, hình thức hoặc thuộc tính nào đó của đối
tượng”. Ông nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa
khái quát, ổn định, mang tính hệ thống cao […]. Nhờ có tính hệ thống ổn định
này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định
trong TĐ […]. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc
điểm ĐN của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được tập
thể ngôn ngữ ấy xây dựng nên. Nó cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng
của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản của ngôn ngữ.” (tr.178).
Trong công trình này, Lê Quang Thiêm sau khi phân tích các dt, đg, tt trong
37.088 từ TV đã đưa ra số liệu: trong TV, từ đơn nghĩa chiếm 61,48 %; từ ĐN chiếm
38,52 %. Và chỉ ra sự phân bố về tỷ lệ ĐN qua các từ loại chính như sau:


15

ĐỘNG TỪ

DANH TỪ
ĐN


Đơn nghĩa

30,16 %

ĐN

69,84 %

TÍNH TỪ

Đơn nghĩa

31,48 %

ĐN

69,52 %

Đơn nghĩa

27,70 %

72,30 %

Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ; tr.178, 179.

Bàn về đặc điểm tổ chức nội dung của từ ĐN, ông chỉ ra tình hình phân bố DLN
của các ĐVĐN trong TV (tính theo tỷ lệ %) như sau:
02


03

04

05

06

07

08

09

10

79,30 %

12,60

6,38

1,82

0,82

0,53

0,54


0,17

0,12

%

%

%

%

%

%

%

%

11

12

13

0,9

0,08


….

%

%

Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, tr.184.
Với quan điểm đồng đại, Lê Quang Thiêm cho rằng: nghĩa cơ bản là nghĩa
có chứa các nét nghĩa được đặt điều kiện chủ yếu bằng các quan hệ hệ hình.
Nghĩa không cơ bản là nghĩa mà các nét nghĩa tạo nên chúng phụ thuộc nhiều
vào các quan hệ cú đoạn. Trong một từ ĐN, có một nghĩa cơ bản và một số nghĩa
không cơ bản. Sự phân biệt nghĩa cơ bản, không cơ bản của một từ có thể dựa
vào các mức độ khác nhau của sự phụ thuộc nhiều hơn vào các quan hệ hệ hình
và ít hơn vào các quan hệ cú đoạn. Theo Lê Quang Thiêm, mối quan hệ về nghĩa
về mặt đồng đại được tổ chức theo 03 loại hình là: loại kế tiếp, loại song song,
xen kẽ kế tiếp với song song. Trong đó: (1) mối quan hệ kế tiếp là quan hệ đặc
trưng cho từ chỉ có 02 nghĩa và những từ nhiều hơn hai nghĩa mà các nghĩa liên
kết nhau theo tổ chức đơn tuyến, (2) mối quan hệ song song chỉ xuất hiện ở
những từ trên hai nghĩa mà các nét nghĩa liên kết theo tổ chức đa tuyến (tổ chức
hình cây, tẽ nhánh), (3) mối quan hệ xen kẽ giữa kế tiếp và song song xẩy ra với
những từ trên 03 nghĩa và theo một tổ chức phức hợp.
Bàn về giới hạn của việc phân li ĐN thành ĐÂ và tiêu chuẩn xác định
những ĐVĐÂ ngữ nghĩa ông cho rằng: “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung
trong các nghĩa của từ ĐN là tiêu chuẩn xác định ĐN và ĐÂ ngữ nghĩa”.
Trong công trình này, tác giả còn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải phân
biệt các loại quan hệ tôn ty giữa các loại nghĩa trong từ ĐN khi biên soạn TĐ


16

đồng đại và TĐ lịch đại. Theo ông, cần phân biệt hai loại quan hệ tôn ty sau: (1)
tôn ty theo tuần tự phái sinh, phát triển (tôn ty lịch đại) để phân biệt nghĩa gốc,
nghĩa phái sinh và các nghĩa phái sinh thứ cấp, (2) tôn ty hiện hành (tôn ty đồng
đại) để phân biệt nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản định danh, nghĩa không cơ
bản hình tượng (nghĩa bóng). Theo ông thì: “đối với những từ có từ 2 nghĩa trở
lên thì việc phân biệt theo tôn ty nhiều khi không thực hiện được vì rất khó xác
định niên đại và mô tả 2 ý nghĩa cùng loại. Đặc biệt là đối với kiểu sơ đồ cấu trúc
nghĩa có quan hệ hình nhánh”. Đây là một nhận xét rất chính xác.
Năm 1992, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc
Lang [31]. Hai tác giả này khi phân tích các câu mơ hồ trên chữ viết, các kiểu
câu mơ hồ về từ vựng đã gián tiếp bình luận tới nguyên nhân và tác dụng của từ
ĐÂ và từ ĐN (tr. 88, 91- 93) đồng thời chỉ ra các kiểu ĐÂ trong các từ loại, nhất
là trong các từ loại có SL lớn như dt, đg, tt (tr.113-116). Họ không những khảo
sát và chỉ ra HT mơ hồ do việc sử dụng những từ đơn tiết ĐÂ mà còn khảo sát sự
mơ hồ do sử dụng những ngữ ĐÂ, chuỗi ĐÂ (tr.113-120) và từ ĐÂ Hán Việt gây
ra như: đồng tử1 và đồng tử2 (tr.120).
Năm 1995, đáng chú ‎ ý là quan điểm của Phan Ngọc [100, tr.51-74]. Tuy
mục đích là bàn về phong cách, song qua những lập luận của tác giả, ta có thể
thấy được quan điểm của ông về HTĐÂ trong TV.
Phan Ngọc khẳng định “Mọi ngôn ngữ đều có HTĐÂ vì vỏ ngữ âm của từ
là võ đoán, không liên can gì đến nội dung của nó […] kết quả là một hình thức
ngữ âm có thể hiểu hai ba cách”. Theo tác giả, “HTĐÂ chỉ phổ biến ở những từ
chỉ có một hay hai âm tiết mà thôi, trái lại, rất hiếm ở những từ ba âm tiết trở lên
[…]. Mặt khác, ở các ngôn ngữ đơn tiết như tiếng Hán, TV, tiếng Thái…số từ
ĐÂ phải lớn hơn ở các ngôn ngữ đa tiết.” (tr. 66). Theo Phan Ngọc, nếu đã thừa
nhận trong TV có 3 lớp từ là thuần Việt, Hán Việt, láy âm thì về mặt lí thuyết, tối
đa chỉ có 6 kiểu từ ĐÂ sau: (1) thuần Việt - thuần Việt, (2) láy âm - láy âm, (3)
thuần Việt - láy âm, (4) Hán Việt - thuần Việt, (5) Hán Việt - láy âm, (6) Hán
Việt - Hán Việt.



17
Từ việc xác lập 6 kiểu từ ĐÂ, ông lần lượt đi vào khảo sát từng kiểu một và
khẳng định: “tuy về mặt cấu trúc có thể có sáu kiểu từ ĐÂ, nhưng một khi TV đã
là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐÂ giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải là cơ
bản nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện nhiều nhất, làm cơ sở cho mọi
HTĐÂ khác” (tr. 67). Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan Ngọc thì đứng ở
vị trí thứ hai trong sáu kiểu ĐÂ là kiểu Hán Việt - Hán Việt. Trong bài viết, Phan
Ngọc còn lí giải một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới HTĐÂ trong
TV khác với HTĐÂ trong THHĐ là do SL âm tiết thực sử dụng của tiếng Hán ít
hơn so với TV.
Năm 1998, đáng chú ý là quan điểm của của Nguyễn Thiện Giáp [47,
tr.147-189]. Tác giả phân chia từ vựng TV thành hai loại là từ, ngữ (ngữ định
danh, thành ngữ, ngữ láy âm, quán ngữ). Ông cho rằng “từ của TV là một chỉnh
thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết,
một khối viết liền” (tr 69). Ông quan niệm “nghĩa của từ là quan hệ” (tr. 125),
bao gồm 04 thành tố sau: (1) nghĩa sở chỉ, (2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng,
(4) nghĩa kết cấu. Tác giả chia các từ của TV thành năm loại: (1) các từ kiểu một
như: nhà, đẹp, đi…, (2) các từ kiểu hai như: sẽ, tuy, với…, (3) các từ kiểu ba như:
quốc, thủy, hỏa…, (4) các từ kiểu bốn như: búa (chợ búa), lạnh (lạnh lẽo)…, (5)
các từ kiểu năm như: bù, nhìn, bồ, hóng….
Theo ông, HTĐN trong TV có những đặc điểm riêng sau đây: (1) để biểu thị
những SV, HT hoặc khái niệm mới, TV có thiên hướng cấu tạo các ĐV từ vựng mới
hơn là phát triển nghĩa của các ĐV từ vựng đã có từ trước, (2) số ĐV có nhiều nghĩa
cũng như số nghĩa trong những từ ĐN của TV đều thấp hơn so với nhiều ngôn ngữ
khác, trong khi đó, SL các ĐV từ vựng mới tăng lên rất nhanh, đặc biệt là những ĐV
hai âm tiết, (3) HTĐN của TV chủ yếu xảy ra ở các từ, ở các ngữ thì tỷ lệ ĐN chỉ
khoảng 1/10 và cũng chỉ có hai hoặc ba nghĩa mà thôi. Các ngữ ĐN phần lớn là có
nguồn gốc Hán.
Theo Nguyễn Thiện Giáp, HT từ ĐN của TV chỉ bao gồm 2 kiểu sau đây:

(1) HTĐN của các từ kiểu một (nhà, đẹp, đi) và (2) HTĐN của các từ kiểu ba
(quốc, thủy, hỏa). Tiến hành thống kê, phân tích những từ ĐN kiểu một trong


18
TĐTV do Văn Tân chủ biên, ông nhận xét: (1) số từ ĐN chiếm khoảng 33% tổng
số (33% tổng số từ kiểu một, là những từ thuần Việt và đều là đơn tiết), trong
đó những từ có 2 và 3 nghĩa chiếm khoảng 86% tổng số từ ĐN, từ nhiều
nghĩa nhất là 19 nghĩa, (2) về tỉ lệ ĐN ở các từ loại, đg có tỉ lệ cao nhất
(32%), kế đó là dt (23%), cuối cùng là tt (20%).
Phân tích các nghĩa của mỗi từ ĐN, tác giả đi đến 2 nhận xét sau: (1) Các
nghĩa của mỗi từ ĐN có thể thuộc hai loại là: nghĩa tự do (là nghĩa liên hệ trực
tiếp với sự phản ánh các HT của TTKQ), sự hoạt động của các nghĩa này không
bị hạn chế vào các ngữ cố định, có mối quan hệ đa dạng. Nghĩa hạn chế (là nghĩa
chỉ được thể hiện trong những kết hợp hạn chế, do quy luật nội tại của hệ thống
từ vựng quy định, không do nội dung lô gích của các từ quy định). Theo tác giả,
đối với TV thì nghĩa hạn chế là HT phổ biến hơn trong các ngôn ngữ khác vì TV
đã và đang phát triển mạnh khả năng cấu tạo các ngữ bởi chính các nghĩa hạn chế
góp phần tạo ra tính cố định của các cụm từ. (2) Trong các nghĩa của một từ ĐN,
có một nghĩa là cơ bản còn các nghĩa khác là phái sinh. Theo ông, nghĩa cơ bản
thường phải là nghĩa tự do. Trong trường hợp từ có một vài nghĩa tự do thì sẽ có
một nghĩa tự do là cơ bản, các nghĩa khác là nghĩa tự do phái sinh.
Trong phần III của Từ vựng học TV (tr.147-189), HTĐÂ cũng là một trong
sáu trọng tâm được Nguyễn Thiện Giáp đề cập tới. Trong phần Nhận xét chung,
trước tiên, ông coi HTĐÂ là một phổ niệm trong ngôn ngữ. Kế đó, tác giả đi vào
phân tích, so sánh HTĐÂ trong các loại hình ngôn ngữ đơn lập và biến hình với
ngữ liệu từ tiếng Anh, tiếng Nga, TV, tiếng Hán. Đáng chú ý là 5 nhận xét sau:
(1) HTĐÂ thường xảy ra trong phạm vi những từ ngắn, có cấu trúc đơn giản
do có tính võ đoán cao.
(2) Trong các ngôn ngữ Ấn Âu, từ ĐÂ thường là các từ đơn. Trong TV, do mỗi

âm tiết đồng thời là một từ, cấu trúc âm tiết TV lại gồm các thành phần (âm đầu, vần,
thanh điệu. Vần lại chia ra thành âm chính, âm cuối, âm đệm), mỗi thành phần của
âm tiết làm thành một đối hệ do đó các thành phần cấu tạo âm tiết luôn có mặt. Vì
vậy, HTĐÂ trong TV chắc chắn phổ biến hơn các ngôn ngữ Ấn Âu.


19
(3) HTĐÂ phụ thuộc rất nhiều vào SLÂT được ngôn ngữ sử dụng là nhiều hay
ít. TV sử dụng khoảng 6000 âm tiết, còn tiếng Hán chỉ sử dụng một SL ít (khoảng
1/10 TV) cho nên HTĐÂ trong tiếng Hán phổ biến hơn, nhiều hơn trong TV.
(4) So với các tiếng Ấn Âu, từ ĐÂ trong TV có những phẩm chất khác như
sau: (a) Vì TV không biến hình cho nên các từ đã có quan hệ ĐÂ sẽ giữ mãi
quan hệ đó trong tất cả hoàn cảnh sử dụng của mình, không có HTĐÂ ở một
dạng thức biến đổi nào đó của từ, TV chỉ có một dạng ĐÂ hoàn toàn mà thôi. (b)
Vì trong TV, mỗi hình vị là một từ cho nên cũng không có sự đối lập giữa HTĐÂ
gốc từ và HTĐÂ phái sinh, chỉ có một loại ĐÂ gốc từ mà thôi.
(5) Trong TV, tuy có HTĐÂ giữa các ngữ và các cụm từ như: băng hà1 và
băng hà2… nhưng HTĐÂ của từ vẫn là cơ bản và quan trọng nhất bởi: (a) HTĐÂ
hoàn toàn của ngữ hoặc cụm từ tự do ít hơn rất nhiều so với HTĐÂ của từ. (b)
HTĐÂ của ngữ và cụm từ thường chỉ tạo nên từng cặp một, trong khi ấy, loạt
ĐÂ của từ khá phong phú, có khi lên tới 8 hay 9 thành viên. (c) Sự ĐÂ của từ
quyết định toàn bộ sự ĐÂ của những ĐV khác vì các ngữ, các cụm từ tự do ĐÂ
với nhau là do từng từ một tạo nên, chúng có quan hệ ĐÂ với nhau. HTĐÂ của
ngữ và cụm từ chỉ là sản phẩm hậu kỳ do kết quả của quá trình sử dụng có dụng
ý của con người. (d) Các HTĐÂ trong TV đều bắt nguồn từ sự ĐÂ của các từ và
cần phải xuất phát từ sự ĐÂ của các từ để soi sáng các HTĐÂ khác là phù hợp
với thực tế TV. Tuy kết luận như vậy, nhưng tác giả cũng nêu lên những ngoại lệ
sau: anh nuôi1 và anh nuôi2 (theo tác giả là hai từ ghép); ý thức1 và ý thức2; hy
vọng1 và hy vọng2… cũng không phải là do ĐÂ của những từ đơn tiết tạo ra mà
được hình thành từ HTCL.

Căn cứ vào năm kiểu từ khác nhau về nghĩa đã được phân chia, tác giả chia
từ ĐÂ thành 14 kiểu quan hệ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, bức tranh về HTĐÂ của
TV rất đa dạng, trong một loạt ĐÂ của TV có thể có trên dưới 10 từ thuộc các
kiểu khác nhau (tr.173). Nguyễn Thiện Giáp còn bình luận về tác dụng của từ
ĐÂ. Theo ông, trong 14 kiểu quan hệ trên, chỉ có hai kiểu quan hệ có thể gây ra
sự hiểu lầm đó là: kiểu từ thuần việt - từ Hán Việt (kiểu 1.3) và kiểu từ Hán Việt
- từ Hán Việt (kiểu 3.3). Theo ông, sở dĩ các từ kiểu 1.3 và 3.3 dễ gây hiểu lầm


20
bởi chúng không hoạt động tự do nhưng cũng không chỉ nằm trong những kết
hợp đơn nhất, nghĩa của chúng ít nhiều có sự cộng hưởng với nghĩa của các từ
cùng kết hợp với chúng, vì vậy người ta khó nhận ra nghĩa riêng của từng từ. Ví
dụ: nghĩa của các từ đại trong các kết hợp đại ác; đại biểu, thời đại…
Theo Nguyễn Thiện Giáp, có bốn con đường hình thành nên các ĐVĐÂ của
TV, đó là: (1) do sự tiếp nhận các từ nước ngoài, trong đó, các từ gốc Hán tạo
nên SL lớn các loạt ĐÂ trong TV, (2) do sự biến đổi ngữ âm, (3) do sự phân hóa
ý nghĩa của từ ĐN, (4) do sự hình thành các ĐV từ vựng mới trên chất liệu cũ.
Bàn về vấn đề phân biệt ĐVĐN và ĐVĐÂ trong TV, tác giả cho rằng: “TV
là ngôn ngữ không biến hình cho nên không thể áp dụng tiêu chuẩn hình thái của
từ vì hoàn toàn không có tác dụng”. Ông chủ trương vận dụng tiêu chuẩn ngữ
nghĩa, theo ông “khi một ý nghĩa của một ĐV nhiều nghĩa bị phân hóa xa đến
mức cái nghĩa tố chung vốn có của ý nghĩa này với các ý nghĩa khác của từ trở
nên không quan yếu đối với nó nữa, đặc trưng cho ý nghĩa này là một nghĩa tố
khác, chính nghĩa tố đó đưa từ nhập vào một trường HT mới, khi đó có thể coi
như đã xuất hiện một từ mới”.
Năm 1998, có quan điểm của tập thể tác giả Hoàng Văn Hành, Hà Quang
Năng, Nguyễn Văn Khang [57, tr.143-184]. Xuất phát từ quan điểm của
Bloomfield, họ cho rằng: “hình vị là ĐV ngôn ngữ nhỏ nhất, có nghĩa”. Các tác
giả này tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về từ song họ thừa nhận “từ

là ĐV cơ bản của TV”.
Theo họ, ĐÂ và nhiều nghĩa là những khái niệm khác nhau trong ngôn ngữ
học. Song có một điểm chung là: “sự khác nhau về ý nghĩa trong khi đồng nhất
về hình thức”, điểm khác biệt giữa hai HT này là ở chỗ: “trong trường hợp ĐÂ
thì những cái được biểu hiện là khác nhau, còn trong trường hợp nhiều nghĩa thì
cái biểu hiện chỉ là một” (tr.159). Theo họ, “Hệ thống các nghĩa của từ ĐN chính
là toàn bộ các mối liên hệ [...] bị chế định theo một kiểu nhất định [...] và được
bảo đảm bằng tính liên tục của các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa riêng rẽ của
hệ thống... chỉ cần tính liên tục này bị phá hủy, bị đứt đoạn dù chỉ ở một chỗ, chỉ
cần một mắt xích bảo đảm cho tính liên tục này bị mất đi thì sự thống nhất về


21
ngữ nghĩa của từ sẽ bị phá vỡ và khi đó xảy ra sự phân rã HT nhiều nghĩa, tức là
biến một từ nhiều nghĩa thành hai từ ĐÂ không có liên hệ gì với nhau
nữa”(tr.161). Theo họ, “để nhận biết sự tồn tại hay vắng mặt các quan hệ phái
sinh giữa các nghĩa có thể dùng: phương pháp phân tích thành tố, phương pháp
so sánh cách giải thích của từ điển, phương pháp cải biến cách giải
thích”(tr.162)... Họ đưa ra 02 tiêu chí sau để xác định HTĐÂ trong TV: (1) đồng
nhất về mặt biểu hiện (trùng về âm thanh), (2) khác nhau về bình diện được biểu
hiện (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp).
Năm 1999, có quan điểm của Diệp Quang Ban [03, tr.69-70]. Ông quan
niệm: “từ là ĐV nhỏ nhất mà có nghĩa và có thể hoạt động tự do trong câu”. Khi
bàn về yếu tố ngoại lai trong CTT TV, tác giả có đề cập tới HTĐÂ trong TV.
Ông khẳng định: “các yếu tố Hán vừa chiếm đa số vừa giữ vai trò khá quan trọng
trong vốn từ và trong CTT TV”. Theo ông, “các yếu tố gốc Hán du nhập vào TV
vốn tự chúng đã chứa nhiều trường hợp ĐÂ như: thủy1 (nước), thủy2 (bắt đầu,
trước...). Thêm vào đó là những trường hợp ĐÂ giữa các yếu tố gốc Hán với các
yếu tố thuần Việt như: công1 (thuần Việt) có nghĩa là “tha đi” như trong chim
công mồi...và công2 (Hán Việt) có ý nghĩa là “chung cho mọi người” như trong

của công, ruộng công...
Năm 1999, Lê Biên [05, tr.177-183] dưới góc độ cú pháp học, gián tiếp
trình bày quan điểm của mình về từ ĐÂ và ĐN khi trình bày HTCL trong TV.
Theo tác giả, HTCL có liên quan đến HTĐÂ, ĐN của từ: chuyển loại không phải
là HTĐÂ từ vựng mà là ĐÂ – ngữ pháp (ĐÂCG). Theo tác giả, “đây là những từ
giống nhau về hình thức ngữ âm (ĐÂ), cùng gốc (xét về nghĩa) mà hiện nay được
sử dụng thành hai từ khác nhau về bản chất từ loại” (tr.179).
Năm 1999, Bùi Minh Toán [133, tr.61-68; tr.79,101] trình bày quan điểm của
mình về từ ĐÂ và ĐN trong TV. Tác giả cho rằng: “từ là ĐV nhỏ nhất mà có nghĩa
và có thể dùng độc lập để tạo câu, đồng thời là ĐV nhỏ nhất mà thực hiện được một
số chức năng đối với tư duy và giao tiếp” (tr 39). Theo ông, nghĩa của từ bao gồm:
(1) thành phần NBV, (2) thành phần NBN, (3) thành phần nghĩa tình thái.


22
Ông cho rằng: “Từ ĐÂ là những từ có hình thức âm thanh hoàn toàn giống
nhau nhưng lại khác hẳn nhau về ý nghĩa và có thể khác nhau cả về các phương
diện khác như bản chất ngữ pháp, chức năng trong giao tiếp, sắc thái phong
cách...” (tr. 61). Theo ông, từ ĐÂ là HT có trong nhiều ngôn ngữ. Nhưng có
những ngôn ngữ, từ ĐÂ chỉ tồn tại trong dạng ngôn ngữ nói, còn khi hoạt động
giao tiếp tiến hành bằng ngôn ngữ viết thì chữ viết hiện thực hóa sự khác nhau
giữa những từ ĐÂ khác nghĩa. Lúc đó, các từ ĐÂ chỉ giống nhau khi nói hoặc
khi đọc, còn khi viết, chúng được hiện thực hóa theo các dạng chữ viết khác nhau.
Điều này thể hiện rõ trong các loại chữ viết như chữ Hán. Ông nêu ví dụ : trung1
中 có nghĩa là: ở giữa và: trung2 忠 có nghĩa là: sự trung thành, một lòng một dạ.
Theo Bùi Minh Toán, trong TV “các từ ĐÂ có sự giống nhau cả ở hình thức
âm thanh khi nói, cả ở hình thức văn tự khi viết. Nếu viết các từ ĐÂ bằng chữ quốc
ngữ và viết rời từng từ thì ta không thể phân biệt được chúng với nhau”. Theo ông,
trong TV, đại đa số các từ ĐÂ là từ đơn tiết. Tuy vậy vẫn có từ ĐÂ đa tiết. Cũng
theo tác giả, “không chỉ ở bình diện nghĩa mà ở bình diện ngữ pháp cũng có từ ĐÂ.

Nhưng chúng mang những thuộc tính và bản chất ngữ pháp hoàn toàn khác nhau.
Chúng thuộc các hệ thống từ loại khác nhau, do đó chúng hiện thực hóa các thuộc
tính ngữ pháp khác nhau khi tham gia hoạt động giao tiếp”, (tr.79). Ông nêu ví dụ :
là1 (là dt, chỉ hàng tơ, thưa, mỏng), là2 (là đg, chỉ hành động làm phẳng quần áo),
là3 (chỉ hành động sà xuống gần sát mặt phẳng nằm ngang nào đó), là4 (là hệ từ) Nó
là sinh viên, là5 (là tình thái từ) trông nó hiền hiền là.
Theo chúng tôi, mặc dù tác giả đã nêu lên được một số đặc điểm cơ bản của
HT từ ĐÂ, ĐN trong một số ngôn ngữ và trong TV, song khái quát chưa đủ,
chưa toàn diện. Chẳng hạn, khi bàn về HTĐÂ trong THHĐ ông đã bỏ sót HT
ĐÂĐT và những HTĐÂ trong khi nói nhưng trên chữ viết lại phân biệt trong TV.
‎Năm 2001, đáng lưu ý là công trình Từ điển đồng âm tiếng Việt của tập thể
tác giả Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành, [58].
Công trình thu thập và giải thích khoảng 7000 ĐVĐÂ (bao gồm từ, ngữ và các
yếu tố CTT), đây là một trong số rất ít những công trình thực hiện nhiệm vụ thu thập,
xử lí những ĐVĐÂ trong TV. Mặc dù kết quả thống kê, phân loại và xử lí của họ vẫn


23
còn tồn tại những nhược điểm như: bỏ sót khá nhiều ĐV ĐÂST của TV… song đóng
góp của họ là quan trọng và rất đáng ghi nhận.
Năm 2007, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Văn Khang [69, tr.144198]. Những nội dung liên quan tới HT từ ĐÂ, ĐN trong TV chủ yếu được tác
giả khai thác từ góc độ từ ngoại lai.
Theo tác giả, khi các từ Hán Việt hoạt động trong TV đã tạo ra xung đột ĐÂ: Thứ
nhất là HTĐÂ xảy ra giữa các từ Hán Việt với từ Việt như: 埃 (ai) bụi ĐÂ với ai (đại
từ);布(bố) vải ĐÂ với bố (cha);车(xa) xe ĐÂ với xa (nói về khoảng cách). Thứ hai, là
HTĐÂ xảy ra giữa các từ Hán Việt với nhau như:平 (bình) bằng ĐÂ với 评 (bình) bình
luận;人(nhân) người ĐÂ với 仁 (nhân) nhân đức (tr.144).
Theo tác giả, HTĐÂ có thể xảy ra giữa từ với từ, giữa hình vị với hình vị,
giữa hình vị với từ như: yếu 要(quan trọng, là hình vị) ĐÂ với yếu (không khỏe, là
từ) lưu 留(giữ, ở lại; là từ) ĐÂ với lưu 流 (chảy, là hình vị). Mặt khác, ĐÂ không

chỉ liên quan tới các từ đơn tiết mà còn liên quan tới cả những từ Hán Việt đa tiết
như: yếu điểm1 (điểm quan trọng) và yếu điểm2 (điểm chưa đạt, chưa tốt). Ông còn
thảo luận về HT: người Việt khi sử dụng từ Hán Việt đã đem những từ Hán Việt
có âm đọc giống nhau, có nghĩa gần nhau, chữ viết gần giống nhau nhập lại thành
một từ ĐN do phiên chuyển những ĐV này sang hệ chữ la tinh như những trường
hợp có âm đọc là chi, luyện, bản, dục, man, phản... trong một số cuốn từ điển của
người Việt.
Về những từ ngoại lai gốc Pháp (tr.257-320), theo tác giả, cũng như những
từ Hán Việt, từ mượn Pháp khi nhập vào TV, do quá trình Việt hóa về mặt ngữ
âm đã làm cho các từ mượn Pháp một mặt ĐÂ với các từ Việt vốn có, mặt khác
ĐÂ với các từ mượn Pháp khác (vốn trong tiếng Pháp chúng không ĐÂ), thậm
chí là ĐÂ với những từ mượn trong các ngôn ngữ khác như: can (canne và
calque) với can (can ngăn) và can (can đảm); băng (đạn) và băng (tuyết), băng
(qua cánh đồng)...


24
Theo tác giả, “cũng giống như HT du nhập của các từ mượn Hán, do sự gần
nhau về nghĩa và ĐÂ nhờ Việt hóa mà có HT nghĩa của các từ Pháp khác nhau
được xếp thành một từ ĐN như cách xử lí từ băng thành một từ ĐN trong các từ
điển TV là kết quả của việc đồng hóa và đập nhập ngữ nghĩa của các từ ĐÂ gần nghĩa trong tiếng Pháp như: bande, bandeau, bande role, ruban, panser...
thông qua nét nghĩa chung dải dài và hẹp để dùng vào việc gì đó”.
2.2. Ở Trung Quốc, ngay từ giai đoạn 1950 – 1976, HTĐÂ, ĐN đã nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu như: Cao Danh Khải, Tôn
Thường Tự, Chu Tổ Mạc, Thôi Hạ Ái, Hà Ái Nhân, Vương Cần – Võ Chiếm
Khôn….Đối với HT từ ĐÂ, trong giai đoạn này có 02 quan niệm rộng và hẹp.
Đại diện cho quan niệm rộng là Tôn Thường Tự [200, tr.199]. Ông cho rằng: “từ
có hình thức ngữ âm tương đồng và có nghĩa khác biệt nhau gọi là từ Đ”. Sở dĩ
chúng tôi xếp Tôn Thường Tự vào quan niệm rộng là bởi cách hiểu của ông về
tiêu chí ngữ âm tương đồng có điểm khác biệt với những tác giả khác. Trong các

ví dụ đưa ra của ông có cả những từ vốn không cùng thanh điệu. Chẳng hạn: dūn
吨 (đốn; mang thanh một: tấn) và: dùn 吨 (đốn; mang thanh bốn: bữa, trận); dà
yi 大意 (đại ý; mang thanh bốn và thanh nhẹ: sơ xuất, vô ý) và: dà yì 大意(đại ý;
mang hai thanh bốn: đại ý, ý chính) đều được xếp vào hai loạt ĐÂ. Ngày nay, (dūn 吨)
và (dùn 吨) được xếp vào những từ ĐH nhưng không ĐÂ còn (大意 dà yi) và (dà yì
大意) được xếp vào hai từ song tiết đồng từ tố.
Đại diện cho quan niệm hẹp là Hà Ái Nhân, Chu Tổ Mạc, Cao Danh Khải
và một số tác giả khác. Cao Danh Khải [169, tr.300] cho rằng: “hai hoặc hơn hai
từ phát âm giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác biệt gọi là từ Đ”. Hà Ái
Nhân [183] cho rằng: “từ ĐÂ là chỉ những từ có kết cấu âm tiết và thanh điệu
tương đồng và có ý nghĩa khác nhau”. Chu Tổ Mạc [177, tr.23] quan niệm “từ
ĐÂ là chỉ những từ có âm tố và thanh điệu hoàn toàn tương đồng… nếu chỉ là âm
tố tương đồng mà thanh điệu không giống nhau thì đó không thể gọi là từ Đ”.
Vương Cần, Võ Chiếm Khôn [159] còn chỉ rõ hơn: “cái gọi là hình thức ngữ âm


25
tương đồng là chỉ thanh, vận, điệu của từ… còn những từ nào đó mà có sự khác
biệt nhau về một trong các yếu tố thanh, vận, điệu thì không phải là từ Đ”.
Về vấn đề phân loại từ ĐÂ, các tác giả giai đoạn này có xu thế chia từ ĐÂ
thành bốn loại: (1) do ngữ âm biến đổi, (2) do âm đọc ngẫu nhiên trùng nhau, (3)
do sự phân hóa ý nghĩa của từ ĐN nhưng vẫn bảo lưu được âm đọc, (4) do mượn
dùng từ ngoại lai. Do ở thời kỳ này các khái niệm như từ, tự đã được phân biệt rõ
ràng nên một số tác giả như Chu Tổ Mạc [177], Hà Ái Nhân [183] còn đề nghị
phân biệt rõ tự ĐÂ và từ ĐÂ còn Thôi Hạ Ái [150] cùng một số tác giả khác như
Vương Cần, Võ Chiếm Khôn [159] lại đề nghị phân biệt từ ĐÂ dưới góc độ tự
hình với hai kiểu: ĐÂĐH và ĐÂDH.
Quan điểm cho rằng từ ĐÂ và từ đồng hình đều thuộc về vấn đề hình thức
cũng được nêu ra ở giai đoạn này. Chẳng hạn, Vương Cần – Võ Chiếm Khôn
[159] một mặt cho rằng “trong từ vựng, từ có âm nghĩa khác nhau, chỉ có hình

thức chữ viết giống nhau, nhìn từ góc độ văn tự ta gọi nó là từ đồng hình”, mặt
khác, họ bổ sung thêm: “phạm vi của từ đồng hình đương nhiên không phải là
tuyệt đối, không phải là không mở rộng được… nhưng nếu khảo sát từ phương
diện ngữ nghĩa thì nên đẩy nó vào đối tượng nghiên cứu của từ đồng hình dị âm”.
Thôi Hạ Ái [150] lại cho rằng: “một tổ hợp từ mà có ý nghĩa hoàn toàn
không giống nhau, âm đọc không giống nhau, chỉ giống nhau về hình thể gọi là
từ đồng hình. Hai tổ hợp từ mà có hình thức chữ viết giống nhau còn thì khác
nhau thì đó chính là đặc điểm của từ đồng hình”. Theo chúng tôi, quan niệm trên
của Thôi Hạ Ái là không chính xác bởi bản chất của từ đồng hình là chỉ xét ở
phương diện hình thức (văn tự), chỉ cần hình thức văn tự giống nhau thì đó là từ
đồng hình, nhưng nếu gặp hai tổ hợp từ có hình thức văn tự giống nhau, có nghĩa
khác nhau (vốn là hai từ ĐÂĐH với nhau) thì xử lí sẽ mâu thuẫn bởi chúng
không thể vừa là từ đồng hình lại vừa là từ ĐÂĐH được.
Một số tác giả thời kỳ này còn đi vào bình luận về tác dụng của từ ĐÂ (tác
dụng tích cực và tiêu cực) đối với quá trình giao tiếp của con người cũng như chỉ
ra những đặc trưng nổi bật của tiếng Hán. Theo họ, một trong những nét đặc thù


×